Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Cầu Hôn Mùa Đông (Devil in Winter) - Lisa Kleypas

Nói về series Wallflowers, thì điểm nổi bật nhất là cả dòng series này đều lấy bối cảnh nước Anh thời kỳ công tước hầu tước…. Series nói về mấy chị em bạn thân đến tuổi chống-lầy nên phải tham dự hết thảy vũ hội để tìm cơ hội vớ được một con mồi sáng giá. Dậm lên mặt hàng đống phấn, mặc áo nịt bụng chặt muốn lòi ruột, đóng giả một cô nàng yếu đuối,… Họ sử dụng hết mọi kế sách để thực hiện mục tiêu vàng: Lấy được một anh chồng. Mặc dù họ bị gán ghép vào vai Những bông hoa bên lề, trong số họ cũng có người gần ngưỡng bị đưa vào danh sách Ế, nhưng phải nói là mấy ” bà cô” này đều không phải hạng xoàng đâu nha. Không phải tất thảy họ đều thuộc hàng Mỹ nữ khuynh nước khuynh thành, nhưng ở họ có những nét đẹp mà hầu hết các cô gái ở buổi vũ hội không có để khi một chàng hầu tước vô tình bắt gặp nụ cười của một bông hoa đứng bên lề vũ hội lại ngẩn ngơ nhớ mãi. Không phải cô nào cũng bắt được con mồi sáng giá như ý định ban đầu của họ, có cô đau khổ khóc ròng vì từ vị trí đi săn chồng cô lại trở thành món ngon để cho con sói máu lạnh danh tiếng trác táng xơi tái…. *** Đôi nét về tác giả: Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Nhìn chung hầu hết tác phẩm của Lisa Kleypas đều có những kết thúc rất hậu, truyện của bà mang phong cách nhẹ nhàng là chính, tuy nhiên bà cũng theo đuổi dòng trinh thám một ít. Bà được xem là một trong những tác giả dòng lãng mạng có những cuốn sách bán chạy nhất, tác phẩm của bà được bán trên toàn thế giới và dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Bộ Wallflowers gồm có: - Again The Magic - Bí mật Đêm hè - Chuyện Xảy ra giữa Mùa Thu - Lời Cầu Hôn Mùa Đông (Devil in Winter) - Scandal in Spring - A wallflower christmas *** Luân Đôn, 1843 Sebastien, Lord St. Vincent, nhìn chăm chú vào người phụ nữ trẻ vừa mới đột nhập vào cơ ngơi của anh ở Luân Đôn, và nhận ra có lẽ mình đã thực hiện một cố gắng vô ích vào tuần trước tại điền trang Stony Cross Park khi bắt cóc nhầm nữ thừa kế. Mặc dù cho đến gần đây, bắt cóc không nằm trong danh sách dài thườn thượt những hành vi xấu xa đặc trưng của Sebastien, lẽ ra anh phải khôn ngoan hơn thế. Xem xét kỹ, Lillian Bowman là một lựa chọn ngu ngốc, tuy vào lúc đó cô ta có vẻ là đáp án hoàn hảo cho vấn đề nan giải của Sebastian. Gia đình cô ta giàu có, trong khi Sebastian có tước danh và đang trong tình trạng eo hẹp tài chính. Hơn nữa Lillian hứa hẹn sẽ là một đối tác thú vị trong phòng ngủ, với vẻ đẹp của mái tóc đen nhánh và tính khí sôi nổi, nồng nhiệt. Anh lẽ ra nên chọn một con mồi ít khí thế hơn. Lillian Bowman, một nữ thừa kế người Mĩ mạnh mẽ, đã kịch liệt chống lại những kế hoạch của anh cho đến khi được giải cứu bởi vị hôn phu của cô ta, Ngài Westcliff. Jenner, một sinh vật như con cừu non đang đứng trước mặt anh đây, hoàn toàn không hề giống với Lillian Bowman. Sebastian nhìn nàng với một sự khinh miệt được che dấu, cân nhắc về những gì mà anh biết về nàng. Evangeline là đứa con duy nhất của Ivo Jenner, người sở hữu sòng bạc nổi tiếng ở Luân Đôn, và một người mẹ đã bỏ trốn cùng ông ta—chỉ để nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình. Mặc dù mẹ của Evangeline đến từ dòng dõi đoan chính, cha nàng lại còn hơn cả một kẻ cặn bã đáng khinh. Tuy phả hệ của nàng chẳng có gì vẻ vang, Evangeline có thể trở thành một sự kết hợp kha khá nếu không kể đến cái tính bẽn lẽn khập khiễng của nàng, với hậu quả là việc nói lắp bắp tra tấn người khác. Sebastian đã nghe những người đàn ông rất nghiêm túc nói rằng họ thà mặc một cái áo sơ-mi đầy gai cho đến khi da họ rướm máu còn hơn là cố trò chuyện với nàng. Thế là theo lẽ tự nhiên, Sebastian đã cố gắng hết sức để làm ngơ nàng mọi lúc có thể. Việc đó chẳng có khó khăn gì. Nàng Jenner cả thẹn có thói quen trốn trong góc phòng. Họ chưa bao giờ thật sự trò chuyện trực tiếp với nhau—một hoàn cảnh rất phù hợp với cả hai người họ. Nhưng giờ thì chẳng thể nào ngó lơ nàng được. Vì lí do nào đó Miss Jenner đã thấy phù hợp trong việc không mời mà đến tại ngôi nhà của Sebastian vào một giờ khuya khoắt khiếm nhã. Để khiến cho hoàn cảnh gây tổn hại hơn, nàng còn không có người đi kèm—và trải qua hơn nửa phút một mình với Sebastian đã đủ để huỷ hoại bất cứ cô gái nào. Anh sống sa đoạ, không có ý thức về luân lý, và tự hào một cách ngang ngạnh về điều đó. Anh xuất sắc trong những việc mình đã lựa chọn—việc của một kẻ quyến rũ suy đồi—và anh đã lập ra một chuẩn mực mà rất ít kẻ trác táng nào khác có thể theo kịp. Thả lỏng người dựa vào ghế, Sebastian quan sát Evangeline Jenner tiến tới bằng một vẻ uể oải đánh lừa. Căn phòng thư viện khuất trong bóng tối chỉ trừ một ngọn lửa nhỏ trong lò sưởi, ánh sáng lung linh nhẹ bập bùng trên gương mặt nàng. Nàng trông không nhiều hơn hai mươi tuổi, nước da tươi tắn, đôi mắt nàng tràn đầy nét trong sáng không bao giờ thất bại trong việc khơi dậy sự khinh miệt của anh. Sebastian chưa bao giờ xem trọng hay ngưỡng mộ sự ngây thơ. Tuy với tư cách là một quý ông buộc anh phải đứng lên khỏi ghế, anh lại thấy chẳng có lí do gì phải thể hiện cử chỉ lịch sự trong hoàn cảnh này. Thay vào đó, anh ra hiệu về chiếc ghế khác ở bên cạnh lò sưởi với cái vẫy tay lơ đễnh. “Cứ ngồi nếu cô thích,” anh nói. “Mặc dù tôi sẽ không lên kế hoạch ở lại lâu nếu tôi là cô. Tôi rất dễ bị nhàm chán, và tiếng tăm của cô thì không phải là của một người trò chuyện sắc sảo.” Evangeline không cau mày vì sự thô lỗ của anh. Sebastian không thể không tự hỏi kiểu giáo dục nào lại làm cho nàng hoàn toàn quen thuộc với việc bị xúc phạm, trong khi bất cứ cô gái nào khác cũng sẽ đỏ mặt và rưng rưng nước mắt. Hoặc nàng là một cây đậu hóm hỉnh, hoặc nàng có thần kinh vững vàng đáng nể. Cởi bỏ áo khoác ngoài, Evangeline vắt nó lên một cánh tay vịn của chiếc ghế bọc nhung, và ngồi xuống mà không tỏ vẻ duyên dáng hay giả tạo. Hoa-bên-lề, Sebastian nghĩ, nhớ lại rằng nàng không chỉ là bạn của Lillian Bowman, nhưng còn là bạn của cả em gái Lillian: Daisy, và Annabelle Hunt. Cả nhóm bộ tứ đã ngồi ngoài rìa của rất nhiều vũ hội và dạ tiệc vào mùa hội vừa qua, một băng những hoa-bên-lề đến cuối đời. Nhưng có vẻ như vận xui của họ đã thay đổi, bởi vì Annabelle cuối cùng đã có thể chộp được một người chồng, và Lillian thì chỉ vừa bới được Ngài Wescliffe. Sebastian nghi ngờ may mắn của họ sẽ lan truyền đến con người vụng về này.  