Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chờ Mặt Trời Lên

Chờ mặt trời lên là một cuốn tiểu thuyết trinh thám li kì về chàng diễn viên đẹp trai, hào hoa, Lysander Rief, khi bị ép phải dấn thân vào cuộc đời một điệp viên để giải mã những bí ẩn liên quan đến vận mệnh của Tổ quốc. Năm 1913, Lysander từ Anh quốc đến Vienna để chữa trị chứng rối loạn cực khoái cảm – một vấn đề tế nhị nhưng có ý nghĩa sống còn với cuộc đời mỗi con người. Đúng tại đây, anh gặp Hettie Bull, một cô nàng nghệ sĩ có vẻ đẹp lạ lùng, có khả năng từng bước chế ngự anh, chữa khỏi bệnh cho anh, dù rằng mỗi người đều đang có một nửa của mình. Những tháng ngày ngất ngây vụng trộm trong tình yêu tưởng chừng cứ vậy trôi qua bất chấp tất cả, thì bất ngờ Hettie cáo buộc Lysander tội cưỡng dâm, đẩy anh vào những tình huống vô cùng khổ sở vật vã, đến mức phải đào tẩu trở về quê nhà nhờ sự giúp sức của những nhân viên ở đại sứ quán Anh đi kèm điều kiện là một khoản tiền nợ mà Lysander phải mất cả đời để trả. *** Sinh năm 1952, William Boyd là một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Scotland. Các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông đã được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ và dành nhiều giải thưởng lớn trên các văn đàn thế giới, đặc biệt là về truyện trinh thám, điệp viên. Trong đó có A Good Man in Africa, đạt giải Whitbread và Somerset Maugham; An Ice-cream War đạt giải John Llewllyn Rhys và được đề cử cho giải Booker; Brazzaville Beach đạt giải James Tait Black Memorial, Any Human Heart đạt giải Prix Jean Monnet; Restless đạt giải Costa Novel of the Year… Vào tháng 4 năm 2012 William Boyd được tổ chức Ian Fleming (tổ chức duy trì và bảo tồn các tác phẩm về James Bond từ khi tác giả Ian Fleming qua đời mời chắp bút cho phần tiếp theo câu chuyện của siêu Điệp viên 007 James Bond. Dự kiến cuốn tiểu thuyết sẽ được công bố vào mùa thu năm 2013, nhân dịp kỷ niệm 60 năm kể từ ngày Ian Fleming ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tiên về Điệp viên 007. *** 1913, chàng diễn viên điển trai ăn mặc bảnh bao người Anh, Lysander Rief đang rảo bước trên những con phố thành Vienna với tâm trạng bồn chồn, rối bời trước buổi trị liệu tâm lí đầu tiên với bác sĩ Bensimon. 1914, Binh nhì Lysander Rief đã tình nguyện nhập ngũ khi chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, với nhiệm vụ là tiếp xúc và trấn an các tù binh người nước ngoài bị tạm giam tại Anh. 1915, Đại úy Lysander Rief, một quân nhân được biệt phái đến Bộ Tham mưu của Anh với quyền hạn và nhiệm vụ vô cùng đặc biệt của một điệp viên ngầm giữa thế giới đầy rối ren, nơi ranh giới giữa sự thật và dối trá chỉ mong manh trong chớp mắt. Anh phải tìm ra chìa khóa giải mã bí mật liên quan đến sự an nguy của Anh quốc, và phải sử dụng tất cả các kỹ năng có thể để thế giới tối tăm của những nghi ngờ và phản bội không xâm phạm và làm phương hại đến cuộc sống của anh - mẹ anh, con trai anh, và những người anh yêu thương. Chờ mặt trời lên là một cuộc hành trình vào miền tâm lý con người, một bức tranh khổng lồ về chiến tranh Thế giới thứ nhất ở châu Âu, một cốt truyện đan xen nhiều tình tiết như một cuộc đua đầy áp lực đến nghẹt thở, và một hồi kết vô cùng bất ngờ nhưng cũng thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc. *** Điều ngỡ là thật lúc bình minh sẽ là ảo ảnh dưới nắng trưa. ERNEST HEMINGWAY Nói dối thật chẳng ra gì; nhưng khi sự thực có nguy cơ gây ra một cú sốc kinh khủng thì nói dối có thể tha thứ được. SOPHOCLES “Một siêu phẩm. Đọc truyện của William Boyd giống như mở một chai rượu, châm lửa hút thuốc, ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành và chắc chắn rằng tác phẩm này sẽ đưa bạn đến một chuyến đi vô cùng thú vị mà không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra”. (The Spectator - UK) “Hơn hết thảy, Chờ mặt trời lên là một dấu mốc điển hình của cách kể chuyện: tinh khôn, khéo léo, hài hước, và luôn luôn cuốn hút… Đây là sự kiện văn học của năm”. (The Times - UK) “Một tiểu thuyết về điệp viên đầy gợi mở và có nhịp độ nhanh…” (The New York Times Book Review) *** Một Anh chàng khá Điển trai MỘT NGÀY HÈ trời trong và rực rỡ tại Vienna. Bạn đang đứng giữa một vùng nắng vàng chanh hình sao năm cánh nghiêng, tại một góc ngoặt giữa đường Augustiner Strasse và đường Augustinerbastei, đối diện nhà hát opera. Bạn đứng đó lười nhác ngắm nhìn cả thế giới trôi qua trước mắt, đợi chờ ai hay điều gì khiến bạn chú ý và run lên vì phấn khích. Không khí của thành phố hôm nay có vẻ lạnh lẽo đến kinh ngạc, gần giống như mùa xuân dù đã qua lâu rồi. Nhưng bạn vẫn nhận ra một chút cái bồn chồn của mùa xuân ở những người đi qua, sự sôi nổi tiềm tàng trong không khí và có thể là cả sự liều lĩnh - dù tại thành Vienna này, chẳng ai dám nói sự liều lĩnh ấy có thể là cái gì… Dù thế bạn vẫn mở to mắt, bình thản đến lạ lùng, sẵn sàng đón nhận bất kì điều gì - một mẩu vụn bánh mì hay một đồng xu lăn - mà thế giới này có thể ném xuống con đường bạn đang đi. Và rồi bạn thấy- ngay bên phải một thanh niên đang sải bước ra khỏi công viên Hofgarten. Độ ba mươi tuổi, có thể gọi là đẹp trai, nhưng anh ta hấp dẫn bạn vì không đội mũ, một điều bất thường giữa đám đông dân Vienna hối hả này, ai cũng mang mũ, nam cũng như nữ. Và khi anh đi lướt qua, bạn sẽ phải để ý đến mái tóc nâu đẹp nhẹ bay theo gió, bộ vest màu xám nhạt và đôi giày màu máu bò bóng lộn. Anh có vóc người trung bình nhưng đôi vai rộng, khổ người cân đối của dân thể thao. Bạn sẽ nhận ra điều