Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Là Tôi Đã Giết Cô Ấy

Vùng nông thôn yên bình, một cô gái bị bệnh tâm thần thắt cổ ở rừng đào. Trên cổ cô ấy có không biết bao nhiêu vết bóp cổ, trên người còn có dấu vết bị ngược đãi. Cảnh sát Lương Hi vừa từ thành phố đến vùng nông thôn này, cô cố chấp cho rằng không phải cô gái kia tự sát, quyết định vi phạm chỉ đạo của đồn trưởng mà điều tra vụ án này. Chồng của cô gái tâm thần là một người què, gã phủ nhận việc mình giết hại vợ, cũng nói cho Lương Hi một sự thật kinh người: Đứa bé trong bụng vợ không phải của gã. Lương Hi lần theo manh mối này mà tiếp tục điều tra, và rồi, cô biết được rất nhiều chuyện mà cô gái này không muốn người khác biết. Người chết hai mươi mốt tuổi, đã từng hoạt bát, rộng rãi, là người duy nhất có hy vọng thi đậu vào đại học trọng điểm của trường trung học trấn Lương Vân. Sau khi người chết bỏ học đã từng ở bệnh viện tâm thần hai tuần. Người chết và tên côn đồ trên đường có quan hệ mờ ám. Người chết có nghi vấn bị gã bán hàng rong xâm hại. Người chết có mâu thuẫn với chủ cửa tiệm băng đĩa trên đường. … Vì sao người chết lại bị mắc bệnh tâm thần? Và vì sao lại trở thành thi thể trong rừng đào bí ẩn kia? … Chân tướng về cô gái này dần được Lương Hi điều tra và vạch trần. … Tag: Tình yêu chốn nông thôn, huyền nghi trinh thám, trưởng thành, thời đại mới. Lập ý: Tự cứu vớt chính mình. *** Mùa hè nóng nực. Tào Quốc An đi một đôi sandal da màu nâu dơ bẩn, tay ông đang xách một chiếc túi ni lông màu đỏ đựng bánh bao thịt, ông loạng choạng đi đến cổng lớn của đồn cảnh sát. Ông liếc nhìn tấm biển của đồn cảnh sát, mấy chữ “xã Lục Trình” trông cực kỳ chướng mắt, không biết một nét trong chữ “đồn” đã bị tên nhóc nào lấy mất, chỉ còn lại một vết keo bẩn thỉu. Vừa nghĩ đến khoản phí “như trứng chọi đá” phải bỏ ra cho tấm biển tồi tàn này, ông đã cảm thấy đau răng, chắc là chẳng cần sửa lại làm gì, được ngày nào thì hay ngày đó vậy. Tào Quốc An tặc lưỡi, ông đẩy cánh cửa sắt loang lổ vết gỉ sét ra, xốc đôi sandal rồi đi về phía căn nhà gạch loang lổ màu xám trắng trước mắt. Ông đi một cách ung dung, ánh mắt quan sát mọi nơi một cách đầy ngẫu nhiên, đầu thuốc lá rơi trên mặt đất, vết bẩn trên tường, cỏ dại giữa các viên gạch, chiếc xe Santana màu đen mà đơn vị khác bỏ đi – cũng là chiếc xe mà Tào Quốc An tốn trăm cay nghìn đắng mới lấy được từ trong huyện về, tất cả đều đập vào trong mắt. Chớp mắt một cái mà ông đã đến nơi này bốn năm rồi, mới đầu ông còn tràn đầy nhiệt huyết mà chạy đến đây lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình, còn bây giờ thì không chỉ mỗi công việc rối tinh rối mù, mà cuộc sống cũng rối bời không thôi, Tào Quốc An nghĩ thôi mà đã thấy bực bội. Ông xoa xoa lồng ngực, chỗ hôm qua bị đánh hãy còn âm ỉ đau, nếu không phải là một cảnh sát, thì e là hôm qua Tào Quốc An đã đánh đồ chó đó một trận thật tàn nhẫn rồi. Tào Quốc An vừa âm thầm chửi bới vừa đi vào phòng làm việc. Phòng làm việc bố trí sáu chiếc bàn làm việc đối diện nhau, chiếc bàn làm việc ở giữa