Mặc dù anh rất muốn hỏi về mục đích của nàng đến viếng thăm, Sebastian e là điều đó sẽ khởi đầu một hiệp của những tràng lắp bắp tra tấn cả hai người họ. Anh buộc mình phải kiên nhẫn chờ đợi, Sebastian quan sát nàng trong ánh sáng nhảy nhót của lò sưởi, và khá ngạc nhiên khi nhận ra nàng thu hút. Anh chưa bao giờ thật sự nhìn thẳng vào nàng. Anh chỉ có cảm giác thoáng qua về một cô gái tóc đỏ vụng về nhếch nhác với dáng điệu kém cỏi. Nhưng nàng lại xinh xắn. Khi Sebastian chăm chú quan sát nàng, anh ý thức được một sự căng thẳng nhẹ đang hình thành trong các thớ thịt của mình, những sợi lông nhỏ đang dựng đứng lên sau cổ anh. Anh vẫn ngồi thả lỏng trên ghế, tuy vậy, những đầu ngón tay anh hơi ấn vào tấm khăn nhung trải bàn. Anh thấy thật lạ là mình chưa bao giờ nhận thấy nàng trong khi có rất nhiều thứ đáng để nhận thấy. Tóc nàng có một sắc đỏ tươi thắm nhất mà anh từng được chiêm ngưỡng, nó dường như hấp thụ sức sống từ ngọn lửa, sáng bừng lên với luồng hơi nóng rực rỡ. Vòm cong mảnh mai của lông mày và đôi mi dày có màu nâu đỏ đậm, trong khi làn da nàng là của một người tóc đỏ thật sự, trắng và hơi có tí tàn nhang trên mũi và hai gò má. Sebastian thấy những nốt tàn nhang ánh vàng trải rộng như pháo hoa mùa lễ hội thật thú vị, lác đác như thể được phất ra từ cây đũa thần của một nàng tiên thân thiện. Nàng có đôi môi mọng với sắc hồng tự nhiên, và đôi mắt xanh lam to, tròn...tuyệt đẹp nhưng là đôi mắt vô cảm, như đôi mắt của một con búp bê bằng sáp. “Tôi nh-nhận được tin rằng bạn tôi, Cô Bowman giờ đã là Nữ bá tước Westcliffe,” Evangeline nói với một thái độ cẩn trọng. “Cô ấy và ngài bá tước đã kết hôn ở Gr-Gretna Green sau khi ngài ấy...giải quyết ngài.” “Đánh tôi thành một cục bột nhão thì sẽ là một lựa chọn từ ngữ chính xác hơn,” Sebastian nói thoải mái, biết rằng nàng không thể không nhận thấy những vết bầm đã nhạt màu trên quai hàm anh từ trận đòn thích đáng của Westcliffe. “Cậu ấy có vẻ không chấp nhận chuyện đó tốt lắm, việc tôi mượn vị hôn thê của cậu ấy.” “Ngài b-bắt cóc cô ấy,” Evangeline điềm tĩnh phản bác. “Mượn ám chỉ rằng ngài có ý định trả cô ấy lại.” Sebastian cảm thấy môi anh cong lên trong một nụ cười thật sự đầu tiên sau một khoảng thời gian dài. Nàng không phải là một kẻ ngốc nghếch, rõ ràng rồi. “Bắt cóc vậy, nếu cô muốn cụ thể hơn. Có phải đó là lí do mà cô đến thăm không, Cô Jenner? Để thông báo tin tức về cặp đôi hạnh phúc đó à? Tôi mệt mỏi vì chủ đề này rồi. Tốt hơn là cô nên sớm nói điều gì đó thú vị, nếu không tôi e là cô sẽ phải rời đi.” “Ngài m-muốn Cô Bowman vì cô ấy là một người thừa kế gia tài,” Evangeline nói. “Và ngài cần phải kết hôn với ai đó có tiền.” “Đúng vậy,” Sebastian thoải mái thừa nhận. “Cha tôi, ngài công tước, đã không thành công trong trách nhiệm duy nhất của đời mình: giữ cho gia sản bất khả xâm phạm để có thể truyền lại cho tôi. Mặt khác, trách nhiệm của tôi lại là sống thảnh thơi trong sự lười biếng phóng đãng và chờ cho ông ấy chết. Cho đến nay tôi đã thực hiện công việc của mình rất xuất sắc. Ngược lại, tước công thì lại không. Ông đã làm hỏng việc sắp xếp các khoản tài chính của gia đình, và hiện tại ông ấy đang ở trong tình trạng nghèo khó không thể tha thứ được, và còn đáng trách hơn, lại rất khỏe mạnh.” “Cha tôi giàu có,” Evangeline nói không có chút cảm xúc. “Và đang hấp hối.” “Chúc mừng cô,” Sebastian ngắm kĩ nàng. Anh không nghi ngờ Ivo Jenner có một gia sản đáng kể từ câu lạc bộ của ông ta. Sòng bạc Jenner’s là nơi những đức ông của Luân Đôn đến đánh bạc, thưởng thức đồ ăn ngon, rượu mạnh, và gái điếm rẻ tiền. Không gian nơi đó là sự phung phí pha lẫn với một mức độ xoàng xĩnh dễ chịu. Gần hai mươi năm trước, Jenner’s đã được xếp hạng thứ hai sau Craven’s huyền thoại - sòng bạc lớn nhất và thành công nhất nước Anh. Mặc dù vậy, khi Craven’s bị thiêu rụi và người sở hữu nó không cho xây dựng lại, câu lạc bộ Jenner’s đã thừa hưởng những khách hàng giàu có, và đã đứng lên vị trí dẫn đầu. Không phải là nó có thể được so sánh với Craven’s. Một câu lạc bộ phản ánh rất nhiều về cá tính và phong cách của người sở hữu nó, cả hai thứ đó Jenner đều thiếu sót. Derek Craven, không phải bàn cãi, từng là một người đàn ông của công chúng. Ivo Jenner, ngược lại, là một gã thô lỗ cơ bắp, một cựu đấm bốc thủ chưa bao giờ xuất sắc ở bất cứ thứ gì, nhưng bởi một sự sắp đặt thần kì nào đó của định mệnh đã trở thành một người đàn ông kinh doanh thành đạt.  Và đây là con gái của Jenner, đứa con duy nhất của ông ta. Nếu nàng đang sắp đưa ra lời đề nghị đúng như Sebastian nghĩ, thì anh không có đủ khả năng để từ chối. “Tôi không muốn những l-lời chúc tụng của ngài,” Evangeline trả lời câu nhận xét trước đó của anh. “Cô muốn gì, bé con?” Sebastian hỏi dịu dàng. “Nếu cô vui lòng, hãy nói vào vấn đề chính đi. Chuyện này đang trở nên chán ngắt.” “Tôi muốn ở bên cha tôi trong những ngày c-cuối đời của ông. Gia đình bên mẹ tôi không cho tôi đến gặp ông. Tôi đã cố bỏ trốn đến câu lạc bộ, nhưng họ luôn luôn bắt được tôi, và rồi tôi bị trừng phạt. Lần này thì tôi s-sẽ không trở lại với họ. Họ đã lên một kế hoạch mà tôi muốn tránh bằng mọi giá—kể cả bằng mạng sống của mình, nếu cần thiết.” “Và kế hoạch đó là?” Sebastian uể oải giục. “Họ đang cố ép tôi kết hôn với một trong những người anh họ của tôi. Mr. Eustace Stubbins. Anh ta c-chẳng quan tâm gì đến tôi, mà tôi cũng không quan tâm gì đến anh ta...nhưng anh ta tình nguyện làm một con tốt trong âm mưu của gia đình tôi.” “Để nắm giữ gia sản của cha cô trong tay sau khi ông ta chết?” “Vâng. Lúc đầu tôi đã xem xét ý tưởng đó, bởi vì tôi nghĩ Anh Stubbins và tôi có thể có ngôi nhà của riêng mình...và tôi đã nghĩ...cuộc sống có thể chịu đựng được nếu tôi có thể sống xa bọn họ. Nhưng Anh Stubbins đã nói với tôi rằng anh ta không có ý định chuyển đi đâu cả. Anh ta muốn ở lại dưới mái nhà của gia đình...và tôi không nghĩ là tôi có thể sống sót ở nơi đó lâu hơn nữa.” Đối mặt với sự im lặng có vẻ thờ ơ của anh, nàng lặng lẽ nói thêm, “Tôi tin là họ có ý g-giết tôi sau khi đã có được tiền của cha tôi.” Ánh mắt Sebastian không rời khỏi khuôn mặt nàng, anh giữ cho giọng mình nhẹ nhàng. “Họ mới khinh suất làm sao. Tại sao tôi lại phải quan tâm?” Evangeline không rơi vào bẫy của anh, chỉ hướng về anh cái nhìn chăm chăm điềm tĩnh, thể hiện tính ngoan cố bẩm sinh mà Sebastian chưa bao giờ gặp ở một phụ nữ trước đây. “Tôi đang đề nghị ngài kết hôn với tôi,” nàng nói. “Tôi muốn có sự bảo vệ của ngài. Cha tôi bệnh quá nặng và quá yếu để có thể giúp tôi, và tôi sẽ không trở thành một gánh nặng cho bạn bè của mình. Tôi tin là họ sẽ đề nghị cho tôi ẩn náu, nhưng nếu được như thế tôi cũng sẽ luôn luôn phải đề phòng, lo sợ những người họ hàng có