Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đồng Làng Đom Đóm - Trịnh Thanh Phong

Nửa đêm, bệnh viện chỉ còn ánh điện mờ mờ trong phòng bác sĩ trực ca. Vết thương đã dịu hơn mọi ngày nhưng chẳng hiểu tại sao Thăng không ngủ được, cứ nhắm mắt vào là thấy Hữu và những người đồng đội nối hàng nhau hành quân về cánh đồng. Thăng nghĩ chắc mình bị quá khứ ám ảnh. , Thăng khẽ tự ngồi dậy men ra chỗ cửa sổ ngồi. Đêm càng tĩnh lặng Thăng càng thấy mình bé nhỏ, nó chả khác gì hạt bụi, hạt cát bên triền sông, khe suối. Thế mà một thời Thăng cứ vung tay chém gió thay mặt cho cấp này cấp kia bắt mọi người phải một phép nghe theo. Lúc ấy Thăng chỉ thấy mình to lớn, chói loà. Những ý kiến trái ngược Thăng thường cho là tàn dư ma quái, nó chả khác gì những con đom đóm hoang dại nhập nhòe ở khắp bụi bờ ngoài kia. Bây giờ ngồi đây, trước ô cửa này nhìn ra ngoài cánh đồng, đêm mênh mông thế, cánh đồng rộng lớn thế, những con đom đóm cứ rờn tít lên cao rồi lại tự sa xuống mặt cánh đồng rồi đậu nhập nhòe quanh các bờ bụi, có con to như những cái bóng đèn cứ rập rờn quanh khu mộ nhà Hữu. Đêm đêm trên cánh đồng những con đom đóm vẫn nhập nhòe tỏa sáng như thế. Nhìn những con đom đóm nhập nhoè, Thăng lại hình dung ra những cái chai đèn và bó roi cật nứa vẫn để cạnh án thờ phía dưới bức tượng Hữu. Cái chai đèn tự nói với Thăng chính cái ánh sáng nhập nhòe Thăng từng cho là ma quái ấy đã tỏa sáng tâm hồn Hữu, Hữu đã biết soi vào đốm sáng nhỏ nhoi ấy để tìm con đường đến với ban mai, để Hữu dám sống, dám chết và dám tái sinh ra sự sống trong hoàn cảnh phải chết!... Điều kỳ diệu và bất diệt đó là thằng cu Nghị, là cái bệnh viện của Dần bây giờ. Chính nhờ có cái bệnh viện này mà cái Trầm đứa con gái duy nhất của Thăng cũng được tái sinh... Điều đó chứng tỏ sức tỏa sáng từ những con đom đóm mới là mãnh liệt, nó không giống như bó đuốc sáng rực giữa con đường nhưng nó có sức chiếu dọi để con người ta nhìn rõ những đường tơ mạng nhện giăng mắc khắp ngõ ngách làm cản trở bước chân người đến ban mai!... Nguồn sáng trong đôi mắt Hữu đã tích tụ từ những đốm sáng ấy để đi, để đến, để chết! Chính vì vậy khi chết rồi tâm hồn Hữu đã góp thêm lửa vào con đom đóm để nó thêm lấp lánh và mãi mãi kỳ diệu trong tâm hồn mỗi con người. Cái bệnh viện của Dần ngày hôm nay đang nói lên điều ấy. Sau cuộc chiến biết bao nhiêu lộn xộn, lòng người lập lờ đen trắng, sẵn sàng giẫm lên nhau vì những quyền lợi của riêng mình. Nếu như tâm hồn Dần không tích tụ được những điều giản dị thiêng liêng từng ánh lên trong cái chai đèn đom đóm chắc Dần cũng chụp giật được một vị trí để yên thân ở một cái bệnh viện nào đó rồi với khả năng lại có bằng sắc chuyên môn cao Dần cũng sẽ to dần lên hoặc tiêu lụi đi giữa đám người bon chen ấy. Dần đã thoát ra được, thoát ra từ tinh thần độc lập của mình và cái tinh thần ấy từng được âm thầm bén lên, cháy lên từ cái chai đèn những năm tháng chia ngọt xẻ bùi với Hữu! Họ cùng sinh ra trong nhọc nhằn, lớn lên từ nhọc nhằn gian khổ, hy sinh nên họ đã sống, sống đoàng hoàng cuộc sống của con người. Cái bệnh viện của Dần tự chứng minh điều đó. Cơ nghiệp của Dần hôm nay là hình thù từng nhen nhóm trong trái tim khát vọng của Hữu, từng luôn đối lập với Thăng từ ngay trong những ngày nóng bỏng của cuộc chiến. Ngồi đây, ngay dưới cái bệnh viện này nhìn ra cánh đồng kia Thăng càng thấy sự lấp lánh diệu kỳ trong những cái chai đèn