bên trái có một cậu trai trẻ đang vùi đầu bận rộn. Cậu tên là Lâm Sinh Nguyên, đã đến đây được hai năm, do Tào Quốc An tuyển cậu vào. Tào Quốc An lặng lẽ đi đến bên cạnh Lâm Sinh Nguyên, ngón trỏ cong lại, khẽ gõ lên chiếc bàn. Lâm Sinh Nguyên mơ mơ màng màng mà ngẩng đầu lên khỏi đống tài liệu, thấy Tào Quốc An, sắc mặt cậu chợt sợ hãi: “Đồn… đồn trường, chú đến rồi.” “Ừm.” Tào Quốc An đằng hắng giọng, nhìn về phía chếch chếch đối diện, hỏi với chất giọng trầm thấp: “Lão Phương đâu?” “Chú ấy… chú ấy nói là muốn đi bón phân cho ruộng nên sẽ đến muộn một chút ạ.” Tào Quốc An nhíu mày, ông đưa cổ tay lên mà nhìn đồng hồ, bây giờ đã hơn chín giờ rồi, Phương Châu Minh này thật là, ỷ vào lý lịch của mình mà thường xuyên làm việc cầm chừng, chẳng chịu coi ông ra gì cả. Tào Quốc An không vui, ông bèn ném túi ni lông xuống, hương thơm của bánh bao toả ra và quẩn quanh chóp mũi Lâm Sinh Nguyên ngay tức thì. “Của cậu!” Tào Quốc An chỉ để lại hai chữ như thế. Lâm Sinh Nguyên cúi đầu ngửi ngửi, sắc mặt sáng sủa hẳn lên, cậu vạch mở túi ni lông ra, âm thanh của chiếc túi ni lông vang lên sột soạt. “Cảm ơn đồn trưởng ạ, bây giờ không có cơm của chú Dương nên cháu cứ phải ra ngoài quán ăn, cháu sắp không ăn nổi nữa rồi.” Cậu nói. “Ngày mai anh ấy sẽ quay về.” Tào Quốc An nói xong thì đi đến bên cạnh bàn làm việc sát cửa sổ. Trên bàn làm việc đặt hai bình mực nước, một đỏ một đen, một chiếc điện thoại để bàn, có cả một chồng tài liệu, mấy quyển sách, mấy cây bút. Đồ đạc được sắp xếp rất ngăn nắp, chỉ có một xấp giấy báo ném lộn xộn trên bàn, trông nó vô cùng nổi bật. Tào Quốc An cầm một xấp trên cùng lên, nhanh chóng lướt mắt qua và nhìn vào. Ngày tháng trên trang đầu tiên của xấp báo là: Thứ hai, ngày 21 tháng 7 năm 1997. “Mẹ nó.” Tào Quốc An ném tờ giấy báo lên bàn rồi nói: “Bưu điện có đáng tin không vậy, lại muộn mất hai ngày, tin tức mới cũng thành tin tức cũ, còn xem cái quái gì nữa!” “Đồn trưởng…” Lâm Sinh Nguyên vừa nhai vừa giải thích cho Tào Quốc An: “Bọn họ nói, trừ phi lái máy bay, còn không thì không có cách nào nhanh hơn nữa.” Tào Quốc An “hừ” một tiếng, kéo ghế ra rồi đặt mông ngồi xuống, ông ngã về phía sau, chiếc ghế cũ nát đó phát ra âm thanh kẽo kẹt. Sau đó ông lại mò mẫm túi áo đồng phục để lấy hộp thuốc lá và cái bật lửa, bật lửa chỉ còn lại một chút ít gas dưới đáy, ông bật mấy lần liền mới quẹt ra được đốm lửa nhỏ. Tào Quốc An châm điếu thuốc, hút mạnh mấy ngụm, ông dựa vào lưng ghế, ngẩn ngơ mà nhìn lên trần nhà. Quạt trần trên đỉnh đầu quay quay phát ra tiếng kêu cọt kẹt, tiếng ve sầu ngoài cửa sổ vang lên những thanh âm chói tai, đường phố ngoài kia truyền đến tiếng nổ rang ầm ầm của xe máy đi ngang qua. Tào Quốc An dựa vào lưng ghế, hết hút thuốc rồi lại nhả khói, trong đầu ông thì lại đang nghĩ đến cuộc điện thoại mà mấy ngày trước vừa nhận được. Trong trí nhớ của Tào Quốc An, không có người nào bằng lòng đến chỗ xa xôi hoang vắng như xã Lục Trình này, thị trấn nhỏ hẻo lánh này cách huyện hàng trăm ki-lô-mét, núi thì cao mà đường thì lại xa, một