thể bắt tôi đi và buột tôi làm theo ý họ. Một phụ nữ chưa kết hôn có rất ít quyền lợi, cả trong xã hội và trước pháp luật. Điều đó không c-công bằng...nhưng tôi không đủ khả năng để đi đánh nhau với những cối xay gió. Tôi cần một ng-người chồng. Ngài cần một người vợ giàu có. Và chúng ta đều tuyệt vọng như nhau, điều đó khiến tôi tin rằng ngài sẽ đồng ý với lời đ-đề nghị của tôi. Nếu như vậy, thì tôi sẽ muốn đến Gretna Green ngay tối nay. Ngay bây giờ. Tôi chắc là lúc này những người họ hàng của tôi đã bắt đầu tìm kiếm rồi.” Sự tĩnh lặng nặng nề ngập trong không trung khi Sebastian đánh giá nàng với một cái nhìn thiếu thiện cảm. Anh không tin tưởng nàng. Và sau cuộc bắt cóc thất bại tuần trước, anh không có ý định lặp lại kinh nghiệm đó lần nữa. Dù vậy, nàng vẫn đúng về một điều. Sebastian thật sự đang tuyệt vọng. Như những người chủ nợ sẽ thừa nhận, anh là một người đàn ông thích mặc quần áo sang trọng, ăn uống ngon lành, điều kiện sống tốt. Khoản trợ cấp hàng tháng mà anh nhận được từ công tước sẽ sớm bị cắt giảm, và chỉ mới tháng trước anh còn không có đủ tiền trong tài khoản. Đối với một người đàn ông không có sự phản đối nào với việc chọn lựa con đường dễ dàng, lời đề nghị này đúng là của trời cho. Nếu nàng thật sự sẵn sàng thực hiện nó. “Của được cho thì không nên kén chọn,” Sebastian nói thẳng thừng, “nhưng cha cô đang hấp hối đến mức nào? Một vài người còn lê lết nhiều năm trên giường bệnh của mình. Tôi luôn nghĩ đó là một phong cách rất tệ, khi khiến cho mọi người phải chờ đợi.” “Ngài sẽ không phải đợi lâu,” là câu trả lời nổi cáu của nàng. “Tôi đã được bảo là ông sẽ chết trong khoảng hai tuần nữa, có lẽ vậy.” “Có gì chắc chắn là cô sẽ không thay đổi ý định trước khi chúng ta đến được Gretna Green không? Cô biết tôi là loại người nào rồi đấy, Cô Jenner. Có cần tôi nhắc nhở cô rằng tôi đã cố gắng bắt cóc và cưỡng hiếp một trong những người bạn của cô vào tuần trước?” Cái nhìn của Evangeline hướng thẳng về phía anh. Không giống như đôi mắt anh, với một sắc lam nhạt, mắt của nàng là những viên ngọc saphire xanh thẫm. “Ngài có cố cưỡng hiếp Lillian không?” nàng căng thẳng. “Tôi đã đe dọa như thế.” “Ngài sẽ thực hiện lời đe dọa đó chứ?” “Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ bị buột phải làm thế trước đây, nhưng như cô đã nói, tôi đang tuyệt vọng. Và trong khi chúng ta đang nói về chuyện này...có phải cô đang đề nghị một hôn nhân vì lợi ích, hay chúng ta sẽ ngủ với nhau trong vài dịp?” Evangeline làm ngơ câu hỏi đó, vẫn dai dẳng. “Liệu ngài có e-ép buộc cô ấy hay không?” Sebastian nhìn nàng chằm chằm với vẻ châm biếm hiển nhiên. “Nếu tôi nói không, Cô Jenner, thì làm sao mà cô biết tôi có nói dối hay không? Không. Tôi sẽ không cưỡng hiếp cô ấy. Câu trả lời này có phải là thứ cô muốn? Cứ tin nó đi vậy, nếu nó khiến cô thấy an toàn hơn. Giờ, với câu hỏi của tôi...” “Tôi sẽ ng-ngủ với ngài một lần thôi,” nàng nói, “để khiến cho hôn nhân này hợp pháp. Không bao giờ có lần sau đó.” “Tuyệt thật,” anh thì thầm. “Rất hiếm khi tôi lại thích ngủ với một phụ nữ nhiều hơn một lần. Đúng là sự nhàm chán cấp tốc, sau khi điều mới lạ đã ra đi. Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ làm một kẻ trưởng giả và đi thèm muốn vợ mình. Mà đã thèm muốn vợ thì có nghĩa là sẽ không được giữ một người tình. Tất nhiên là còn có vấn đề phải sinh cho tôi một người kế vị...nhưng chừng nào mà cô còn kín đáo, tôi không quan tâm cái đếch gì nó là con của ai.” Nàng còn không hề chớp mắt. “Tôi sẽ muốn một p-phần trong di sản được để lại cho tôi qua một ủy thác. Một ủy thác rộng rãi. Khoản lợi nhuận sẽ chỉ của riêng tôi mà thôi, và tôi sẽ sử dụng nó theo ý của mình-mà không phải báo cáo cho ngài về mọi việc tôi làm.” Sebastian giờ đã hiểu rằng nàng không hề ngốc nghếch, mặc dù tật nói lắp sẽ khiến cho nhiều người nghĩ khác. Nàng đã quen với việc bị xem thường, bị ngó lơ, bị bỏ qua một bên...và anh đoán chừng nàng sẽ lấy điều đó làm lợi thế cho mình bất cứ khi nào có thể. Việc này khiến anh thích thú. “Tôi phải là một kẻ ngốc mới tin tưởng cô,” anh nói. “Cô có thể quay lưng lại với thỏa thuận của chúng ta vào bất cứ lúc nào. Và cô phải là một kẻ ngu ngốc hơn nữa mới đi tin tôi. Bởi vì một khi chúng ta đã kết hôn, tôi có thể còn xử tệ với cô hơn cả những gì gia đình phía mẹ cô có bao giờ mơ tới.” “T-thà rằng đó là một người tôi chọn,” nàng đáp lại nghiêm nghị. “Là ngài thì tốt hơn là Eustace.” Sebastian phì cười vì điều đó. “Câu đó không nói lên nhiều điều tốt về Eustace lắm.” Nàng không đáp trả lại nụ cười của anh, chỉ hơi sụm người trên ghế, như thể một sự căng thẳng nặng nề đã rời bỏ nàng, và nhìn anh chằm chằm với một vẻ yên phận cam chịu.    Ánh mắt họ gặp nhau, và Sebastian cảm thấy một cú sốc nhận thức kì lạ chảy rần rật từ đầu đến chân. Với anh, việc bị một phụ nữ kích thích chẳng có gì mới mẻ. Từ lâu anh đã nhận ra mình là một người đàn ông thiên về thể xác hơn những người khác, và rằng một vài phụ nữ nhen nhóm ngọn lửa trong anh, thổi bùng lên khát vọng đến một mức độ bất bình thường. Không hiểu vì sao cô gái vụng về, nói lắp bắp này lại là một trong số họ. Anh muốn ngủ với nàng. Những hình ảnh vụt hiện lên từ trong trí tưởng tượng xáo động của anh, về cơ thể nàng, về những đường cong và làn da mà anh còn chưa được nhìn thấy, sự căng tròn của mông nàng khi anh khum nó trong hai bàn tay. Anh muốn hương thơm của nàng tràn vào mũi, thấm vào da anh...mái tóc dài của nàng lướt qua cổ và ngực anh...Anh muốn làm những điều không thể nói nên lời với miệng nàng, và với miệng anh. “Vậy điều đó đã được quyết định,” anh thì thầm. “Tôi chấp nhận lời đề nghị của cô. Còn rất nhiều thứ phải bàn, tất nhiên, nhưng chúng ta sẽ có hai ngày cho đến khi đến được Gretna Green.” Anh đứng lên từ chiếc ghế và vươn vai, nụ cười của anh phảng phất khi anh nhận thấy ánh mắt của nàng lướt nhanh khắp người anh. “Tôi sẽ cho chuẩn bị xe ngựa và bảo người hầu thu xếp hành lý. Chúng ta sẽ đi trong khoảng một tiếng nữa. Tiện đây, nếu cô có quyết định rút lại thỏa thuận bất cứ lúc nào trong chuyến hành trình của chúng ta, tôi sẽ thắt cổ cô.” Nàng liếc anh vẻ chế giễu. “Ngài sẽ không phải quá căng thẳng về điều đó nếu ngài đã không thử làm thế với một nạn nhân miễn cưỡng vào t-tuần trước.” “Nói hay lắm. Vậy chúng ta có thể miêu tả cô như một nạn nhân tình nguyện?” “Một nạn nhân hăng hái,” Evangeline nói ngắn gọn, trông như thể nàng muốn rời khỏi ngay lập tức. “Kiểu yêu thích nhất của tôi,” anh nhận xét, và cúi người lịch sự trước khi anh sải bước rời khỏi thư viện.  ... Mời các bạn đón đọc tập mở đầu của bộ sách Wallflowers: Devil in Winter của tác giả Lisa Kleypas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gien Atlantis
