Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig

Trong tác phẩm của mình, Stefan Zweig đã viết: “Chỉ hai mươi bốn giờ thôi cũng có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời một người đàn bà”. Tôi cũng là một người đàn bà. Tôi cũng đã thử hỏi, trong hai mươi bốn giờ quá ít ỏi ấy, một người đàn bà có thể làm gì để được gọi là thay đổi số phận, hay cuộc đời? Vậy mà khi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của Stefan Zweig kể, tôi đã phải chạy đua với cảm xúc của nhân vật. Tôi không có được những cảm xúc mãnh liệt, bạo dạn như bà. Chỉ trong một ngày thôi, bà đã trải qua tất cả mọi cảm giác của cuộc đời này, đi đến tận cùng đê mê, hạnh phúc bên người tình chỉ trong một đêm, để rồi cũng phải chịu sự phản bội đến khốn nạn và nghiệt ngã khi bị sỉ nhục cay đắng bởi người mà mình đã yêu và trao đi tất cả. Người đàn bà ngoại tình ấy đáng thương hơn đáng giận rất nhiều, bởi đó là bản năng tuyệt vời của một người phụ nữ đã được đánh thức mãnh liệt sau những năm tháng sống bằng lặng và yên bình với những cảm xúc không thật. Tôi là một người đàn bà. Tôi trân trọng và cũng sợ hãi, xót thương cho những gì đã và đang diễn ra trong đời một người đàn bà giống như mình. Tôi đã cố gắng loay hoay với những cảm xúc của mình mà quên hẳn việc phải thành thật với cảm xúc của chính mình, và người phụ nữ đã mang trong mình một ám ảnh về tội lỗi ngoại tình với chồng con ấy đã chỉ cho tôi biết rằng , tôi không có nhiều thời gian để mài mòn cuộc sống trong những giả dối. Cách tốt nhất tôi có thể làm được chỉ là để mình tự do yêu, và sống cho thật với những gì mình cần phải sống. Ngẫm cho kĩ thì thời gian đâu có quan trọng ngắn dài, điều quan trọng hơn là cách mà chúng ta sống trong khoảng thời gian ấy thôi. Người đàn bà của tôi chỉ cần hai mươi bốn giờ sống thật sự để rồi "gặm nhấm" nó suốt một cuộc đời còn lại, như một nỗi ám ảnh, day dứt, thay đổi tất cả mọi cảm xúc của bà. Tôi xót xa cho số phận của một người đàn bà như mình, nhưng tôi biết tôi chẳng thể nào trốn tránh được những điều đó, bởi nó thuộc về bản năng, bản năng yêu và quyết định mọi thứ bằng trái tìm của tình yêu, mù quáng nhưng chân thành. Người kể câu chuyện về số phận của người đàn bà trong hai mươi bốn giờ ấy đã biểu hiện đủ đầy những diễn biến tâm lý, như một bản nhạc đầy thăng trầm, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn của đời người, nhưng với những điều tôi đã cảm nhận được, nó còn ngân dài hơn bất kì một bản tình ca nào khác về người phụ nữ. Đó là biệt tài của Stefan Zweig. Và chúng ta, những người phụ nữ suốt đời mang thân phận yếu ớt, mỏng manh, tại sao không thể chia sẻ với những đam mê thật thà của người đàn bà này, và để biết rằng chúng ta có thể tìm thấy điều gì thuộc về nhau. Một trích đoạn rất nhỏ trong câu chuyện, mà tôi muốn dùng nó để kết thúc bài viết của mình, và để bắt đầu cho các bạn khi đã cầm trên tay cuốn sách này. … Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh ona và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tôi, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khức, đè chặt lấy quá khức không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ… *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ. Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà của tác giả Stefan Zweig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bức Chân Dung - Nikolai Gogol