này khi anh chỉ cách bạn hai bước chân. Mày râu nhẵn nhụi - cũng là một điều lạ ở nơi đây, thành phố của râu ria - và tấm áo choàng được may rất khéo, bó sát eo lưng cùng những nếp gấp tỉ mỉ của chiếc khăn tay lụa màu xanh nhạt nằm hững hờ trên túi áo ngực. Có điều gì đó kĩ tính và thận trọng trong cách ăn mặc - có thể thấy anh khá đẹp trai nên cũng có vẻ là một kẻ biết ăn diện. Bạn quyết định đi theo anh vài phút, vì vô tình bị hấp dẫn và cũng vì chẳng có việc gì hay hơn để làm. Trên đường vào quảng trường Michaeler Platz, người thanh niên ấy đột ngột dừng bước, nhìn chằm chằm vào cái gì đó trên tấm biển quảng cáo rồi lại đi, gấp gáp, như thể không muốn trễ một cuộc hẹn. Bạn theo anh đi quanh khu phố và rẽ vào đường Herrengasse - vài tia nắng chiếu xiên rọi sáng những chi tiết trên các tòa nhà khổng lồ, vững chắc, phủ bóng đen sắc lạnh, tối om lên các cột tượng đàn bà và các trụ ngạch, trán tường và mái gờ, lan can và dầm đầu cột. Anh dừng chân tại một ki ốt bán báo và tạp chí nước ngoài, chọn mua tờ The Graphic, mở ra đọc các đề mục. À, anh là người Anh - thế mới chán - hết cả hứng tò mò. Bạn quay về chỗ có ánh mặt trời nắm góc lúc nãy, hi vọng sẽ bắt gặp được vài thứ hấp dẫn hơn, bỏ mặc chàng người Anh sải bước đến bất kỳ đâu và gặp bất kì ai anh ta muốn… Tay lơ đãng vuốt nhẹ mái tóc thẳng đẹp, Lysander Rief trả tiền mua tờ Graphic số ra ba ngày trước (bản nước ngoài), liếc nhìn vào một đề mục - “Hiệp định đình chiến được ký kết tại Bucharest - Kết thúc Chiến tranh Balkan lần Thứ hai”. Cái mũ! Chết tiệt. Anh quên đâu nhỉ? Trên ghế đá ở Hofgarten - dĩ nhiên rồi - nơi anh đã ngồi mất mười phút nhìn chằm chằm một luống hoa trong thế tiến thoái lưỡng nan đầy sợ hãi, bối rối tự hỏi có phải mình đang làm đúng, bất ngờ cảm thấy không tin tưởng vào bản thân với chuyến đi đến Vienna lần này và tất cả những gì được cảnh báo trước đó. Nếu tất cả là một sai lầm, vô vọng và về cơ bản là vô nghĩa thì sao? Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Mẹ kiếp, lại thế rồi. Anh sẽ trễ hẹn nếu quay lại. Anh thích cái mũ rơm vành hẹp với dải lụa màu nâu sẫm, mua ở hiệu Lockett trên phố Jermyn. Người ta sẽ lấy nó ngay thôi, anh chắc chắn - một lý do khác để không cần quay lại thêm lần nữa tự nguyền rủa sự sao nhãng của mình và tiếp tục sải bước lên đường Herrengasse. Qua chuyện này bạn có thể thấy anh căng thẳng, bối rối như thế nào. Rời khỏi chiếc ghế đá và quên biến cái mũ. Rõ ràng sự căng thẳng hoàn toàn dễ hiểu và rõ nét kia vẫn chưa nói hết được sự khiếp đảm, hốt hoảng của anh trước buổi gặp này. Bình tĩnh, anh tự nhủ, lắng nghe tiếng lộp cộp đều đặn của những miếng kim loại hình trăng lưỡi liềm dưới gót giày da khua trên mặt đường lát đá - bình tĩnh, Chỉ là một cuộc hẹn đầu tiên thôi - ta có thể bỏ đi, quay về London - chẳng ai ép ta phải đến đó. Anh thở mạnh. “Đó là một ngày đẹp trời tháng Tám năm 1913”, anh tự nói thành tiếng nhưng bằng giọng thấp để thay đổi chủ đề và điều chỉnh lại tâm trạng mình. “Es war ein schöner Augusttag des Jahres.. à năm 1913”, anh lặp lại bằng tiếng Đức, thêm phần ngày tháng bằng tiếng Anh. Lysander gặp rắc rối với những con số - những số dài và ngày tháng. Dù vốn tiếng Đức đang tiến bộ nhanh nhưng anh vẫn phải hỏi ông Barth, giáo viên tiếng Đức trong khoảng một tiếng về những con số, để cố gắng ghim chúng vào đầu. “Ein schone Augusttag”. Anh thấy một tấm áp phích khác bị xé trên tường, giống tấm áp phích anh đã để ý khi vào Michaeler Platz - đây là lần thứ ba anh thấy nó kể từ khi rời khỏi phòng trọ sáng nay. Tấm áp phích bị xé nham nhở trên pa nô. Tấm đầu tiên - ngay cạnh trạm chờ tàu điện ngầm gần căn phòng anh đang thuê - anh tập trung nhìn phần cơ thể còn lại (cái đầu đã mất) của một cô gái ăn mặc hở hang. Cô ta gần như khỏa thân, nằm co rúm, hai tay khum lại như muốn che giấu bộ ngực ngoại cỡ, đường cong mờ ảo nửa kín nửa hở của tấm mạng che tự tạo này chẳng thể che được đường nối đầy đặn ở hai hông cô ta. Sự lõa thể của bức họa này có điều gì đó hấp dẫn một cách đặc biệt, song lại cách điệu hóa bối cảnh xung quanh cô ta (cái tấm mạng bằng tay, nửa kín nửa hở ấy khiến anh phải dừng lại, nhìn gần hơn. Anh không hiểu nội dung bức ảnh này là gì vì mọi thứ khác đều đã bị xé hết. Tuy nhiên, trên tấm áp phích bị xé thứ hai, phần cuối còn thấy một cái đuôi thằn lằn có hình như vảy cá, có răng cưa. Điều này đã giải thích tại sao bức họa nữ thần, nữ chúa kia hay là gì đi nữa lại có vẻ đáng sợ như vậy. Và giờ đây trên tấm áp phích thứ ba chỉ còn một chữ “PERS…”, bên dưới là chữ “und” và dưới nữa là “Eine Oper von Gottlie Toll…”. Anh suy nghĩ “Pers… Persephone* à? Một vở nhạc kịch về Persephone? Chẳng phải cô ta đã bị lội xuống âm phủ và Narcissus* - đúng không nhỉ? - phải xuống theo để đưa cô ta lên mà không được phép nhìn xung quanh sao? Hay đó là Euridice*? Hay là cái gì đó… Orpheus à? Đây không phải lần đầu tiên anh bực tức trước trình độ kiến thức chắp vá và lập dị của mình. Anh chỉ biết rất rõ một vài thứ và hiếm khi hiểu biết được toàn bộ mọi chuyện. Anh đang từng bước cải thiện tình hình - đọc càng nhiều càng tốt, sáng tác thơ - nhưng cứ thỉnh thoảng sự ngu dốt lại nhìn thẳng vào mặt anh. Một trong những hạn chế đối với nghề nghiệp, anh thừa nhận là vốn kiến thức nhất định về thần thoại cổ đại và những gì liên quan đến nó là một đống hơi lộn xộn trong đầu, nếu không muốn nói là một cái lỗ hổng kiến thức to đùng. Anh quay lại nhìn tấm áp phích. Toàn bộ bức tranh bị xé gần hết chỉ còn lại nửa trên. Những nét lượn của mái tóc