đom đóm đã thắp sáng tuổi thơ và làm nên một tâm hồn nhân hậu, lì lợm như đá tảng của Hữu. Tại sao bây giờ Thăng mới nhận ra điều này? Thăng thút thít khóc một mình. Cái vết thương bọn lâm tặc phang vào chỗ gióng chân lại nhói lên. Thăng khẽ bo lấy và đôi bàn tay mềm mại như có phép thánh của bà má lúc xử lí vết thương cho Thăng lại hiện ra. Thăng càng hiểu nếu như không có má thì Thăng sẽ trở thành một thằng què, ngay trong thời bình!... Cám ơn sự lưu lạc của Hữu đã đưa má về đây cùng với Dần làm lớn to thêm cái uy tín của bệnh viện, là cái núi cho đám người nghèo tựa vào khi trời có phong ba bão táp, làm lành lại hình hài và mở ra trong tâm hồn Thăng những chân trời tươi đẹp. Thăng nghĩ đến cái Trầm, ngày mai nó cũng thành bác sĩ, nó sẽ là đồng nghiệp của má, của Dần và nếu trời cho nó với thằng Nghị thành đôi lứa, Thăng sẽ bán cả cánh rừng của mình để được đóng góp vào việc mở mang cái bệnh viện này. Ngày ấy sẽ thành hiện thực và Thăng hình dung ra con đường thằng Nghị đang về. Ngày mai nó sẽ có hai mảnh bằng đại học. Một bằng Nông nghiệp, một bằng của trường viết văn Nguyễn Du. Đương nhiên nó sẽ thạo nghề trồng lúa, những cánh đồng sẽ là người mẹ ôm ấp nuôi dưỡng, tạo thế để nó trồng cấy sinh sôi thêm những mùa màng và nuôi dưỡng tâm hồn nó viết lên những trang văn, những trang văn của làng quê có gió nắng đồng làng và mùi thơm rơm rạ... Những trang văn ấy sẽ xòe thành bóng mát che nắng, che mưa và luôn lấp lánh như ánh lân tinh kỳ diệu tỏa ra từ con đom đóm ngàn ngàn đêm sáng giữa đồng làng soi tỏ những mơ ước, khát vọng cho những dân thường trên con đường đến ban mai. Nó là mầm sống bất diệt của Hữu đã được Dần bảo vệ, giữ gìn qua mọi hoàn cảnh, nó sẽ làm được mọi việc. Bởi trong tâm thức nó luôn lấp lánh ánh lân tinh từ cái chai đèn của bố Hữu đã soi tỏa tâm lòng mẹ Dần để sinh nở và nuôi lớn nó đến giờ!... Nghĩ vậy Thăng cũng không còn băn khoăn việc nó đi tìm hài cốt những người thân của bà má đưa về khu mộ của gia đình nữa. Thăng nhận ra đó là việc phải làm. Bà má đã cứu sống và cưu mang Hữu, đưa Hữu về đây, bây giờ chính bàn tay má lại đang làm lành vết thương của Thăng do bọn lâm tặc gây ra. Là con người từng chịu áp lực của chiến tuyến chiến tranh nhưng má đã giữ được tấm lòng của người thầy thuốc, người mẹ Việt. Và bây giờ má ra đây với Dần vẫn bằng tấm lòng của một thầy thuốc chỉ có một điều giúp đỡ và cứu sống đồng loại. Là kẻ sống sót sau cuộc chiến tại sao bây giờ Thăng mới vỡ ra điều này! Thăng lặng nhìn ra cánh đồng, những con đom đóm vẫn nhập nhòe sáng khắp các bụi bờ, những con đom đóm ấy đã tỏa sáng tâm hồn và làm nên khát vọng của Hữu. Ấy thế mà một thời Thăng vẫn cho nó chỉ là ma quái tàn dư. Thăng từng vận động hết sức tỏa của cái bó đuốc lí tưởng Thăng ấp ủ để xua đuổi những tàn dư đó. Thế mà nó vẫn lấp lánh sáng!... Mà chính nhờ nó Thăng mới nhìn rõ được mình. Thăng ôm mặt khóc và nhận thấy những lời Hữu từng đanh thép với Thăng trong những ngày khói lửa trên chiến tuyến là có thật. " Tư duy như thế nếu là kẻ sống sót sau cuộc chiến không những anh cũng chỉ là giặc, mà anh còn kéo theo một thế hệ làm giặc nữa, đám giặc ấy còn tàn nhẫn hơn đám giặc đang lố nhố trước ta bây giờ!... " Đúng sau cuộc chiến Thăng đã từng góp phần làm giặc gây thêm nhiều tang tích cho những cánh đồng đã được những người ngã xuống trong cuộc chiến giành giật về cho mẹ! Thăng lại ôm mặt khóc. Ngoài cánh