chuyến xe khách đi từ huyện đến đây phải mất hơn ba tiếng đồng hồ. Cũng vì giao thông không thuận lợi, kinh tế kém phát triển, nên có hơn một nửa số lao động trẻ tuổi khỏe mạnh của xã đã đi ra ngoài để kiếm sống, còn một nửa thì đang làm nghề trồng trọt, kiếm sống dựa vào ông trời. Tào Quốc An từng rất chán ghét nơi này, nhưng ông là quân nhân đã xuất ngũ, quân nhân xem việc phục tùng mệnh lệnh là thiên chức, ông phục tùng mệnh lệnh của cấp trên nên mới cắm rễ ở chỗ này. Ban đầu, khi vừa đến nơi này, ông không nể nang ai mà tìm ủy ban xã mượn nhà, ủy ban không lay chuyển được nên đành cho ông mấy căn phòng chuẩn bị làm chỗ mua bán súc vật trên phố, nơi đó chính là đồn cảnh sát xã Lục Trình hiện giờ. Đồn cảnh sát có hai dãy phòng, trước và sau, dãy trước là khu vực làm việc, có năm căn phòng, phía trong cùng bên trái là phòng thẩm vấn và phòng tạm giam, bên phải là phòng hồ sơ, căn phòng lớn nhất ở giữa là phòng làm việc; dãy sau là khu vực sinh hoạt, có bốn căn phòng, một nhà bếp, ba phòng ngủ, có một phòng riêng là nhà vệ sinh. Tào Quốc An, Lâm Sinh Nguyên và cả chú Trần đều sống ở trong đồn, Phương Châu Minh thì ở tại nhà của mình. Tào Quốc An vẫn luôn nói với bên trên rằng, trong đồn cần có “nguồn máu” tươi mới, nhưng bên trên lại chẳng chịu điều người đến, sau khi Tào Quốc An thúc giục mấy lần thì cũng không thúc giục nữa, ông nghĩ, về công việc thì ba người bọn họ có thể miễn cưỡng mà đảm đương được, thêm một người nữa đến thì phải nhường chỗ ở, phiền phức lắm, chẳng thà cứ cho qua đi thôi. Nhưng mấy hôm trước bên trên lại gọi điện thoại đến, nói có một sinh viên vừa tốt nghiệp muốn đến xã Lục Trình làm việc. Đã thế, người này còn là phái nữ. Tào Quốc An nghe tin này mà như sét đánh ngang tai, ông nhấn mạnh với bên trên rằng, người mà đồn cảnh sát cần là đàn ông trẻ tuổi, chứ không phải là một nữ sinh được nuông chiều. Nữ sinh viên thì có thể làm được gì cơ chứ? Được nuông chiều từ bé, tính tình nóng nảy, không gây ra phiền phức gì đã là tốt lắm rồi. Nhưng thái độ của bên trên kiên quyết, không cho ông bất kỳ cơ hội thương lượng nào. Tào Quốc An nói không lại, chỉ đành thỏa hiệp, mấy ngày nay ông nôn nóng khó chịu, ngày nào cũng buồn rầu u ám vì chuyện này. Thấy hôm nay chính là ngày mà cô gái đó đến, Tào Quốc An càng không yên lòng. “Lúc nào cô gái đó đến vậy?” Tào Quốc An mặt ủ mày chau hỏi Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên sững sờ, lập tức hiểu người mà Tào Quốc An đang hỏi đến là đồng nghiệp mới chưa từng gặp mặt đó, cậu nói: “Sáng hôm nay nhận được điện thoại rồi ạ, nói là chuyến xe khách hơn mười giờ sáng đó.” “Đợi gần tới khi ấy thì cậu đi đón cô ấy.” “Hả?” “Lẽ nào để tôi đi à?” “Không phải, đồn trưởng. Cô ấy nói…” Lâm Sinh Nguyên đằng hắng, dùng giọng điệu lạnh nhạt mà Tào Quốc An chưa từng nghe thấy bao giờ mà nói lại rằng: “Không cần đón, tự tôi có chân.” Mắt Tào Quốc An nheo lại, ông ném ánh mắt sắc lẹm về phía Lâm Sinh Nguyên. Lâm Sinh Nguyên giật mình, giải thích: “Cô ấy nói thế thật đấy ạ, cháu không bịa đặt đâu.” Tào Quốc