bay phần phật theo gió và đôi mắt mở to nhìn thẳng ra bờ mép tơi tả của vết rách nằm ngang, như thể cô ta đang nhìn chằm chằm lên phía trên tấm ga giường một cách khiếp đảm, Lysander nghĩ vậy. Ráp các mảnh còn lại của ba tấm áp phích với nhau, trong đầu anh bắt đầu tưởng tượng ra một cơ thể nữ thần. Lysander thấy mình bị kích động một chút, hơi cương cứng. Một cô nàng khỏa thân, trẻ trung, xinh đẹp, dễ bị tổn thương trước sự đe dọa của một con quỷ có vảy nào đó, không nghi ngờ gì nữa, nó có hình thù của dương vật, chuẩn bị hãm hiếp cô nàng… Và chắc chắn đây là nội dung của các tấm áp phích, hơn nữa, chính nó đã thổi bùng lên cơn phẫn nộ của giới tư sản kiểu cách khiến vài công dân ngoan đạo quyết định phá hủy nó. Tất cả đều rất hiện đại - đều rất Vienna - anh cho là vậy. Lysander tiếp tục sải bước, thận trọng phân tích tâm trạng của mình. Tại sao khi tự suy đoán khả năng người phụ nữ thần thoại bị hãm hiếp trên tấm áp phích kia lại làm anh hưng phấn nhỉ? Có tự nhiên không? Chính xác hơn, anh có liên quan gì đến hình ảnh ấy - đôi tay như che lấy, như ôm lấy bộ ngực mềm mại, nửa gọi mời nửa e ấp? Anh thở dài: ai có thể trả lời được những câu hỏi này cơ chứ? Trí tuệ con người luôn hỗn độn không ngừng nghỉ, phức tạp và bướng bỉnh. Anh tự ngừng lại - phải, phải, phải rồi. Đó chính xác là lí do tại sao anh phải đến Vienna. Anh băng qua đường Schottenring và khoảng không rộng rãi của quảng trường trước mặt một trường đại học rộng lớn mang màu xám đậm. Đó là nơi anh phải đến để tìm hiểu về Persephone - hỏi một vài sinh viên học chuyên ngành tiếng La tinh và Hy Lạp - nhưng có điều gì đó ngăn cản anh. Tuy nhiên, anh không thể nhớ ra tên con quỷ tham gia vào câu chuyện về Persephone… Kiểm tra những con phố mình đang đi qua - gần đến rồi - anh dừng lại chờ tàu điện đi qua, rẽ phải xuống đường Berggasse, rồi rẽ trái trên đường Wasgasse. Nhà số 42. Anh nuốt khan, miệng tự nhiên khô khốc, suy nghĩ: có lẽ mình nên quay đi, gói ghém đồ đạc, trở về London và tiếp tục cuộc sống bình yên, phẳng lặng. Nhưng anh tự nhủ rằng vẫn còn đó vấn đề đặc biệt của riêng mình, chưa được giải quyết… Anh bước qua những cánh cửa chính to, rộng trông ra phố của ngôi nhà số 42, đi thẳng vào sảnh lớn. Không thấy lễ tân hay bảo vệ. Một chiếc thang máy bằng thép sẵn sàng đưa anh lên tầng hai nhưng anh chọn đi cầu thang bộ. Một tầng. Hai tầng. Những ban công bằng sắt rèn, lan can bằng gỗ đánh véc ni, một loại đá granite lốm đốm tạo thành các bậc thang một tay vịn ốp tường, dưới chân là lớp gạch lát hoa văn cỏ xanh, trên đầu là lớp sơn trắng. Anh tập trung vào những chi tiết này, Cố gắng không nghĩ đến hàng tá - có lẽ là hàng trăm người đã từng bước lên những bậc cầu thang này trước cả anh. Anh lên đến chiếu nghỉ. Hai cánh cửa lắp vững chắc bên những ô cửa sổ hình bán nguyệt đứng cạnh nhau. Trên một ô đề “Phòng riêng”; ô kia có một tấm biển bằng đồng nhỏ phía trên chuông cửa riêng đã bị mờ, cần được đánh bóng. “Tiến sĩ J. Bensimon”. Anh đếm đến ba và rung chuông tự nhiên thấy vững tin vào điều đúng đắn đang làm, tự tin vào một tương lai mới mẻ, tốt đẹp hơn mà anh đang hoạch định để bảo đảm cho chính mình. Mời các bạn đón đọc Chờ Mặt Trời Lên của tác giả William Boyd & Nguyễn Quang Huy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Rồng Trong Bể Kính
Một chàng trai trẻ bị đâm đến chết vì những con cá quý giá của mình. Một ông trùm châu Á mua con cá rồng độc nhất vô nhị với giá 150.000 đô la. Một thám tử đuổi theo những kẻ buôn lậu thú cưng qua đường phố New York... Cuốn sách Con rồng sau bể kính kể chuyện lại những câu chuyện phi thường về nỗi ám ảnh, sự hoang tưởng và những tên tội phạm liên quan đến một loài cá không giống bất kì loài vật nào khác: một động vật ăn thịt hung dữ xuất hiện từ thời kỳ khủng long còn tồn tại trên trái đất.  "Một cuốn sách có tính khai mở lạ kì." - The New York Times  "Mang màu sắc căng thẳng của một tiểu thuyết trinh thám, Voigt đã vẽ nên một thế giới sống động của những vụ giết người, buôn bán chợ đen và việc hủy hoại môi trường sinh tồn của một loài cá mà trớ trêu thay, nó lại được coi là biểu tượng của may mắn và sức cuốn hút." - Discover "Một câu chuyện vô cùng ấn tượng, đầy bất ngờ và hồi hộp... Mọi thứ bỗng trở nên kì dị." - The Wall Street Journal (Con rồng sau bể kính kể về hành trình nữ nhà báo Emily Voigt đi tìm cá rồng hoang dã - loài cá cảnh đắt nhất thế giới. Hành trình này đã đưa cô đi khắp toàn cầu, theo chân những người nuôi cá cảnh kì lạ đến các khu rừng xa xôi nhất hành tinh để lần theo dấu vết của cá rồng tự nhiên.)  *** Một pho kiến thức sâu rộng và đồ sộ đến đáng sợ! Tác giả Emily Voigt đã phải tham khảo và tìm tòi rất lâu để có tư liệu viết lên cuốn sách này, chỉ nhìn vào phần Lời kết và Lưu ý tham khảo cuối sách là đủ thuyết phục người đọc, đặc biệt là những người thích tìm hiểu một thế giới nửa thực nửa hư - săn tìm loài cá còn tồn tại từ thời khủng long với "chức năng" mà người châu Á vẫn hay nói - gánh "hạn" cho chủ nhân, điều truyền tai nhau này đã đẩy giá cá rồng lên cao và kéo theo đó là những tay thợ săn bậc nhất. Điều đặc biệt là Emily đã viết truyện này theo hơi hướng trinh thám, nghĩa là các chương truyện được đặt tên và triển khai như một cuốn trinh thám bí ẩn thực thụ. Từng bước tìm kiếm loài cá này đều rất cuốn hút người đọc không kém gì theo đuổi những vụ án của Sherlock Holmes! *** Thực ra chúng ta chưa bao giờ chinh phục được thế giới, chưa bao giờ hiểu rõ; chỉ là chúng ta nghĩ chúng ta có quyền kiểm soát thế giới. Thậm