Nikolai Vasilyevich Gogol (tiếng Ukraina: Микола Васильович Гоголь, tiếng Nga: Николай Васильевич Гоголь, tiếng Ba Lan: Nikołaj Wasiljewicz Gogol; 1 tháng 4 năm 1809 – 4 tháng 3 năm 1852) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nảy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. *** Không có nơi nào đông người đứng lại xem như trước gian hàng bán tranh trong khu chợ lợp Shchukin. Đúng thế, ở đây tập hợp hết sức linh tinh đủ các thứ lạ mắt, phần lớn là những bức tranh dầu, phủ một lớp tráng bóng màu lục thẫm, trong những chiếc khung hào nhoáng màu vàng đậm. Mùa đông với những cây trắng xóa, cảnh mặt trời lặn đỏ ối trong như ánh lửa rực lên từ một đám cháy, một bác nông dân xứ Flandre, mồm ngậm tẩu, cánh tay cong vẹo, trông giống một con gà tây mặc áo hơn là một con người – đề tài của những bức tranh ấy thường là như vậy, thêm vào đấy là mấy bức tranh khắc gỗ: Chân dung Khozrev-Mirza[1] đội mũ lông cừu, chân dung mấy vị tướng đội mũ ba sừng, cái mũi cong lệch. Ngoài ra, cánh cửa loại gian hàng này thường lấp kín sau những tập tranh dân gian rộng khổ, in thứ tranh ảnh thể hiện cái thiên tư của người dân Nga. Một bức vẽ nàng công chúa Miliktrisa Kirbitievna; một bức vẽ thành Jerusalem, màu đỏ tràn lên mấy ngôi nhà và nhà thờ, quệt đỏ ngầu cả một khoảng đất, và hai người mu gích[2] Nga đang cầu nguyện, tay đeo bao. Người mua những bức tranh này thường chẳng có mấy nhưng người xem thì đông vô kể. Trong đám này thế nào cũng có một gã hầu phòng nát rượu đứng xem, mồm há hốc, tay cầm thức ăn vừa mua ở hiệu về cho chủ: chủ nó chắc chắn sẽ không phải bỏng mồm vì món xúp. Lại thế nào cũng có một anh lính, nhân vật chính của các chợ tầm tầm, tay cầm vẻn vẹn chỉ có hai con dao nhíp để chào khách, hoặc giả một chị bán hàng rong bưng một hộp đầy ních những giày. Mỗi người thưởng thức tranh một cách riêng; mấy bác mu gích giơ tay chỉ trỏ, mấy anh lính xem xét tận nơi, vẻ nghiêm trang; mấy thằng bé đi ở, mấy chú học nghề cười đùa chỉ trỏ cho nhau xem những bức biếm họa để rồi trêu nhau; những bác hầu phòng có tuổi khoác áo dạ thô thì chỉ cốt đứng lại để ngáp; còn những cô bán hàng rong, đúng kiểu các bà mẹ nhà quê Nga, do bản năng cũng chạy đến để nghe thiên hạ bàn tán và xem người ta đang làm gì. Đúng lúc ấy, Chartkov, một họa sĩ trẻ tuổi, đi ngang qua trước gian hàng, bất giác cũng dừng lại. Nhìn chiếc áo khoác cũ kỹ và bộ quần áo không chút cầu kỳ ta biết anh ta thuộc hạng người sống chỉ vì công việc, không có thì giờ nghĩ đến trang phục, tuy món này vốn là thứ hấp dẫn đám thanh niên lạ thường. Anh ta lúc đầu dừng chân trước gian hàng chỉ để cười thầm những bức tranh xấu xí nọ. Nhưng rồi sau, bất giác, anh trở nên đăm chiêu tư lự; anh băn khoăn không hiểu những bức tranh này liệu có ai cần đến. Ừ, người dân Nga ưa chuộng những bức thư Yeruslan Lazarevich, Ngốn khỏe và Nốc khỏe, Foma và Yerema điều đó anh chẳng lấy làm lạ; những đề tài ấy rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng còn những mớ tranh tồi quét sơn dầu, màu sặc sỡ và bẩn thỉu kia thì ai mua? Ai là người cần đến bức chân dung bác nông dân xứ Flandre ... Mời các bạn đón đọc Bức Chân Dung của tác giả Nikolai Gogol.
Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn - Ma Văn Kháng
Tác phẩm Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn là sự tổng hợp, sự thu hút vào nó những thủ pháp của tiểu thuyết tư liệu - nghiên cứu, tiểu thuyết tự thuật và kỹ thuật dòng ý thức, bút pháp tượng trưng, v.v... Nếu ở những chương đầu của Đồng bạc trắng hoa xòe, ông tuân thủ lối viết của người kể chuyện biết hết, tác phẩm bị lấn át bởi một giọng điệu kể thì đến Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã là một thực thể sinh động biết bao: tác phẩm có nhiều tầng lớp ý nghĩa, chứa nhiều ẩn dụ nghệ thuật, hư và thực, tiềm thức, vô thức đan cài với ý thức sáng rõ có chủ đích; thế giới hiện thực hiện hữu và thế giới tâm linh, huyền thoại bổ sung vào nhau, nhòe mờ các ranh giới, mà tư duy trừu tượng muốn phân định rạch ròi. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn của tác giả Ma Văn Kháng.
Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng - Ngô An Kha
Tiểu thuyết "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" của Ngô An Kha sẽ đưa bạn đến với cuộc phiêu lưu của những người trẻ, tới một hành tinh mới lạ, hành trình đi tìm bản ngã hay ước mơ cuộc đời. Câu chuyện kể về hành trình đi tìm thế giới khao khát của 3 nhân vật: L, R, F. Ba người trẻ trong câu chuyện đều cảm thấy buồn chán, cô đơn, mất phương hướng trong cuộc sống. Họ có ước mơ nhưng đều gặp rắc rối với ước mơ của mình. Người có ước mơ nhưng bị xã hội cản trở, người mất dần ước mơ, người lại dang dở với quá nhiều mơ ước. Và họ đã cùng nhau đi tìm thế giới khao khát - một thế giới không có sự hiện diện của nỗi đau. Đó cũng là hành trình đi tìm giá trị bản thân mỗi người và trả lời cho câu hỏi “Chúng ta sống trên đời này để làm gì?”. Với không gian truyện hiện đại, lạ lẫm, cách xây dựng tình huống phong phú, với bối cảnh là nhiều địa danh nổi tiếng thế giới như Roma, Paris và Barcelona, "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" sẽ dẫn dắt chúng ta đến với những mảnh đất mới, khám phá văn hóa, con người cùng vô vàn điều mới lạ. Tác phẩm mang đến cho độc giả những phương châm và bài học sâu sắc trong tình yêu và cuộc sống. Khi đấu tranh giữa những ước mơ, khó khăn của cuộc đời, con người thường tìm về thế giới không có thực để trốn thoát. Nhưng nỗi thống khổ của con người là không thể tránh khỏi, có tối tăm mới có ánh sáng. Tối tăm sẽ dẫn đường, làm nền tảng của ánh sáng. Câu chuyện còn mang đến bài học về tình yêu mà ở đó, sự chân thành và thấu hiểu luôn chiến thắng. Ngoài ra, bằng các yếu tố khoa học, tác giả muốn ngợi ca những phát minh vĩ đại của loài người, đồng thời lên tiếng về hệ lụy của chúng đối với môi trường sống mà chúng ta đang rất cần bảo tồn, cải thiện. "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" tạo cảm hứng cho các bạn trẻ đang loay hoay đi tìm bản ngã, mục đích sống thêm động lực để trưởng thành và biết cách để vượt qua nỗi cô đơn. Quá trình đi tìm thế giới trong mơ của những người trẻ trong câu chuyện cũng là hành trình đi tìm lại vẻ đẹp tâm hồn và niềm tin yêu cuộc sống. *** Roma, 4 giờ 30 chiều. L ngước nhìn lên. Lỗ hổng trên trần nhà mở to. Trần nhà hóa thành trời xanh xanh ngắt, những đám mây trắng tinh bồng bềnh trôi. L đưa tay ra, chới với, anh muốn chạm vào một đám mây. Mọi chuyển động của L lúc này chậm rãi, chậm rãi. Những đám mây xa L quá, anh đưa tay với mãi, với mãi nhưng chẳng thể nào chạm đến được. L thu tay về, mười ngón tay dài đặt trên vầng trán cao, vuốt xuống đôi mắt lúc này đã nhắm nghiền, từ từ rà dọc cánh mũi, rồi qua miệng, đến lúc cả hai bàn tay đều yên vị trên ngực trái - nơi con tim anh vẫn uể oải, chầm chậm đập những nhịp không thành tiếng. Bỗng chốc, hình xăm bàn tay của Chúa và Adam trên lưng anh bật dậy, nổi lên thành hình thành khối, bay lơ lửng giữa không trung, bay lên miền mây trời vừa trắng vừa xanh trên cao kia. Anh vẫn chưa biết đây là mơ hay thực. Anh đang ở thế giới nào? Liệu đây đã phải là hành tinh Dương Vô Cùng chưa? L trở mình thức dậy giữa căn phòng tối, cửa sổ mở toang. Cứ vài phút, ô tô chạy qua hắt ánh đèn vàng lên bức tường đối diện mà mắt anh đang dán vào, giờ đây đó là thứ ánh sáng duy nhất. L đã ngủ được gần bốn tiếng, có lẽ đó là bốn tiếng dài nhất cuộc đời anh. Chợt nhận ra đã cận kề với việc muộn giờ diễn, L bật dậy như sóc, nhanh chóng mặc quần áo. Anh diện quần jeans cùng chiếc áo phông cổ tròn cỡ rộng quen thuộc, tất cả đều màu đen. Từ trước đến giờ, L hiếm khi mặc màu nào khác ngoài màu đen. L