An hừ lạnh một tiếng: “Một cô nhóc thôi mà giọng điệu cũng ghê gớm thật đấy, không đón thì không đón, chúng ta đợi cô ta.” Đồng hồ trên tường cứ tích tách, tích tách mà xoay đều, theo dòng thời gian dần trôi, mặt trời cứ lên cao dần, sự khô hanh trong không khí càng lúc càng nhiều, Tào Quốc An không ngừng thay đổi tư thế, nhưng dù có thay đổi thế nào thì vẫn thấy không thoải mái, cơn đau từ vết thương nơi lồng ngực làm ảnh hưởng đến ông, nếu không nghĩ đến chuyện mình là cảnh sát, thì hôm qua ông rất muốn đánh người đó một trận dữ dội. “Mấy giờ rồi?” Lâm Sinh Nguyên quay đầu nhìn lên trên tường, nói: “Mười giờ rồi ạ.” Tào Quốc An liếc nhìn về phía cổng đồn cảnh sát, chẳng có ai xuất hiện cả, ông chuyển sang nhắm mắt lại, dựa người vào lưng ghế, hơi thở phì phò phát ra từ lỗ mũi như đã giải tỏa bao khó chịu trong lòng ông. Mấy phút sau, hình như ngoài cổng vang lên tiếng “bịch bịch bịch”. Tiếng động này vang từ xa đến gần, Tào Quốc An mở mắt ra, lòng đầy cảnh giác mà nhìn ra bên ngoài. Một bóng người gầy yếu đứng ngay cửa phòng làm việc, cô đứng ngược chiều sáng nên người ta chẳng thể thấy rõ khuôn mặt của cô. Tào Quốc An vừa muốn mở lời hỏi chuyện thì bóng người đó đã nói: “Xin hỏi ai là Tào Quốc An – đồn trưởng Tào?” Giọng nói trong trẻo nghe hơi nghiêm túc, khiến cho Tào Quốc An chợt nhớ đến vị lãnh đạo bộ đội, ông trả lời: “Là tôi. Cô là Lương Hi?” “Vâng.” Lương Hi đi về phía trước, chìa tay ra và cúi chào: “Chào đồn trưởng Tào, tôi là Lương Hi, cảnh sát mới đến.” Chân mày Tào Quốc An nhíu chặt lại, ông cẩn thận quan sát Lương Hi, gương mặt trắng ngần, mắt phượng mày ngài, dáng người mảnh khảnh, tóc dài chạm bả vai, cô đang mặc một chiếc áo sơ mi sọc ca-rô và quần jeans, chân thì đi một đôi giày thể thao thời thượng, tay trái cô đang đỡ một chiếc vali màu đỏ có bánh xe, tay phải thì cầm một chiếc bình giữ nhiệt, trông có vẻ rất đắt tiền. Vừa nhìn đã biết là cô chưa từng trải qua bất kỳ nỗi khổ cực gì, Tào Quốc An thầm thở dài. Tào Quốc An không biết rằng, trong lúc ông đang quan sát Lương Hi thì cô cảnh sát nhỏ mới đến này cũng đang lén quan sát ông. Khi còn ở trong huyện, Lương Hi đã từng nghe đến tiếng tăm của Tào Quốc An, cô cho rằng vị quân nhân đã xuất ngũ – cũng là người lập nên đồn cảnh sát xã Lục Trình trong miệng người khác là một người trung niên có tinh thần khá tốt, thế nhưng, xem ra là không phải như thế rồi. Tào Quốc An trước mắt đang khom lưng, sắc mặt giống như trái khổ qua già đã qua mùa vụ thu hoạch, trên người ông đang mặc một bộ đồng phục cảnh sát không hề vừa người, hai chiếc cúc áo gần cổ áo đang mở bung ra, cái bụng bị quần áo thít chặt lại, dây nịt trên lưng không thể nịt lại được, cả người trông vừa lôi thôi nhếch nhác vừa sa sút tinh thần. Khác xa với dáng vẻ trong tưởng tượng của Lương Hi, Lương Hi bất giác lộ ra vẻ mặt thất vọng. “Cô chính là Lương Hi à, nghe danh không bằng gặp mặt, tôi là Lâm Sinh Nguyên.” Mạch suy nghĩ của Lương Hi bị Lâm Sinh Nguyên gọi về, cô thu ánh mắt lại, nhìn về phía người trước mắt này. Người tên Lâm