chí ta còn không biết vì sao mình lại phản ứng theo một cách nhất định trước các tổ chức sinh vật khác, và tha thiết cần chúng theo nhiều cách khác nhau đến thế. - Edward O. Wilson, Biophilia* Nhà sinh vật học, tác giả cuốn sách BIOPHILIA xuất bản năm 1984. Thuật ngữ biophilia được ông giới thiệu mang ý nghĩa “thúc đẩy mối liên kết với các dạng sống khác.” *** TAIPING, MALAYSIA, THÁNG 11 NĂM 2004 Chan Kok Kuan vẫn chưa về. Lo lắng đến mất ngủ, cha anh - ông Chan Ah Chai - đứng bên cửa sổ nhìn đăm đăm ra bên ngoài, mong thấy một dấu hiệu của cậu con trai qua màn mưa trắng xóa. Cơn mưa bắt đầu từ lúc nửa đêm và đến bốn giờ sáng vẫn còn đang trút ào ào xuống mặt đất - làm nước ngập hết đường phố và tràn ngập các hồ trong các vườn hoa công cộng, nơi những cây còng* trăm tuổi tỏa tán lá khổng lồ trên đường Residency. Còn gọi là cây muồng tím, muồng ngủ, me tây…, ở các nước khác được biết đến là cây saman, rain tree, monkey pod.v.v… Chàng thanh niên Chan ba mươi mốt tuổi, thân hình dẻo dai và tính tình cởi mở vốn không phải kiểu người ra ngoài lúc tối muộn mà không gọi về. Anh đã về nhà ăn tối như thường lệ sau khi làm việc cả ngày ở cửa hàng cá cảnh do anh tự mở từ mấy năm trước. Ngay từ khi còn nhỏ anh đã luôn yêu thích những thứ có vây. Giờ thì anh đã trở thành chuyên gia về một giống loài cụ thể: cá rồng châu Á, loài cá nhiệt đới đắt đỏ nhất thế giới. Ở Trung Quốc sinh vật này được gọi là long ngư - cá rồng, vì thân hình dài uốn lượn với những cái vẩy lớn lấp lánh và tròn như đồng xu của nó. Vào độ trưởng thành, loài cá ăn thịt này có thể dài bằng một thanh gươm của samurai, khoảng sáu mươi đến chín mươi centimet, với đủ loại ánh màu. Cặp râu mọc ra từ môi dưới và hai cái vây ngực mỏng tang khỏa nước từ hai bên thân gợi dáng hình của một chú rồng đang bay lượn. Sự tương đồng này khiến người ta tin tưởng rằng loài cá này sẽ mang lại thịnh vượng và may mắn, đồng thời đóng vai trò như một thứ bùa bảo vệ để xua đuổi tà ma và tai ương. Tiếng tăm của giống cá này nổi lên vào cùng khoảng thời gian Chan Kok Kuan từ bỏ công việc thợ hàn để theo đuổi ước mơ bán cá cảnh của mình. Thiên hạ đồn rằng một chú cá rồng quý hiếm đã được người mua Nhật Bản trả tới 150 ngàn đô la. Tuy Chan không phục vụ nhóm khách quý tộc đó, nhưng anh có tài chọn những con cá khỏe mạnh không bệnh tật, với màu ánh kim được yêu thích và dữ tướng. Cửa hàng của anh lúc nào cũng duy trì tới năm mươi cá thể, được nhốt trong những cái bể riêng để ngăn chúng khỏi đánh nhau đến chết. Hầu hết chúng là cá non, chỉ to bằng cỡ lòng bàn tay hay đế giày của Chan là cùng, và được bán với giá tới 1.500 đô một con cho những tay chơi ở địa phương và các đại lý phân phối sẽ mang chúng đi khắp thế giới. Một trong những doanh nhân kiểu đó đã gọi tới đây hồi chiều nay, hỏi mua hết chỗ cá còn lại trong cửa hàng. Cha anh, lúc đó cũng đang phụ giúp ở cửa hàng như mọi ngày, đã nghe lỏm được cuộc trò chuyện và cảnh báo con trai chỉ nên chấp nhận tiền mặt. Bây giờ, trong lúc nhìn ra ngoài cửa sổ vào màn mưa như thác đổ, ông già Chan tự hỏi có phải con trai mình đã trở lại cửa hàng sau bữa tối để gặp người mua này và quyết định ở lại tránh bão luôn hay không. Khoảng gần sáu giờ sáng, ngay khi cơn mưa tạnh hẳn, người cha liền trèo lên chiếc xe máy và lái vào thị trấn. Sáng hôm ấy trời rất đẹp. Bầu không khí mang mùi đất ẩm và đường phố đều đen bóng và trơn trượt, những vũng nước nhỏ lấp lóa ánh vầng dương vừa nhô ra khỏi các đám mây. Vẻ bình yên của thị trấn làm ông Chan Ah Chai trấn tĩnh lại. Ông đã sống ở Taiping suốt sáu mươi tư năm cuộc đời mình, quê hương ông trước đây từng là một điểm nghỉ dưỡng trong chế độ thực dân còn ngày nay nổi tiếng trong giới những người về hưu muốn tìm kiếm một cuộc sống bình lặng. Sau ba thập kỉ làm việc quần quật trong một nhà máy cao su, giờ đây ông dành hết những tháng ngày còn lại của cuộc đời với việc cho cá ăn, thay nước và đóng gói các đơn hàng cùng con trai. Rẽ vào một dãy các cửa hàng quen thuộc trên Jalan Medan Bersatu, ông trông thấy ngay cửa hàng cá cảnh Kuan vẫn còn đang đóng cửa. Nhưng ngay khi xuống khỏi xe máy và tiến lại gần cửa, ông phát hiện ổ khóa đã biến mất. Nâng tấm phên cửa lên, ông thận trọng bước vào không gian nhỏ hẹp, tối om với nhiều bể cá đang hắt ra ánh sáng mờ mờ từ những ngọn đèn neon. Khi mắt đã làm quen với bóng tối, ông trông thấy cửa hàng vẫn gọn gàng ngăn nắp, cá vàng và cá bảy màu vẫn lờ lững bơi trong bể của chúng. Thế nhưng khi bước tiếp, giày của ông giẫm lên lớp kính vỡ lạo xạo. Ông nhìn xuống và trông thấy một vệt thẫm đỏ trên sàn bê tông. Vệt máu này lại dẫn tới những vệt máu to hơn, dường như có một con thú bị thương đang cố trốn thoát bằng cả bốn chi. Điều mà người cha này tìm thấy ở cuối con đường ghê sợ này sẽ in dấu trong tâm trí ông và làm ông giật mình tỉnh giấc giữa đêm trong suốt phần đời còn lại: Cậu con trai yêu quý của ông đang nằm nát bấy trên mặt đất, bị đâm đến mười nhát. Anh đã chết - do bị chém một cách tàn bạo, cổ anh bị cứa đứt sâu đến nỗi đầu gần lìa hẳn ra. Ông già bắt đầu run rẩy không kiểm soát nổi trong lúc lảo đảo lao ra ngoài cầu cứu. Nhưng mọi chuyện đã quá muộn. Cảnh sát chẳng tìm thấy hung khí hay một dấu vân tay nào. Ví của nạn nhân vẫn còn nguyên trong túi quần, không mảy may mất gì. Chỉ duy nhất một thứ đã bị mất. Phía trên thân thể vô hồn của Chan Kok Kuan, những bể cá rồng trống trơn. Hơn hai mươi con cá rồng đã biến mất. Mời các bạn mượn đọc sách Con Rồng Trong Bể Kính của tác giả Emily Voigt & Orkid (dịch).