vội vã chải những sóng tóc dài buông xõa quá vai với chiếc lược bằng chính bàn tay gầy guộc của mình. Thế là xong, anh chỉ cần nhặt chiếc áo khoác da biker đen lên, và mang cây đàn guitar cùng màu trên vai là rời khỏi nhà được rồi. Quãng đường đến quán bar L thường đàn hát cách căn xép nhỏ anh ở trọ tầm hai bến tàu, nhưng L thích đi bộ. Anh bước trên những con đường đá của Roma đến nát cả đôi bốt cao bằng mắt cá chân. Ánh đèn vàng sáng lòa của khối nhà cao trung trung, của ô tô, của xe Vespa hắt lên lưng L, để lộ hình xăm bàn tay của Chúa và Adam hững hờ sau chiếc áo đen cổ rộng anh đang mặc. Tempo là một quán bar không lớn nhưng cũng không nhỏ nằm trong một con hẻm tại thủ đô nước Ý, mà phải rồi, những quán bar kèm không gian chơi nhạc như thế có bao giờ lớn đâu chứ. L chơi nhạc ở đây cũng đã được hơn năm năm rồi. Những ca khúc indie pop của anh kén người nghe đến oải. Dẫu rằng đó là thứ âm nhạc tuyệt đẹp, trong trẻo, khát khao và đầy đam mê. Khi L cất tiếng hát, giọng anh sang sảng, những quãng ngân dài sâu hun hút, tưởng chừng như bất tận. Nỗi niềm tự sự vang lên, thủ thỉ kể từng câu chuyện nhỏ. L không giấu giếm điều gì, khi anh hát, anh bộc bạch hết lòng mình. Anh hát với cả con tim, lòng nhiệt thành và đam mê cháy bỏng. Trái với những ca khúc đậm chất trữ tình, nội tâm mà anh sáng tác từ năm mười mấy tuổi, L là một chàng trai vui vẻ, hoạt bát, ở ngoài nói nhiều hơn nghĩ, và nghĩ nhanh hơn nói. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng của tác giả Ngô An Kha.
Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên - Ma Văn Kháng
Mười chín tuổi, thầy Quang Tình người miền xuôi xung phong lên dạy học ở một tỉnh miền núi. Ra đi như “cờ bay trong gió, như lửa thốc trong lò”, người thanh niên nọ đã đem hết niềm say mê lý tưởng, cuộc đời để làm công việc mang đến ánh sáng văn hóa cho con em các dân tộc. Sau một thời gian dạy học ở các làng bản, do đã tích lũy được nhiều kinh nghiêm và có uy tín trong nghề nghiệp, thầy Quang Tình được điều về dạy học ở trường Bổ túc Văn hóa Công Nông, nơi chuyên dạy văn hóa cho các cán bộ xã cơ sở nông thôn miền núi của tỉnh. Đứng đầu cơ sở giáo dục này là một người thô bạo, có thiên kiến nặng nề với những ai xuất thân từ các tầng lớp khác không phải là công nông. Giữa hai người bất đồng nối tiếp bất đồng, và kết quả là thầy Quang Tình bị sa thải, phải ra khỏi ngành. Vợ thầy cũng bị liên lụy. Ra khỏi ngành, nghề nghiệp không, tiền bạc không, đất đai không, lại vợ dại con thơ, sống thế nào đây? Thầy Quang Tình, sẵn ý chí bất khuất, bắt tay vào công cuộc mưu sinh vô cùng gian khó. Sau một thời gian phải làm cả những công việc nguy hiểm và bẩn thỉu, thầy quyết định học nghề mộc. Sẵn ý chí không chịu thua hoàn cảnh và tố chất khéo léo, cùng với lòng kiên trì, ham học hỏi, lần lần thầy đã nắm vững được kỹ thuật nghề mộc, vượt qua được tình trạng bị dồn vào bước đường cùng, nuôi được vợ con. Tuy nhiên quan trọng ở đây là thầy đã tìm ra con người mình. Tìm ra ở chính cái cuộc sống mà thầy đã rơi xuống. Sau những gì qua đi, còn lại là cốt cách thanh tao, nhân cách cao cả của thầy. Tiểu thuyết  không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống với những mảng màu sắc thái khác nhau, sinh động và hấp dẫn, mà còn phát ngôn một thái độ, một triết học nhân sinh, một quan niệm thẩm mỹ về cuộc đời, con người. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như khả năng quan sát thấu đáo của Ma Văn Kháng đã làm nên những trang văn tỉ mỉ, tinh tế, công phu. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên của tác giả Ma Văn Kháng.