Khát khao thoát khỏi bóng ma quá khứ vẫn từ lâu ám ảnh, bác sĩ Kate Warner quyết tâm rời California để đến Jakarta, dồn hết tâm huyết nghiên cứu gene Atlantis – một mã gene bí ẩn nắm giữ chìa khóa lý giải sự tiến hóa của loài người, hy vọng tìm ra liệu pháp mới chữa trị cho trẻ em mắc chứng tự kỷ. Nhưng liệu pháp đó, hóa ra, lại nguy hiểm và quyền năng hơn gấp bội so với những gì cô có thể tưởng tượng. Một cánh cửa dẫn đến bước tiến hóa tiếp theo của loài người và viết lại lịch sử của giống loài có thể mở ra, nhưng đồng thời, nếu lọt vào tay Hội Immari - tổ chức cổ xưa đã 2000 năm lịch sử – đó cũng chính là sự kết thúc cho nhân loại...  Cùng David Vale, đặc vụ của tổ chức tình báo Tháp Đồng Hồ, Kate phải chạy đua với thời gian, giải đáp vô số bí ẩn về nguồn gốc loài người, xâm nhập vào những ngóc ngách khuất nẻo nhất của thế giới, đào bới đến tận cùng những quá khứ đã từ lâu bị chôn vùi…  70000 năm trước, loài người đã sống sót qua nguy cơ tuyệt chủng. Nhưng giờ đây, nhân loại liệu có còn cơ hội? *** Katherine Warner là bác sĩ đứng đầu Trung tâm nghiên cứu và điều trị cho trẻ em tự kỷ tại Jakarta (Indonesia). Ngày nọ, khi kết quả thí nghiệm cho thấy cô đã đạt được bước đột phá trong công việc của mình thì Trung tâm nghiên cứu bị tấn công, hai đứa trẻ bị bắt cóc, bản thân cô không những không được bảo vệ mà còn bị cảnh sát xem như nghi phạm. David Vale là trưởng đơn vị Jakarta thuộc tổ chức Tháp Đồng Hồ - một tổ chức chống khủng bố phi chính phủ hoạt động hiệu quả nhất trên toàn thế giới. David và nhóm người ít ỏi của anh đã phát hiện một âm mưu khủng bố toàn cầu, đe dọa sẽ tiêu diệt hàng triệu nhân mạng. Kate Warner và David Vale có liên quan gì đến nhau và họ có thể làm gì để cứu chính mình đồng thời vãn hồi cục diện tăm tối này của loài người? Sách khổ lớn và dày 590 trang, bìa vô cùng đẹp, lẽ ra phải là một ấn phẩm đem lại 130% mãn nguyện nhưng vì cách viết chưa được hấp dẫn lắm nên thú thật là Biển có chút thất vọng. Phần mở đầu và vài chục chương đầu khiến Biển nghĩ đến sự kết hợp giữa tiểu thuyết Dan Brown, tiểu thuyết Harry Dolan và bộ phim G.I.Joe. Thay vì những đoạn viết về biểu tượng và tôn giáo như trong sách của Dan Brown thì “Gene Atlantis” chứa đựng rất nhiều kiến thức hàn lâm về di truyền học và tiến hóa. Có lẽ vì không hiểu rõ những đoạn đó, thêm nữa là chúng thường được chèn vào giữa các cuộc đối thoại rất dài khiến Biển không đọc nổi, đành phải lướt. Dù có bị chê cười thì Biển cũng phải nói rằng tuy rất nghiêm túc tập trung nhưng đọc hơn nửa quyển sách mà Biển vẫn chưa hiểu rõ nó đang nói về vấn đề gì :( “Loài người là kẻ sát nhân hàng loạt kinh khủng nhất mọi thời đại. Con thử nghĩ mà xem: chúng ta được lập trình để tồn tại. Ngay cả tổ tiên xưa kia của chúng ta cũng bị thôi thúc bởi bản năng này, đủ để nhận ra rằng người Neanderthal và người Hobbit là những kẻ thù nguy hiểm. Có thể họ đã giết hàng chục loài khác trong họ Homo. Và cái di sản đáng hổ thẹn đó đã tồn tại đến tận ngày nay. Chúng ta tấn công bất kỳ thứ gì khác biệt, bất kỳ thứ gì chúng ta không hiểu, bất kỳ thứ gì có thể thay đổi thế giới, môi trường của chúng ta, giảm bớt cơ hội sống sót của chúng ta. Phân biệt chủng tộc, chiến tranh giai cấp, phân biệt giới tính, Đông đấu với Tây, Bắc đấu với Nam, tư bản và cộng sản, dân chủ và độc tài, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, Israel và Palestine, tất cả đều là những mặt khác nhau của cùng một cuộc chiến: cuộc chiến vì một loài người đồng nhất, kết thúc mọi khác biệt giữa chúng ta. Đó là cuộc chiến chúng ta đã bắt đầu cách đây rất lâu và đã chiến đấu từ đó đến giờ”. Yếu tố trinh thám – hành động trong truyện cũng đủ ly kỳ hồi hộp nhưng còn nhiều điểm vô lý. Đây là một câu chuyện khoa học giả tưởng nên độc giả phải sẵn sàng chấp nhận những sự kiện khác biệt và vượt xa lẽ thông thường. Tuy nhiên, xét về chất giả tưởng thì cá nhân Biển cho rằng “Gene Atlantis” không cuốn hút bằng “Cuộc thám hiểm vào lòng đất”của Jules Verne hoặc “Trạm tín hiệu số 23” của Hugh Howey. ____  Diễn tiến truyện được đan xen giữa hiện tại và quá khứ, đôi lúc đoạn quá khứ được viết khá dài, lại xen lẫn thêm “quá khứ của quá khứ” khiến câu chuyện hơi bị loãng. Tính cách nhân vật được miêu tả vừa giống người bình thường vừa có tính chất “anh hùng”: nam chính can đảm + hài hước trong cả những tình huống oái ăm nguy hiểm nhất; nữ chính tuy cũng giỏi giang nhanh nhẹn nhưng vẫn là một nữ bác sĩ yếu đuối không được đào tạo gì về kỹ năng chiến đấu. Khi đọc hết chương 25, Biển có một phút mặc niệm cho tất cả những người dũng cảm đã hy sinh để bảo vệ hòa bình thế giới. Nghe thì có vẻ mông lung xa vời nhưng ai đọc cuốn này sẽ hiểu Biển muốn nói gì. Ở đầu truyện khắc họa một hình ảnh người thi hành công vụ ở Jakarta rất tồi tệ và quan liêu, không biết liệu cuốn này có được bán ở Indonesia không.. Cuối sách có phần nhắn gửi của tác giả, đọc xong thấy thông cảm và muốn viết review ca ngợi thêm một chút nhưng Biển chỉ có thể viết những gì mình nghĩ chứ không thể tự dối lòng. So với bộ sách Dị Chủng – Tàn Thế thì Biển thấy “Gene Atlantis” không lôi cuốn bằng và chắc sẽ không mua những quyển tiếp theo của bộ này. (Sea, 24-10-2018) - Thiên Nhai Hải Giác *** Tôi không hề bất ngờ khi biết thông tin tiểu thuyết “Gene Atlantis” của tác giả A.G.Riddle đang được chuyển thể thành phim, bởi tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố để làm nên một bom tấn điện ảnh phiêu lưu, hành động, kịch tính, hấp dẫn. Tôi tò mò tìm đọc “Gene Atlantis” bởi “Atlantis” là từ khóa tôi tìm ra khi giải một câu đố. Câu đố thế này: Thuyết Âm – Dương là thuyết bao trùm vạn vật, biểu thị sự vận động của sinh vật, tự nhiên, vũ trụ. Biến thể của thuyết Âm – Dương là thuyết Ngũ Hành. Thuyết Ngũ Hành quan niệm vũ trụ được hợp thành bởi 5 nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tương ứng với 5 màu sắc cơ bản là Trắng, Xanh, Đen, Đỏ, Vàng. Trên thế giới có người da Trắng (ở Châu Âu), người da Đen (ở Châu Phi), người da Đỏ (ở Châu Mỹ), người da Vàng (ở Châu Á). Vậy người “da Xanh” ở đâu? Bằng phương pháp vạch vẽ trên bản đồ thế giới, tìm đọc tài liệu, chắp nối các sự kiện từ thời trước Hồng Thủy, tôi mạo muội đưa ra một “thuyết Âm Mưu” rằng: người “da Xanh” chính là người Atlantis, di sản của họ hiện được bảo vệ ở vùng lạnh giá Tây Tạng. Vừa hay tiểu thuyết của A.G.Riddle viết về Gene Atlantis bí ẩn, tác nhân dẫn đến Bước đại nhảy