Bạc Mệnh
Lần đầu tiên sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville – tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize – giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm của một bệnh viện ngay trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh “cột chèo” của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân… *** Christine Falls (Bạc mệnh) là một cuốn tiểu thuyết pha trộn các thể loại: trinh thám, hình sự, phân tâm học... với những án mạng, ma túy, tình dục... Nhưng đó chỉ là bề mặt, mạch ngầm của tác phẩm là nỗi ưu tư, suy tưởng trước sự xô dạt của thời đại và sự lạnh lùng của con người. Cô y tá Brenad Ruttledge đang chuẩn bị lên đường tới Boston làm việc, một công việc hứa hẹn khiến cho túi tiền của cô rủng rỉnh thì đột nhiên nhận được lời đề nghị hết sức kỳ quái nhưng không thể từ chối từ bà y tá trưởng Moran đáng sợ. Bà ta muốn cô mang theo một đứa trể lên tàu cùng tất cả giấy tờ liên quan đến nó và giao lại cho viên quản lý tàu khi cô tới Southampton. Nhưng ngay cả Brenda cũng không ngờ rằng, cái gật đầu đó đã khiến cô phải sống trong sợ hãi suốt cuộc hành trình. Trong khi đó, tại khoa nghiên cứu bệnh học của Quirket nằm ở tầng hầm một bệnh viện ngay trung tâm thành phố, lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông. Cho đến một ngày, bữa tiệc chia tay y tá Breanda đã khiến Quirke ghé thăm phòng làm việc của mình giữa đêm hôm khuya khoắt. Tại đó, Quirke tình cờ bắt gặp ông anh cột chèo, người làm việc cùng khoa với ông, đang ở đó với một xác chết lạ, xác chết với bệnh án mang tên Christine Falls. Hơn thế nữa, chính người anh này đang cố tình xuyên tạc và giấu diếm nguyên nhân tử vong của nạn nhân. Sự tò mò đã thôi thúc nhà nghiên cứu bệnh học Quirke tìm hiểu và vô tình bị đẩy vào một thế giới ngầm của ma túy, tình dục, những sự sống bị coi rẻ... thế giới khác xa với thế giới ông đang sống. Có thể nói, Bạc Mệnh là cuốn tiểu thuyết trinh thám đầy tham vọng, mô tả cõi u ám của những bí ẩn và tính cách con người. *** Tài năng của tiểu thuyết gia Benjamin Black trong tiểu thuyết trinh thám 'Bạc mệnh' lại một lần nữa được giới chuyên môn đánh giá là đã phơi bày tội ác đến tận cùng, có thể sánh với mọi bi kịch cổ điển Hy Lạp. Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Quirke. Ông làm việc tại Khoa nghiên cứu bệnh học nằm ở tầng hầm của một bệnh viện ngay trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn và tưởng như quá đỗi thân quen và chưa bao giờ vượt ra ngoài tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày ông bắt gặp một xác chết lạ có tên Christine Falls, một xác chết có nhiều dấu hiệu bất thường ngay trong khoa của mình. Nhưng điều khiến Quirke bất bình hơn khi Mal (Malachy) - người anh em "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân bằng cách kết luận vào biên bản khám nghiệm tử thi: "Chết do tắc mạch phổi". Quirke là người làm việc trong ngành y nhiều năm, ông thừa biết rằng đây là căn bệnh rất khó xảy ra ở những người trẻ. Vậy cái chết này rõ ràng có nhiều uẩn khúc. Cuối cùng, Quirke đã hoá thân thành thám tử bất đắc dĩ. Cũng tại thời điểm Quirke đang đau đầu truy tìm thủ phạm thì bà Mogan đã bị sát hại. Thủ phạm muốn giết người bịt đầu mối? Câu chuyện với những "nút thắt" bất ngờ làm cho cuộc truy tìm trở nên hấp dẫn. Khả năng phơi bày đến chân tơ kẽ tóc động cơ u ám và sự bí ẩn của kẻ phạm tội không chỉ cho người đọc thấy tài viết văn trinh thám của Benjamin mà còn cho độc giả thấy tội ác đến tận cùng của kẻ thủ ác. Bạc mệnh là câu chuyện trinh thám viết cuộc sống của con người ở Dublin vào thập niên 1950, nhờ cách xây dựng và cảm thụ cốt truyện thông minh, sâu sắc mà Benjamin đã tái hiện đời sống con người ở cùng đất này với những trải nghiệm và cảm xúc sôi nổi, dữ dội và đầy tham vọng. Nhờ đó, tấn bi kịch trong cuốn tiểu thuyết này đã được bạn đọc... giải mã và đón nhận như một tác phẩm mang tầm cao mới trong văn chương. *** Tác giả Benjamin Black là bút danh của John Banville, nhà văn nổi tiếng người Ailen. Các tác phẩm của ông đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Man Booker Prize 2005 cho cuốn Biển Cả (The Sea). Hiện ông sống ở Dublin. Bộ 3 tác phẩm: Bạc Mệnh, Thiên Nga Bạc, Vượn Cáo *** Bạc Mệnh Lần đầu sáng tác với bút danh Benjamin Black, John Banville - tác giả từng đoạt giải thưởng Man Booker Prize - giới thiệu với bạn đọc nhân vật Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học hay cáu kỉnh đồng thời là một thám tử khó quên của thế giới tiểu thuyết trinh thám. Khoa nghiên cứu bệnh học của Quirke nằm ở tầng hầm một bệnh viện giữa trung tâm thành phố. Lãnh địa u buồn của ông là đấy: luôn yên tĩnh, tối tăm và chưa bao giờ vượt tầm kiểm soát của ông cho đến một ngày, giữa đêm hôm khuya khoắt, ông tình cờ bắt gặp một xác chết lạ xuất hiện ngay trong khoa của mình. Hơn thế nữa, chính người anh "cột chèo" của ông đang cố tình xuyên tạc nguyên nhân tử vong của nạn nhân... *** Thiên Nga Bạc Với Quirke, nhà nghiên cứu bệnh học người Dublin từng xuất hiện trong tiểu thuyết Bạc Mệnh, thời thế đã thay đổi. Khi Billy Hunt, người quen từ hồi học đại học, tìm đến nhờ Quirke đừng mổ xác khám nghiệm tử thi người vợ đã chết của gã, ông biết có điều bất ổn. Cũng như mọi khi, ông nhất định phải tìm cho ra nguyên nhân bất ổn ấy. Dần dà, ông dấn sâu vào một thế giới đen tối của tệ nạn ma túy, của ám ảnh tình dục, của tống tiền vài chết chóc, một thế giới mà ngay cả thanh tra Hackett đáng gờm cũng chỉ có thể cho ông một dúm manh mối. *** Vượn cáo