Sinh Nguyên này thì lại mặc đồng phục khá cẩn thận tỉ mỉ, có điều, vẻ mặt cậu vàng như nến, gầy trơ xương, trên đầu ngón tay gầy nhom còn dính mấy giọt mực carbon, xem ra là người làm công việc liên quan đến giấy tờ. “Xin chào.” Lương Hi duỗi tay ra, bắt tay tượng trưng với Lâm Sinh Nguyên. “Đây là bàn làm việc của cô, chúng tôi đều làm việc trong phòng làm việc này.” Lâm Sinh Nguyên được bàn tay mềm mại nhẵn mịn của Lương Hi nắm lấy nên tâm trạng phơi phới bủa vây cậu, cậu nhiệt tình chỉ vào vị trí còn trống bên cạnh cho Lương Hi. Bấy giờ Lương Hi mới có thời gian quan sát môi trường bên trong phòng làm việc. Cô nhìn quanh một lượt cả phòng làm việc này, trên vách tường có mấy miếng dán tường đã tróc, vốn dĩ căn phòng đã không lớn cho lắm, mà vì có thêm sáu chiếc bàn nên trông nó có vẻ chật chội hơn hẳn, chuyện khiến Lương Hi thấy khó hiểu hơn nữa đó chính là, sáu chiếc bàn làm việc này có kích cỡ không đều nhau, màu sắc không giống nhau, giống hệt như chúng được vơ vét từ nơi khác đến vậy. Trước khi đến thì Lương Hi đã chuẩn bị tư tưởng xong xuôi, thế nhưng, cô không ngờ rằng ngay cả môi trường làm việc mà cũng lộn xộn như thế này. Cô đi theo Lâm Sinh Nguyên đến bên cạnh bàn, quay sát chiếc bàn và cái ghế một chút, rồi cô duỗi một đầu ngón tay ra lau lau mặt bàn. “Tôi vừa mới lau, sạch sẽ lắm.” Lâm Sinh Nguyên nói. Lương Hi khẽ gật gật đầu, bình tĩnh gỡ bình giữ nhiệt xuống, đặt lên trên bàn. “Cảm ơn.” Cô nói. “Đừng khách sáo, trong hộc tủ thì tôi đã đặt mấy món đồ văn phòng phẩm cho cô, cô tự lấy nhé.” “Được,” Lương Hi chợt hỏi: “Còn một người đồng nghiệp nữa đâu rồi?” “Hả?” Lâm Sinh Nguyên sững sờ. “Ở đây,” Lương Hi chỉ vào vị trí bên cạnh, nói: “Chắc là có người mà nhỉ? Sao chú ấy lại không đến?” Lâm Sinh Nguyên bỗng hiểu ra: “Lão Phương à, chú ấy đi…” “Anh ấy đi thị sát rồi.” Tào Quốc An ngắt lời Lâm Sinh Nguyên: “Người mới, chuyện không nên quan tâm thì đừng quan tâm.” Lương Hi bĩu môi. “Cô là người của Học viện Cảnh sát tỉnh thật ư?” Tào Quốc An nhìn Lương Hi, như thể là đang dò xét, hình như ông đang nghi ngờ lai lịch của cô. “Đúng, chắc chắn là thật, chuyên ngành trinh sát hình sự.” Lương Hi đáp. Tào Quốc An ngả người ra sau, nói: “Chỗ này của chúng tôi chỉ là một chốn nhỏ bé, không cần đến chuyên ngành có học vấn cao như thế.” Theo bản năng, Lương Hi phản bác: “Chốn nhỏ bé cũng có thể sẽ có người phạm tội.” Tào Quốc An kinh thường mà liếc Lương Hi, kiểu người trẻ tuổi này ông đã gặp nhiều rồi, tự cho mình là đúng, tự cho mình là giỏi, ắt rằng sau này sẽ phải chịu khổ. Ông hừ lạnh một tiếng, lười biếng dạy bảo rằng: “Tôi không quan tâm cô thế nào, nếu đã đến xã Lục Trình thì phải tuân thủ quy tắc, đừng gây chuyện.” Lương Hi còn muốn nói thêm vài câu, có điều, cô còn chưa kịp mở lời thì một giọng nói thảm thiết đã ập vào màng nhĩ cô. “Không ổn rồi! Đồn trưởng Tào! Tai nạn chết người rồi!” Một bóng người vội vã xông vào đồn cảnh sát.. Mời các bạn mượn đọc sách Là Tôi Đã Giết Cô Ấy của tác giả Mặc Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).