vọt về di truyền của nhân loại, khiến nhân loại tách hẳn ra khỏi phần còn lại của tự nhiên, thống trị thế giới, cũng có hẳn một phần về Tây Tạng, “tư tưởng gặp nhau” khiến tôi không thể bỏ qua tác phẩm này. Gene Atlantis là phần 1 trong trilogy Atlantis của nhà văn A.G.Riddle. Tác phẩm giả tưởng có nội dung xoay quanh tổ chức Immari bí ẩn, bị ám ảnh bởi tư tưởng “thanh lọc thế giới”, tạo ra một chủng tộc mới bằng cách gây ra một thảm họa quy mô toàn cầu, kích hoạt Gene Atlantis, tạo ra Bước đại nhảy vọt thứ 2 về di truyền. Với một nội dung tầm cỡ như vậy, độc giả đòi hỏi tác phẩm phải có kẻ phản diện xứng tầm, A.G.Riddle đã làm được điều đó (tôi để ngỏ cho bạn đọc tự khám phá). Bố cục của Gene Atlantis liên tục chuyển đổi qua lại giữa các nhân vật và các vùng địa lý khác nhau, giúp nhịp độ và kịch tính của câu chuyện luôn được đẩy lên cao, lôi cuốn đọc giả. Bố cục đặc biệt này cũng gây ra một cảm giác rằng: có một thứ gì đó đang chuyển động và nó đang dẫn động một thứ gì đó lớn hơn rất rất rất nhiều đang từ từ chuyển động theo. Gene Atlantis hấp dẫn, kịch tính và... dễ dọc, nhân vật chính lôi cuốn, thông minh, xử lý tình huống gọn gàng, hợp lý. Phe phản diện hấp dẫn, lối xây dựng kiểu “chính tà khó phân” khiến nội dung rất có chiều sâu. Mời các bạn đón đọc Gene Atlantis của tác giả A. G. Riddle.
Phi Trường
Tên sách: Phi trường Nguyên tác: Airport Tác giả: Arthur Hailey NXB: Doubleday & Company, IncGarden City, New York 1968 Người dịch: DgHien Có tham khảo quyển Phi Trường của Thái Hà (Dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986. Từ những thông tin rời rạc, những người có trách nhiệm tại Phi trường quốc tế Lincoln đã khám phá ra một âm mưu đánh bom máy bay để trục lợi tiền bảo hiểm, và tìm cách ngăn chặn nó. Bên cạnh đó, quyển sách cũng trình bày nhiều hoạt động của những bộ phận khác nhau trong một phi trường, những hoạt động mà những hành khách bình thường không bao giờ thấy được. Và những suy nghĩ, hành động của những con người có liên quan trong một bộ phận xã hội. Arthur Hailey đã có nhiều sách xuất bản tại Việt Nam, mỗi quyển đều có liên quan đến một ngành nghề trong xã hội, một số đã có ebook. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Phi Trường là quyển hay nhất, hấp dẫn nhất, đến nay vẫn chưa có ebook, ngoài quyển Phi trường (PDF) do bạn Nga Hoang đưa lên mới đây. Quyển Phi Trường của Thái Hà (dịch từ Tiếng Nga) NXB Lao Động 1986 có một số thiếu sót: (1) phiên âm tên riêng, không còn nhận ra được tên nguyên gốc, không còn phù hợp thời đại; (2) bản Tiếng Nga dịch phóng túng, tùy tiện thêm vào những cái tên không có trong nguyên bản; và quan trọng (3) dịch sai một số chi tiết kỹ thuật, hoặc không hiểu rõ bộ phận kỹ thuật nên để nguyên tên Tiếng Anh không dịch. Do đó tôi đã mạnh dạn dịch mới từ nguyên tác Tiếng Anh, quyển Phi Trường của Arthur Hailey. *** Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** T háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn. Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều. Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối. Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln. Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA. Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn. Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua b ắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng. Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP. Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh. Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp. Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ. Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng. Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới. Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc. Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh.  Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi.  Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ. Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ.  đ ội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ. Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio. “Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”. Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà.  Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh. Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay.  Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất.  Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn. “Chắc chắn, chắc chắn rồi.  Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”.  Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”.  Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?” Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu.  Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu.  Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”.  n ăm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế. Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”. “Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”. “Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội. “ n ghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay?  Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ.  Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”. “Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “ Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”. Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay.  Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường. Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu t òa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc. Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông.  Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân. Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “ Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi.  Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”. Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ.  Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này. Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?” Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”. Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp.  Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành.  Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại. Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp.  Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó.  Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên. Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”. Mời các bạn đón đọc Phi Trường của tác giả Arthur Hailey.