John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mulholland hay còn gọi là Bill Lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mulholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ quãng đời trước, nhưng nói chung Glass hài lòng với hiện tại. Để có được thông tin về người bố vợ, Glass đã thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là "Vượn Cáo". Từ lúc ấy, cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, "Vượn Cáo" bị sát hại, Glass quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** May mà cô đi tàu chở thư lúc chập tối. Với cô, khởi hành lúc sáng sớm chẳng khác cực hình. Trong bữa tiệc tối qua, khi tìm thấy hũ rượu nặng, một sinh viên trường y bèn pha với nước cam ép. Vì uống hai ly nước ấy nên giờ miệng cô khô đắng, đầu nhức như búa bổ. Suốt buổi sáng, cô nằm bẹp trên giường, người vẫn còn ngầy ngật. Cô chỉ muốn thiếp đi một lát nhưng không được, chỉ nằm khóc với chiếc khăn tay nhét đầy miệng ngăn tiếng nức nở vang xa. Nghĩ đến việc buộc phải làm hôm nay, cô run sợ. Không, phải nói là khiếp đảm mới đúng. Đến cầu tàu ở Dun Laoghaire, cô quá kích động, không thể đứng yên một chỗ nên cứ đi tới đi lui hoài. Nghe lời họ dặn, cô cất hành lý trên khoang tàu thủy rồi trở xuống bến tàu đứng đợi. Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà cô lại nhận lời đề nghị của người ta. Trước đó, cô đã nhận được lời mời đến Boston làm việc và bây giờ thêm cả viễn cảnh sẽ có tiền tiêu rủng rỉnh. Tuy nhiên, cô biết trên tất cả là vì cô sợ bà y tá trưởng nên đã không dám chối từ khi bà đề nghị cô mang theo đứa bé. Kiểu nói chuyện của bà khiến người ta phải khiếp hãi, thậm chí ngay cả lúc tiếng bà khẽ khàng nhất. Hôm đó, bà trợn cặp mắt lồi nhìn cô và bảo: - Brenda này, ta muốn cô cân nhắc thật kỹ vì đây là một trọng trách to lớn. Cô gái như lạc vào một thế giới khác: lòng dạ nôn nao, mồm miệng khô đắng... Còn nữa, thứ cô đang mặc không phải bộ đồng phục y tá mà là bộ váy áo bằng len màu hồng cô mua để dành cho chuyến đi xa đặc biệt này. Bộ quần áo mặc lúc khởi hành, nhưng không phải để mặc sau đám cưới. Đồng thời, thay vì đi hưởng tuần trăng mật, cô sẽ dành hẳn một tuần chăm sóc hài nhi, trong lúc bên cạnh không hề có bóng dáng đức lang quân. Nghe cô nhận lời, nữ y tá trưởng cười nửa miệng trông còn kinh khiếp hơn cả cặp mắt như sắp nhảy khỏi tròng của bà. - Cô thật tốt bụng, Brenda ạ. Cầu Chúa phù hộ cho cô. Phải, cô chỉ còn biết cầu khẩn Đấng Tối Cao che chở. Cô thiểu não nhủ thầm: Tối nay, cô cùng đứa bé lênh đênh trên thuyền. Suốt ngày mai, họ sẽ rong ruổi đường trường, đi xe lửa đến tận Southampton. Tiếp theo là năm ngày vượt biển và sau đó, có trời biết còn những gì nữa. Cô chưa bao giờ xa nơi chôn nhau cắt rốn, đến một xứ sở hoàn toàn xa lạ, ngoại trừ có một lần, hồi cô còn bé tí, cha cô có đưa cả nhà đi chơi một ngày tại đảo Man. Chiếc xe hơi đen bóng loáng nhích từng chút giữa đám đông hành khách đang chuẩn bị xuống con tàu nhỏ. Khi còn cách chỗ cô đứng khoảng mười bước chân, xe dừng bánh. Cánh cửa hàng ghế sau bật mở. Một bà tay xách túi bằng vải bạt, tay kia ôm một bọc cuốn chăn kín. Bà không còn trẻ, khoảng sáu mươi tuổi nhưng ăn mặc như người bằng nửa tuổi bà: bộ vest xám bó sát, váy ôm chỉ dài ngang ống chân, chiếc thắt lưng siết chặt ngang eo khiến mỡ bụng phồng lên ngay phía dưới bản rộng của dây lưng. Bà đội chiếc nón nhỏ xíu có mạng màu xanh dương sẫm buông ngang sống mũi. Ngất ngưởng đi ngang qua vỉa hè lát đá trên đôi giày gót nhọn hoắt, bà mím cặp môi tô son đỏ choét trông như đang cố nặn một nụ cười. Cặp mắt đen của người này nhỏ xíu, ánh mắt sắc như dao. Bà mở lời: - Cô là Ruttledge phải không? Tôi là Moran đây. Giọng nói ỏn ẻn cũng giả tạo, y hệt mọi thứ còn lại thuộc về bà. Bà ta trao túi cho cô và nói: - Trong này có đầy đủ tã lót và vật dụng cho đứa nhỏ, kèm cả giấy tờ của nó. Khi lên tàu ở Southampton, cô hãy đưa cho viên quản lý tàu. Ông ta sẽ biết ngay thôi. Bà nheo mắt soi mới nhìn Brenda, biến cặp mắt đen thành hai đường kẻ nhỏ. - Cô làm sao thế? Trông cô xanh lắm. Brenda bèn chống chế, bảo rằng cô khỏe, chỉ tại đêm qua cô thức khuya. Bà Moran cười nhạt, chìa bọc chăn. - Chắc tại "ly sầu tiễn đưa" nên mới ra nông nỗi? Đây, bồng đi. Cẩn thận, kẻo tuột tay đánh rơi nó thì mang họa. (Bà cười sợ sệt, đoạn nhíu mày như tự trách mình đùa quá trớn). Tôi xin lỗi. Điều đầu tiên khiến Brenda ngạc nhiên là cái bọc kia nóng sực, như thể người ta bọc cục than cháy đỏ trong chăn. Chỉ có điều “cục than” này mềm và động đậy. Khi ôm chiếc bọc trước ngực, lòng dạ cô gái nôn nao. - Ôi! Cô kêu lên vì ngạc nhiên, vui sướng. Bà Moran vẫn chưa ngừng nói nhưng cô không còn nghe thấy gì nữa. Có con mắt nhỏ xíu, ươn ướt từ mép chăn nhìn ra với vẻ thờ ơ, không thèm quan tâm chuyện gì đang diễn ra quanh mình. Brenda nghẹn ngào, nước mắt chỉ chực trào tuôn. - Cảm ơn ạ. Cô chỉ nói được có thế dù không biết mình đang cảm ơn ai và vì cái gì. Bà Moran nhún vai, cười nửa miệng. - Chúc may mắn đấy. Đoạn bà bươn bả trở lại xe, gót giày cao gót nện mạnh như muốn chọc thủng mặt đường. Vào xe, sập mạnh cửa xong, bà lẩm bẩm: - Thế là xong việc. Nhìn qua cửa kính, bà thấy Brenda Ruttledge vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mê mẩn nhìn xuống bọc chăn, quên hẳn chiếc túi du lịch chơ vơ dưới chân. Bà cay đắng: - Gớm! Cô ta tưởng mình là Đức Mẹ Đồng Trinh chắc! Không bình luận gì thêm, bác tài chỉ khởi động xe trước khi phóng vọt đi. Mời các bạn mượn đọc sách Bạc Mệnh của tác giả Benjamin Black & Vũ Kim Dung (dịch).
Dòng Sông Hắc Ám
“Một ngày nào đó cô sẽ hiểu được thứ gì đang đến với cô. Nó không đến từ tôi đâu. Mà từ một trong số chúng, một trong những người mà cô tin tưởng… Sẽ thú vị lắm đây.” Đó là lời cảnh báo trước khi chết của kẻ sát nhân bệnh hoạn Melvin Royal dành cho Gwen Proctor. Có lẽ hắn nói đúng, nhưng chỉ một phần… Melvin đã nằm sâu dưới nấm mồ, còn Gwen phải tiếp tục đấu tranh để chữa lành những vết sẹo của quá khứ, giải quyết những mối đe dọa ở hiện tại và sẵn sàng cho một tương lai đầy bấp bênh. Liệu những thử thách mới, những âm mưu mới có thể đánh gục được người mẹ giàu lòng trắc ẩn và dũng cảm như sắt đá? Ở thế giới bên kia, liệu Melvin có thể có cơ hội chứng kiến Gwen sụp đổ và vụn vỡ hay không? Tiếp nối thành công của hai tập trước trong series ăn khách Stillhouse - Dòng sông hắc ám không chỉ đem tới cho độc giả những khoảnh khắc hồi hộp, gay cấn, mà còn cả những phút giây lắng đọng, xúc động và giàu chiêm nghiệm. ----- “Và tôi cần phải đối phó với hắn, bởi hắn đang đe dọa đến tính mạng của con tôi. Con tôi. Tôi chưa bao giờ có cảm giác mạnh mẽ như thế này trước đây - cảm giác muốn được bảo vệ Connor bằng mọi giá. Cảm giác ấy, ước muốn ấy, nó không hề mất đi, vẫn luôn chôn sâu bám rễ vào trong máu thịt của tôi.” ----- Tác giả Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Bốn ngày trước Khi giáo viên của Ellie White, cô Willingham, nói với cô bé rằng tài xế sẽ đến trường học sớm hơn thường lệ để đón cô bé, Ellie biết đó không phải toàn bộ sự thật. Bác Lou chưa bao giờ đến sớm như vậy cả, trừ khi cô bé bị ốm. “Tại sao ạ?” Cô bé hỏi. Cô bé thích đưa ra những câu hỏi mỗi khi có điều chưa rõ. Có thể cô bé chỉ mới sáu tuổi, nhưng bố đã dạy cô bé phải hỏi nếu không hiểu. Mẹ lúc nào cũng có chút xấu hổ bởi cô bé cứ làm theo lời dặn của bố một cách máy móc như vậy. “Cô e rằng… Cô e rằng đó là vì bố con đã nhờ bác ấy làm vậy.” Cô Willingham nói. Cô ấy là một phụ nữ da trắng tử tế với một lọn tóc màu bạc điểm xuyết trên mái tóc nâu, và cô là một giáo viên tốt. Mặc dù bố Ellie rất giàu có, cô chưa bao giờ đối xử với Ellie khác biệt so với những học sinh trong lớp. Kể cả khi Ellie có làn da màu nâu đậm, đậm hơn bất cứ bé gái nào khác ở đây - những cô bé có làn da trắng như những trang giấy. “Bố sẽ không làm vậy…” Ellie nói. “Có điều gì đó không ổn.” Cô Willingham đưa mắt về phía Ellie, nhưng không nhìn thẳng vào cô bé: “Ừ thì, mẹ con bị ốm…” Cô nói. “Vậy nên ông ấy mới điều xe đến đón và đưa con tới bệnh viện nơi ông ấy đang ở cùng với mẹ con. Như vậy được rồi chứ?” Cô giúp Ellie mặc chiếc áo len dài tay. Chiếc áo này Ellie không thích, nhưng cũng không muốn bỏ lại. Tiếp đến là chiếc cặp sách. “Cô Willingham?” Ellie hỏi, ngước lên nhìn cô giáo của mình. “Cô đang khóc đấy ạ?” “Không, bé con ạ. Cô ổn mà. Đi nào. Ra khỏi đây thôi, bác ấy đang đợi.” “Nhưng bố có nhắc đến mật mã nữa chứ ạ?” “Ông ấy có nhắc đến mật mã…” Cô Willingham nói. “Mật mã của hôm nay là chim hét đen, phải không nào?” Ellie gật đầu. Thứ Năm là chim hét đen. Mỗi ngày sẽ là một loài chim nào đó, bởi vì cô bé rất thích chim và mẹ luôn luôn gọi cô bé là chim ruồi nhỏ do cô bé luôn phóng đi rất nhanh. Nhưng Chủ nhật mới là chim ruồi. Trước tiên, cô Willingham bước xuống bậc thềm của trường học để nói chuyện với bác Lou, bác đang đợi trong chiếc xe đậu ở khúc quành nằm giữa những bậc thềm và đài phun nước lớn làm bằng đá cẩm thạch. Nguyên tắc là Ellie không bao giờ được tới chỗ chiếc xe cho đến khi cô Willingham xác nhận rằng mọi thứ đều ổn. Cô và bác Lou nói chuyện rất lâu. Cô Willingham cứ khóc mãi không ngừng. Hôm nay thời tiết nóng và ẩm, nhưng đài phun nước trông rất mát mẻ và đẹp đẽ. Tia nước bắn ra từ những chiếc vỏ sò làm bằng bê tông, rơi vào một chiếc vỏ sò lớn hơn nằm ở chính giữa. Mẹ từng nói với Ellie rằng đã từng có một nàng tiên rất xinh đẹp sống ở trong vỏ sò, nhưng một vài bậc phụ huynh đã buộc nhà trường phải đưa nàng ấy ra ngoài, và giờ đây nàng ấy phải ở trong kho chứa đồ, điều này thật đáng buồn làm sao. Cô Willingham bước trở lại bậc thềm để đón lấy tay cô bé. Ellie ngước lên nhìn cô. “Mọi thứ sẽ ổn thôi…” Cô nói, nhưng giọng cô lạc đi. Đôi mắt cô đỏ lên. “Cô xin lỗi, bé con. Nhưng cô phải làm điều này. Cô cũng có gia đình của mình.” Ellie cảm thấy lo lắng cho gia đình của cô giáo. “Goa đình của cô ổn cả chứ, cô Willingham?” Cô bé không có ý định làm cho người phụ nữ phải khóc. “Ừ, Ellie ạ, họ sẽ ổn thôi. Con có thể giúp cô đảm bảo rằng họ sẽ ổn chứ?” Ellie không rõ mình phải làm điều đó như thế nào, nhưng cô bé vẫn gật đầu. Cô bé thích giúp đỡ mọi người, ngay cả khi cô bé không thực sự chắc chắn tại sao cô Willingham lại nghĩ rằng cô bé có thể giúp. Cô Willingham mở cửa xe và nâng Ellie lên. Đây vốn là công việc của bác Lou. Sau đó, người phụ nữ ôm lấy cô bé. “Hãy mạnh mẽ, Ellie. Con sẽ ổn cả thôi.” “Nhưng còn gia đình của cô thì sao ạ?” Ellie hỏi. “Cô không định đi với con để cùng giúp họ sao?” Cô Willingham bụm miệng, những giọt nước mắt lăn dài trên má, và cô chỉ còn biết lắc đầu. Cô đóng sầm cánh cửa xe, và đó là khi Ellie biết rằng có điều gì đó thực sự không ổn. Cô giáo Willingham đã nói dối, nhưng cô bé không biết tại sao cô phải làm vậy. Và rồi Ellie nhận ra rằng điều này còn tồi tệ hơn những gì cô bé nghĩ, bởi