Người Giỏi Không Phải Người Làm Tất Cả
Nghệ thuật quản lý mang lại hiệu quả cao nhất cho tổ chức của bạn Đã bao giờ bạn gặp phải những tình huống này chưa? 1. Bạn thường cảm thấy kiệt sức hay “bội thực” vì “núi” hồ sơ trên bàn làm việc của mình. 2. Bạn thường cảm thấy mình không hoàn thành tốt công việc dù đã cố gắng hết sức. 3. Công việc của bạn ngày càng thêm chồng chất, dù bạn đã bị “quá tải”. 4. Sếp bảo bạn nên chia bớt việc cho người khác. 5. Bạn không có thời gian để đào tạo hay chỉ dẫn nhân viên. 6. Bạn thường bỏ qua các cơ hội công nhận hay chúc mừng thành công của nhân viên. 7. Bạn lo lắng khi phải giao trách nhiệm cho nhân viên trực tiếp dưới quyền vì không tin họ có thể xử lý tốt công việc như bạn. 8. Bạn vẫn cho rằng “Thà tôi tự làm còn dễ hơn”. *** Suốt mười lăm năm qua, nhờ làm công việc huấn luyện và đào tạo các nhà quản lý, nhằm giúp họ phát huy tối đa năng lực của bản thân, tôi có dịp được gặp gỡ với những người đến từ nhiều ngành nghề khác nhau, nhu cầu và mục tiêu của mỗi người cũng rất khác nhau. Họ mong muốn tìm ra giải pháp cho những khó khăn mà họ (hay tổ chức của họ) đang gặp phải. Như các bạn cũng biết, những vấn đề của các tổ chức thường rất đa dạng và phong phú - thế nhưng điều mà tôi thường gặp nhất đó là họ chưa được trang bị các kỹ năng giao việc cần thiết - một trong những yếu tố không thể thiếu của một nhà quản lý hiệu quả.  Họ gặp tôi vì bản thân họ đang đứng trước những mối bận tâm khác nhau: có người cảm thấy kiệt sức vì công việc, có người lại muốn tìm cách ứng phó với những nhân viên khó bảo. Và tôi nhận ra rằng, mặc dù "triệu chứng" khó khăn của mỗi người là rất khác nhau, thế nhưng tất cả họ đều đang cần đến một "loại thuốc điều trị": đó là cách ủy thác công việc sao cho quy trình tổng thể được hiệu quả hơn.  Bất kỳ học viên nào từng tham gia khóa học của tôi cũng đều cảm thấy bớt căng thẳng hơn trước. Họ rất phấn khởi và hào hứng đón nhận những kinh nghiệm mà tôi đã chia sẻ qua những buổi nói chuyện. Và điều làm tôi ngạc nhiên nhất chính là phản ứng của rất nhiều học viên sau khi được học những bước đơn giản trong nghệ thuật ủy quyền. Họ nói: "Giá như tôi biết điều này sớm hơn!"; "Những triết lý hữu ích này sẽ làm thay đổi cả cuộc đời tôi!" hay "Tại sao người ta không dạy những điều này trong chương trình thạc sĩ nhỉ!" Nhưng câu nói mà tôi thường nghe nhất là: "Chắc chắn mọi nhà quản lý sẽ gặt hái được rất nhiều điều bổ ích từ những triết lý đơn giản này. Thật là tuyệt vời, bà nên tập họp chúng lại và viết thành sách!". Và tôi đã nghe theo lời khuyên của họ.  Vì bản thân cũng là một nhà quản lý, tôi hiểu mình nên viết một quyển sách thật ngắn gọn và súc tích, sao cho ngay khi đọc xong là độc giả có thể ứng dụng ngay những gì đã đọc vào thực tế để tạo nên những thay đổi tích cực trong công việc của họ. Đó phải là một quyển sách thật đơn giản, thực tế và có thể làm thay đổi cuộc sống của người đọc.  Dù bạn là người ủy thác hay được ủy thác công việc, nhưng nếu biết ứng dụng sáu nguyên tắc này, chắc chắn bạn sẽ cảm thấy khối lượng công việc giảm đi đáng kể, nhờ vậy bạn sẽ có thêm nhiều thời gian để tập trung vào những điều thật sự quan trọng trong công việc và trong cuộc sống.  Biết cách ủy thác công việc hiệu quả, bạn sẽ có thể:  • Tăng hiệu quả công việc  • Tự tin hơn trong công việc  • Giảm thiểu các sai sót  • Cải thiện mối quan hệ với đồng nghiệp  • Có cơ hội nâng cao năng lực  • Thêm thời gian huấn luyện cho nhân viên cấp dưới  • Xây dựng tốt tinh thần làm việc tập thể  • Nâng cao tinh thần làm việc của nhân viên  • Giảm áp lực công việc  • Đảm bảo đạt được những kết quả mong muốn  • Hoàn thành công việc đúng thời hạn  • Tìm được bí quyết giúp tái tạo năng lượng và đam mê trong công việc  • Thay đổi cuộc sống bản thân  Chúc bạn tìm thấy nhiều điều bổ ích từ quyển sách này!  - Donna M. Genett    *** Tiến sĩ tâm lý học Donna M. Genett là một chuyên gia tư vấn về vấn đề phát triển tổ chức,  đồng thời còn là chủ tịch của công ty GenCorp Consulting - một công ty tư vấn hoạt động trên toàn nước Mỹ. Mười sáu năm qua, bà đã không ngừng cống hiến để tạo nên những ảnh hưởng tích cực cho các tổ chức và sự nghiệp của các nhân viên thuộc những tổ chức đó.  Trong quá trình công tác, bà tập trung nghiên cứu những phương pháp giúp cải thiện hiệu quả làm việc, tăng năng suất và khả năng sinh lợi của một tổ chức. Những lĩnh vực chuyên môn của bà bao gồm huấn luyện quản lý cho cấp điều hành; tăng cường hiệu quả hoạt động của nhóm; sắp xếp và tổ chức cơ cấu hoạt động, cải tiến quy trình làm việc; hoạch định chiến lược và tiến trình hoạt động; đào tạo và phát triển con người.  Những buổi nói chuyện, hội thảo sinh động của tiến sĩ Genett về nghệ thuật lãnh đạo, ủy thác công việc, quản lý hiệu quả và xây dựng đội ngũ làm việc vừa thú vị vừa mang lại hiệu quả cao.  Khách hàng của bà bao gồm những công ty có tên tuổi đáng chú ý như Weyerhaeuser, Nextel, Bemis Manufacturing, MITRE Corporation, WesCorp, HCC Surety, United Way, và Seattle's Best Coffee.  Ngoài ra, bà cũng là tác giả của quyển Help Your Kids Get It Done Right at Home and School! Building Responsibility & Self-Esteem in Children (Giúp con trẻ tự hoàn thiện ở gia đình và nhà trường! Xây dựng Trách nhiệm & Lòng tự trọng ở trẻ).  Mời các bạn đón đọc Người Giỏi Không Phải Người Làm Tất Cả của tác giả Ph.D Donna M. Genett.