mặc dù chiếc xe trông giống với chiếc xe vẫn thường đưa đón cô bé, nó không hề có mùi dừa mà cô bé vẫn yêu thích. “Bác Lou?” Cô bé cất tiếng gọi người tài xế. Tiếng chốt cửa xe vang lên nặng trịch. Cô bé có thể nhìn thấy người đàn ông đang ngồi ở ghế trước, đó là một người to lớn đội chiếc mũ lưỡi trai. Ngồi ở băng ghế sau, Ellie cảm thấy mình nhỏ bé hơn bình thường, và khi chiếc xe bắt đầu di chuyển, cô bé nhanh chóng thắt dây an toàn; bác Lou không bao giờ cho xe chạy cho đến khi cô bé thắt dây an toàn xong xuôi. “Bác Lou? Có chuyện gì với mẹ cháu vậy? Cô Willingham nói rằng…” Cô bé ngừng lại câu hỏi bởi lẽ người đàn ông đang lái xe không phải bác Lou. Đôi mắt nhìn vào cô bé trong gương chiếu hậu không phải là của bác ấy. “Thắt dây an toàn vào.” Ông ta nói. Còn bác Lou sẽ luôn nói xin hãy. “Cháu đã thắt rồi…” Cô bé nói. Cô bé cảm thấy sợ hãi, nhưng cô bé sẽ không thể hiện điều đó ra ngoài. “Bác có biết mật mã không?” “Chim hét đen.” Ông ta nói. “Phải không?” “Bác là ai?” “Tôi là người sẽ đưa cháu đến một nơi nào đó thật an toàn…” Ông ta nói. “Cũng giống như mong muốn của bác Lou vậy. Được rồi chứ?” “Cháu sẽ gọi cho bố.” Ellie nói, và rồi mở khóa cặp sách để lấy chiếc điện thoại di động. Nó không có ở đó. Cô bé biết rằng mình không được để điện thoại lung tung. Chiếc điện thoại rất đắt tiền, quan trọng, và cô bé luôn luôn để nó ở trong chiếc túi đó. Cô bé cảm nhận được nước mắt đang chực trào ra, nhưng cô bé sẽ không để mình khóc. Họ muốn cô bé phải khóc, bất kỳ ai đã lấy mất chiếc điện thoại. Bất kỳ ai đang chơi trò chơi đểu cáng này. “Bác là ai?” “Không ai cả.” Người lái xe nói. “Giờ thì ngồi im và yên lặng đi.” Ông ta lái chiếc SUV vào trục đường chính. Cô bé cố gắng nhìn xem họ đang đi đâu, nhưng nhanh chóng bị mất phương hướng; cô bé chưa bao giờ phải chú ý đến những điều như thế này trước đây. Ngôi trường đã khuất sau quả đồi, và ông ta rẽ ngoặt nhiều hơn, cô bé hoàn toàn không biết họ đang ở đâu. Cô bé không biết phải làm gì. Bố luôn nói với cô bé rằng có rất nhiều người xấu ở ngoài kia, và cô bé không nên đi với họ nếu họ không biết mật mã. Thế nhưng, ông ta biết nó, và cô bé cũng không thể nhấn nút “cuộc gọi khẩn cấp” nếu không có chiếc điện thoại nào ở đây. “Để cháu đi.” Cô bé nói. Cô bé cố gắng để giọng mình nghe giống với giọng của mẹ: lạnh lùng và tự tin. “Bác có thể dừng xe ở đây.” “Im mồm.” Người lái xe nói. “Giữ yên lặng. Nếu còn ồn ào, tao sẽ dán miệng mày lại.” Điều đó thậm chí còn khiến cô bé hoảng sợ hơn việc phải ngồi trên một chiếc xe lạ hoắc và không có điện thoại ở bên, nhưng cô bé sẽ không để người đàn ông này biết được điều đó. Cô bé sẽ không khóc. Cô bé nhìn xung quanh và cố gắng nghĩ ra việc khác để làm. Cánh cửa không thể mở. Phần kính cũng thế. Chiếc SUV được gắn kính tối màu, cũng giống như chiếc xe của bác Lou; nó có tác dụng chống nắng. Nhưng nó cũng được tạo ra để mọi người không thể nhìn được vào bên trong. Ellie nhận ra một điều cực kỳ tồi tệ. Cô bé là cái bóng ngồi bên trong một chiếc xe màu đen, đằng sau những ô cửa tối màu, không ai có thể nhìn thấy, và cô bé không biết phải làm gì tiếp theo. Khi cô bé bắt đầu gào thét để tìm kiếm sự giúp đỡ từ những chiếc xe chạy qua, người lái xe rẽ vào đường nhánh, đỗ xe dưới một cây cầu nằm giữa những tán cây xanh rì, dán băng dính quanh miệng cũng như quanh tay và chân cô bé. Ông ta đưa cô bé vòng ra phía sau chiếc SUV. Phía sau trống trơn, chỉ có một chiếc túi ngủ có in hình các công chúa Disney. Cô bé hét lên dưới lớp băng dính, ngọ nguậy và cố gắng để thoát ra, nhưng ông ta đặt cô bé lên chiếc túi ngủ và lắc đầu. “Đi ngủ đi…” Ông ta nói với cô bé, rồi quệt mồ hôi trên mặt. “Chúng ta còn một quãng đường dài phía trước. Mày chú ý cách cư xử và tao sẽ cho mày ăn trong một vài giờ tới. Mấy ngày nữa mày sẽ trở về nhà cùng một câu chuyện thật hay ho để kể.” Bố đã luôn dặn cô bé rằng: “Nếu rơi vào tay kẻ xấu, đừng bao giờ tin lời chúng nói.” Cô bé hoàn toàn không tin rằng chúng sẽ đưa mình trở về nhà. Cô bé thật sự sợ hãi khi thấy mình bắt đầu sổ mũi và khó thở với băng dính dán kín miệng. Vì vậy, cô bé nằm yên hít thở, chậm rãi, đều đặn. Cô bé vẫn còn hoảng sợ, lại thêm kiệt sức nữa, và cuối cùng, cô bé nhắm mắt lại và cố gắng giả vờ như mình đang ở một nơi nào đó khác, được trở về nhà với mẹ. Một cách khó nhọc, cô bé giả vờ rằng mình đang ngủ thiếp đi và cuộn người lại trên đùi của mẹ. Khi tỉnh lại, cô bé rất muốn nói với người đàn ông rằng mình muốn đi vệ sinh, nhưng ông ta thì lại đang nói chuyện điện thoại, và họ đang ở trong một khu rừng, vào giữa đêm tối. Ông ta thấy cô bé ngồi dậy. Ông ta quay đầu lại. Và rồi qua tấm kính chắn gió ô tô, cô bé trông thấy tấm biển báo “phía trước có lối ngoặt” cùng với luồng ánh sáng bừng lên xung quanh nó. Luồng ánh sáng đang chiếu thẳng về phía bọn họ. Cô bé cố hét lên về phía ông ta, nhắc ông ta coi chừng chiếc xe, nhưng ông ta chỉ cau mày và nói: “Tao đã nói là im…” Và rồi chiếc xe kia đâm sầm vào họ, tất cả lộn nhào và vỡ vụn; cô bé nghĩ mình đã nghe thấy người đàn ông hét lên. Cứu với, Ellie muốn nói điều đó, nhưng cô bé quá sợ hãi và quá đau đớn, rồi người đàn ông ngưng la hét, mọi thứ đều trở nên im bặt. Mời các bạn mượn đọc sách Dòng Sông Hắc Ám của tác giả Rachel Caine & Yến Nhi (dịch).