Sáu Kẻ Bất Hảo
Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình… "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới.   Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 Hồi kết của series Fantasy kịch tính MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN!! Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới. *** LEIGH BARDUGO - Nữ tiểu thuyết gia đa tài của dòng văn học fantasy Leigh Bardugo sinh ra tại Jerusalem và lớn lên ở Los Angeles. Cô là tác giả sách bán chạy của New York Times với các series tiểu thuyết Fantasy xoay quanh Vũ trụ Grisha, trong đó nổi bật là bộ sách MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN. Bardugo tốt nghiệp Đại học Yale, làm việc trong các lĩnh vực quảng cáo, báo chí, và gần đây nhất là hoá trang cùng hiệu ứng kĩ xảo. Ngoài ra cô cũng là một trong hai giọng ca chính của ban nhạc Captain Automatic. Bên cạnh đó, Leigh Bardugo cũng sẽ tham gia với tư cách giám đốc sản xuất series phim dài tập chuyển thể Vũ trụ Grisha sẽ được ra mắt vào cuối năm 2020 này do dịch vụ xem phim trực tuyến Netflix thực hiện. *** “Nhưng chẳng phải mọi cô gái đều mơ điều đó hay sao? Mở mắt dậy và thấy mình là công chúa. Hoặc được định mệnh ban cho những năng lực pháp thuật và một số phận phi thường. Có những người sống như thế… Nhưng với những người còn lại thì sao? Những người vô danh tiểu tốt, những đứa con gái vô hình thì sao? Chúng ta được dạy hãy ngẩng cao đầu như thể đang đội vương miện. Chúng ta được dạy viết nên những điều kỳ diệu từ sự tầm thường. Đó là cách thức mà bạn sống sót khi không phải người được chọn, khi trong huyết quản bạn không có dòng máu vương tộc. Khi thế giới chẳng nợ bạn gì sất, bạn vẫn lấy được thứ gì đó từ nó”. MÓNG VUỐT QUẠ ĐEN Vậy là mình đã đọc xong trọn bộ “Móng vuốt quạ đen”. Tuy đã viết review cho tập 1&2 nhưng giờ mình sẽ review cho cả bộ truyện mà không đọc lại review của tập 1&2. Tập 3&4 được phát hành kèm theo boxset cho bốn cuốn, thay vào chỗ của hai cuốn 1&2 là hai hộp giấy có kích thước đúng bằng hai cuốn sách, ai đã mua tập 1&2 thì chỉ cần lấy hộp giấy ra và thay sách vào. Boxset được thiết kế rất đẹp, đồng điệu với bốn bìa sách, trong mỗi cuốn đều kèm theo một bookmark với hình vẽ “cắt” từ một phần hình bìa. “Móng vuốt quạ đen” thuộc thể loại truyện kỳ ảo phiêu lưu dành cho tuổi từ 12 trở lên, tuy vậy mình tin rằng tuổi 32 đọc vẫn sẽ thấy hay. Dàn ý tổng quan của cả bộ truyện là: Sáu kẻ bất hảo thuộc băng nhóm Cặn Bã của thành phố Kettledam được một thành viên cao cấp của Hội Đồng Thương Gia nhờ đi giải cứu một nhà phát minh đã sáng chế ra thứ ma túy có tác dụng gia tăng công lực cho các phù thủy (trong truyện gọi là Grisha). Bản thân nhà phát minh này cũng là một phù thủy, ông đang bị giam trong Lâu Đài Băng thuộc vùng đất băng tuyết của một vương quốc thù địch. Sáu kẻ bất hảo gồm: + Inej Ghafa: biệt danh Bóng Ma, chuyên thu thập thông tin + Kaz Brekker: biệt danh Tay Nhám, là một kẻ cướp và lừa đảo tàn nhẫn + Wylan: chuyên gia phá hủy, biết thổi sáo + Jesper Fahey: tay súng thiện xạ, cao lêu nghêu + Nina Zenik: một Grisha + Matthias Helvar: chiến binh của vương quốc thù địch Bộ truyện này của tác giả Leigh Bardugo ngắn hơn so với các bộ fantasy của Cassandra Clare, do đó mình có thể đọc hết bốn cuốn trong khoảng một tuần. Vì không có nhiều thời gian để đọc chứ nếu tập trung hoàn toàn thì mình nghĩ có thể đọc 1 cuốn / ngày. Tuy nhiên vì nhịp truyện khá nhanh, diễn biến dồn dập và kịch tính nên cần đọc chậm chút để thưởng thức cái hay của truyện và không quên tình tiết. Lúc đọc các cuốn này thì mình phải ngưng hoàn toàn những cuốn khác, vì “Móng vuốt quạ đen” thực sự rất hấp dẫn và dễ đọc, cứ muốn đọc tiếp hoài. Mỗi cuốn được chia thành các phần chính lớn, trong mỗi phần là từng chương nhỏ được tuần tự kể qua góc nhìn của sáu nhân vật chính. Tác giả rất biết cách “trói chặt” người đọc khi mỗi kết chương đều là những câu, những tình huống rất giựt gân, khiến người đọc không thể bỏ sách xuống và tự buộc mình phải thức thật khuya để đọc *** Joost có hai vấn đề: mặt trăng và ria mép. Lẽ ra cậu phải đi tuần tra quanh tư dinh của ngài Hoede, thế nhưng suốt mười lăm phút vừa qua cậu chỉ quanh quẩn ở bức tường phía đông nam của khu vườn, tìm kiếm trong vô vọng một thứ gì đó lãng mạn mà không ngớ ngẩn để nói với Anya. Giá mà cô có đôi mắt xanh như biển khơi hoặc như màu ngọc lục bảo. Nhưng chúng lại có màu nâu, đáng yêu và mơ màng… Nâu như sôcôla tan chảy ư? Hay là nâu như lông thỏ? “Cứ nói là làn da cô ấy tựa như ánh trăng,” anh bạn Pieter đã khuyên Joost như vậy. “Bọn con gái thích thế.” Một giải pháp hoàn hảo, nhưng thời tiết ở Ketterdam không chiều lòng Joost. Suốt cả ngày nay chẳng có cơn gió nào từ ngoài cảng thổi vào, lớp sương trắng đục quấn chặt những con kênh và ngõ ngách quanh co trong sự ẩm ướt. Ngay cả ở đây, giữa những tư dinh tại Geldstraat này, không khí cũng sực mùi cá và mùi nước súc hầm tàu. Khói từ các xưởng tinh chế trên những hòn đảo lân cận tạo thành một lớp mây mù thớ lợ che phủ bầu trời đêm. Vầng trăng tròn trông bớt giống một viên ngọc và như một cái mụn rộp vàng đục cần được chọc vỡ nhiều hơn. Hay là ca tụng nụ cười của cô ấy nhỉ? Chỉ có điều, Joost chưa bao giờ nghe Anya cười. Pha trò không phải là thế mạnh của cậu. Joost liếc nhìn mình ở một trong những tấm gương gắn trên các cánh cửa đôi dẫn ra vườn. Mẹ của cậu nói đúng: ngay cả trong bộ đồng phục mới này, trông cậu vẫn giống như một đứa con nít. Joost lướt nhẹ ngón tay qua môi trên. Giá như bộ ria mép của cậu chịu mọc. Dù sao thì nó cũng có vẻ dày hơn hôm qua, rõ ràng là thế. Mới làm vệ quân trong đội thị tuần được non sáu tuần lễ mà Joost đã thấy công việc này không thú vị như mong đợi. Cậu cứ tưởng mình sẽ được truy đuổi những tên trộm ở Barrel, hoặc đi tuần tra hải cảng để kiểm định những chuyến hàng cập bến. Nhưng từ sau vụ ám sát ông đại sứ tại Toà thị chính, Hội đồng Thương buôn liên tục kêu ca về tình hình an ninh, và thế là Joost bị mắc kẹt với việc đi lòng vòng quanh tư dinh của một tay lái buôn may mắn. Nhưng ông ta không phải là một kẻ vô danh. Ủy viên hội đồng Hoede là thương gia có chức vụ cao nhất trong chính quyền Ketterdam. Kiểu người có thể làm nên đại sự. Joost chỉnh lại áo xống và khẩu súng, rồi vỗ nhẹ cây dùi cui nặng trĩu treo lủng lẳng bên hông. Biết đâu cậu có thể lọt vào mắt xanh của Hoede. Tinh mắt và sử dụng dùi cui linh hoạt, cậu ta xứng đáng được thăng cấp!Joost hình dung ông ta sẽ nói như thế. “Trung sĩ Joost Van Poel,” cậu lẩm nhẩm, tận hưởng từng chữ một. “Đội trưởng Joost Van Poel.” “Đừng có ngắm vuốt nữa mà.” Joost giật nảy người, hai má đỏ ửng, trong lúc Henk và Rutger tiến ra vườn. Cả hai người đều lớn tuổi hơn, to con hơn và có đôi vai rộng hơn so với Joost. Họ là cận vệ trong nhà, gia nhân của ủy viên hội đồng Hoede. Do vậy họ được mặc chế phục mầu xanh của ông ta, mang những khẩu súng trường bá cháy của Novyi Zem, và luôn nhắc cho Joost nhớ rằng cậu chỉ là một anh lính quèn trong đội tuần tra của thành phố. “Có nâng niu mấy sợi râu loe ngoe đó thì cũng chẳng làm cho chúng mọc nhanh hơn được đâu,” Rutger nhận xét kèm theo một tràng cười sang sảng. Joost đáp, cố vớt vát một chút thể diện. “Tôi phải đi tuần tra nốt đây.” Rutger huých Henk một cái. “Có nghĩa là cậu chàng sắp thò đầu vào trong xưởng Grisha để ghé thăm bạn gái đấy.” “Anya ơi, em có thể dùng năng lực Grisha để làm râu anh mọc được không?” Henk chế giễu. Joost quay gót, hai má đỏ bừng, và bước đi dọc theo mặt đông của toà nhà. Bọn họ đã trêu chọc cậu từ hôm đầu tiên cậu đến đây. Nếu không vì Anya, chắc cậu đã nài nỉ đội trưởng cho mình đổi qua nhiệm vụ khác. Anya và Joost chỉ trao đổi với nhau vài lời trong các chuyến tuần tra, nhưng cô luôn là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong những đêm dài của cậu. Ngoài ra, Joost phải công nhận là cậu cũng thích tư dinh của Hoede, ít nhất với những thứ cậu quan sát được trong vài lần trộm nghía qua cửa sổ. Ngài Hoede sở hữu một trong những tư dinh lớn nhất Geldstraat. Sàn nhà được lát những vuông đá hai màu trắng đen, các vách tường gỗ bóng sẫm màu được chiếu sáng bởi những chùm đèn thuỷ tinh thổi giống như đàn sứa lơ lửng gần các ô trần. Đôi khi Joost vờ như đây là nhà mình, và cậu là một thương gia giàu có đang đi hít thở không khí trong khu vườn tráng lệ của mình. Trước khi đi tới góc tường, Joost hít một hơi thật sâu. Anya à, đôi mắt em nâu như… vỏ cây? Cậu sẽ nghĩ ra một thứ gì đó. Dù sao thì cậu nên ứng khẩu là hơn. Joost ngạc nhiên khi thấy mấy cánh cửa kính của xưởng Grisha đang mở. Sự giàu có của Hoede không chỉ nằm ở lớp gạch lam vẽ tay được lát trong nhà bếp hay những lò sưởi phủ đầy chậu hoa tulip, mà còn ở chính cái xưởng này. Các Grisha giúp việc theo giao kèo không hề rẻ, và Hoede có đến ba người. Nhưng Yuri không xuất hiện bên bàn thợ dài, còn Anya thì chẳng thấy đâu. Chỉ mỗi mình Retvenko đang ở đó, nằm ườn trên ghế trong chiếc áo choàng màu lam thẫm, mắt nhắm nghiền, một cuốn sách đang mở đặt trên ngực. Joost ngập ngừng trên ngưỡng cửa, rồi hắng giọng. “Mấy cái cửa này nên được đóng lại và khoá chặt vào buổi tối.” “Ở đây nóng như cái lò,” Retvenko dài giọng đáp lại mà không buồn mở mắt, với âm sắc Ravka nặng và uốn lưỡi nhiều. “Bảo Hoede là bao giờ tôi không chảy mồ hôi nữa thì tôi sẽ đóng cửa.” Retvenko là một Tiết Khí Sư, lớn tuổi hơn những Grisha giúp việc theo giao kèo khác. Mái tóc ông ta đã ngả màu muối tiêu. Theo lời đồn thì ông ta từng chiến đấu cho phe thua cuộc trong nội chiến Ravka và chạy sang Kerch sau đó. “Tôi sẽ rất sẵn lòng chuyển lời phàn nàn của ông tới Ủy viên hội đồng Hoede,” Joost nói dối. Toà nhà luôn luôn được sưởi quá mức như thể Hoede bị buộc phải đốt than, nhưng Joost không phải là người lưu ý chuyện đó với ông ta. “Trong lúc chờ đợi…” “Cậu có tin của Yuri à?” Retvenko cắt ngang, rốt cuộc cũng mở đôi mắt trũng sâu của mình. Joost bối rối nhìn những bát đựng nho đỏ và các chồng vải nhung màu đỏ rượu nằm trên bàn thợ. Yuri đang nghiên cứu cách nhuộm màu đỏ của trái nho cho những tấm rèm của phu nhân Hoede, nhưng mấy hôm trước anh ta ngã bệnh nặng và Joost không gặp anh ta kể từ lúc đó. Bụi đã bắt đầu bám trên chỗ vải nhung, còn những trái nho bắt đầu hỏng. “Tôi không nghe gì cả.” “Phải rồi. Cậu còn bận nghênh ngang tới lui trong cái bộ đồng phục tím ngớ tím ngẩn.” Đồng phục của cậu thì có liên quan gì? Mà tại sao Retvenko phải có mặt ở đây? Ông ta là Tiết Khí Sư riêng của Hoede, thường xuyên rong ruổi trên những con tàu hàng quý báu nhất của ngài thương gia để bảo đảm mưa thuận gió hoà, cho phép chúng cập bến an toàn và nhanh chóng. Tại sao ông ta không đi biển vào lúc này? “Tôi nghĩ có thể Yuri đang bị cách li.” “Hữu ích ghê,” Retvenko đáp với nụ cười khinh khỉnh. “Cậu có thể ngừng vươn cổ ngó nghiêng được rồi đó. Anya đi rồi.” Joost lại cảm thấy mặt mình nóng bừng. “Cô ấy đang ở đâu?” Cậu hỏi, cố tỏ ra uy quyền. “Cô ấy nên ở trong nhà vào buổi tối.” “Một giờ trước Hoede đã đưa con bé đi. Cũng giống như cái đêm ông ta đến tìm Yuri.” “Ông nói ông ta ‘đến tìm Yuri’ nghĩa là sao? Anh ta bị bệnh mà?” “Hoede đến tìm Yuri, khi về Yuri ngã bệnh. Hai ngày sau, thằng bé mất tích luôn. Giờ tới lượt Anya.” Mất tích luôn? “Biết đâu đây là một việc khẩn cấp. Nếu có ai đó cần được cứu chữa thì…” “Đầu tiên là Yuri, giờ là Anya. Tôi sẽ là người tiếp theo, và không ai để ý ngoại trừ anh lính quèn Joost. Cậu đi ngay đi.” “Nếu Ủy viên hội đồng Hoede…” Retvenko giơ cánh tay lên, và một luồng gió đẩy Joost lùi lại. Cậu loạng choạng cố đứng vững, bám tay vào khung cửa. “Tôi đã bảo đi ngay.” Retvenko vẽ một vòng tròn trong không khí và cánh cửa đóng sầm lại. Joost buông tay ra vừa kịp lúc để tránh bị kẹp ngón tay. Cậu ngã ra ngoài vườn. Joost đứng dậy nhanh hết mức có thể và phủi sạch bộ đồng phục với cảm giác nhục nhã ê chề trong lòng. Một tấm kính cửa đã bị rạn do lực tác động. Qua lớp kính rạn cậu nhìn thấy nụ cười của Retvenko. “Chuyện này sẽ được tính vào giao kèo của ông,” Joost vừa nói vừa chỉ tay vào tấm kính rạn. Cậu căm ghét giọng điệu nhỏ nhen ti tiện vừa bật ra từ miệng mình. Retvenko vẫy tay, và cánh cửa rung lên lạch cạch. Joost bất giác lui lại một bước. “Đi tuần đi, cún con à,” ông ta nói. “Mọi chuyện suôn sẻ ghê!” Rutger cười khúc khích, lưng dựa vào bờ tường của khu vườn. Anh ta đứng đó được bao lâu rồi? “Anh không có chuyện gì khác để làm ngoài bám theo tôi à?” Joost hỏi. “Tất cả các cận vệ được gọi đến nhà thuyền, kể cả cậu. Hay là cậu đang bận kết bạn?” “Tôi chỉ đang nhắc ông ta đóng cửa lại.” Rutger lắc đầu. “Đừng nhắc. Hãy ra lệnh. Bọn họ là gia nhân, không phải khách mời danh dự.” Trong lòng chưa hết nhục nhã, Joost bước đi bên cạnh anh ta. Tệ nhất là Rutger nói đúng. Retvenko không có quyền gì để mà nói năng với cậu như vậy. Nhưng cậu còn làm gì được đây? Ngay cả khi cậu có đủ dũng khí, việc ẩu đả với một Tiết Khí Sư cũng giống như đánh một cái bình đắt tiền. Các Grisha không phải là người giúp việc đơn thuần, họ là tài sản quý báu của Hoede. Ngụ ý của Retvenko khi nói về Yuri và Anya khiến Joost bận tâm. Có phải ông ta đang bao che cho Anya hay không? Các Grisha giúp việc theo giao kèo bị giữ ở trong nhà là có lí do cả. Nếu lang thang ngoài đường mà không được bảo vệ, họ có nguy cơ sẽ bị bọn buôn nô lệ bắt mất. Biết đâu cô ấy đang hẹn hò ai đó, Joost rầu rĩ phỏng đoán. Dòng suy nghĩ của Joost bị cắt ngang bởi ánh sáng và sự nhộn nhịp bên cạnh nhà thuyền đối diện dòng kênh, cậu có thể nhìn thấy ở bờ bên kia những toà nhà tráng lệ của các thương gia, cao và thanh thoát. Các đầu hồi gọn ghẽ trên mái tạo thành những hình thù đen thâm trên nền trời. Các khu vườn và nhà thuyền của chúng được chiếu sáng bằng những ngọn đèn lồng rực rỡ.