đồng những con đom đóm vẫn nhập nhòe bay lên. Trong phòng trực bà má và cô y tá vẫn thức, dường như má nghe được từng nhịp thở của mỗi con bệnh đang điều trị ở cái bệnh viện này và cả tiếng đập trong trái tim Thăng nữa! Đời làm thầy thuốc má đã chữa lành bao vết thương cho con người nhưng đã mấy ai biết được vết thương trong lòng má ngoài vợ chồng con cái Hữu! Thăng vò đầu đau đớn, cái cột sóng trên dòng sông Máu năm xưa lại duềnh lên cuốn Hữu trôi đi và câu chuyện má kể lúc vớt Hữu từ cái bè rác nơi bến sông đưa về xóm Núi Khuất! Hữu ở đấy và cái vuông đất chỗ Hữu yên nằm lại chính là bàn tay má nâng niu đặt Hữu xuống rồi lại đưa Hữu về đây. Đời Hữu mãi mãi gắn bó với cánh đồng. Cánh đồng! Dù ở trong kia, ngoài này, đêm đêm vẫn lấp lánh sáng lên ánh sáng kì diệu của những con đom đóm!... Chính ánh sáng nhỏ nhoi này đã thắp sáng lại đời Thăng và nó mãi mãi là đốm sáng lấp lánh của cánh đồng để con cái nhìn vào đó mà đi về với ban mai. Nghĩ vậy, Thăng không còn bị cái bó đuốc rực sáng ám ảnh trong đầu mình nữa. Thăng vịn tay vào song cửa và nghĩ phải làm một bản kiểm điểm thật nghiêm túc trước cánh đồng Mẹ và linh hồn Hữu! ... Mời các bạn đón đọc Đồng Làng Đom Đóm của tác giả Trịnh Thanh Phong.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nửa Đêm Trảng Sụp
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi  1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất. Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn. *** Làm xong bài toán hình học không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem lại đồng hồ tay thì thấy đã mười giờ bốn mươi rồi. Cô nữ sinh đệ tứ ấy xếp giấy má sách vở lại, đứng lên toan tắt ngọn đèn tọa đăng rồi đi ngủ, nhưng còn chần chờ đứng lại trước bàn để lắng nghe tiếng mưa đêm xào xạc ngoài vườn, và tiếng gió hú đằng xa, nơi cánh đồng vắng sau nhà. Sanh hứng, cô ngâm lên bài ca dao hay bài thơ của ai, cô không còn nhớ nữa:  Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu  Con trời lấy chú chăn trâu cũng kỳ  Một là duyên,  Hai là nợ …  Bỗng tiếng mở cửa buồng bên trái làm Nhan giựt mình. Nàng day lại thì thấy ông Tám Huỳnh, cha của nàng, hiện ra nơi khung cửa buồng ấy, trong ánh mờ của cây đèn dầu bàn học của nàng.  Tám Huỳnh mặc áo mưa, đi giày ống bằng cao su và tay cầm một chiếc nón lá cũ.  Hai cha con lặng lẽ nhìn nhau rồi Tám Huỳnh như sợ con, trốn mắt nó và ngó xuống gạch.  - Ba ! Trời mưa mà ba đi đâu vậy ba ?  Tám Huỳnh ú ớ không nói được, lâu lắm ông mới thốt ra vài tiếng, nhẹ như hơi gió thoảng, Nhan cố lắng tai mới nghe:  - Ba đi, con ở nhà vài bữa với bà Tư.  Nhan châu mày rồi hỏi:  - Có phải ba đi việc đó không ba ?  Tám Huỳnh đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra hiệu bảo con chớ có to tiếng rồi đáp:  - Ừ …  - Con sợ quá ba à ! Nhan nói mà giọng nàng run run.  - Không sao, con cứ an lòng.  - Con không muốn ba đi nữa …  - Ba đã hứa nghe lời khuyên can của con, nhưng còn phải chờ dịp như ba đã cắt nghĩa, mà dịp ấy chưa đến.  Nhan nghẹn ngào, cố nuốt nước mắt, nàng cắn môi dưới lại để khỏi khóc ra tiếng. Ông Tám Huỳnh bước tới và đứng gần con. Ông xẳng giọng, nghiêm mặt lại mà rằng:  - Con biết tánh ba hay tin dị đoan. Người trong nghề, ai cũng thế. Con đừng làm cho ba sợ, con nghe chưa ?  Nhan sợ hãi, lấm lét, liếc lên nhìn trộm cha. Ông Tám Huỳnh ngày thường trông cũng hiền từ, nhưng hễ ông nổi giận thì gương mặt ông hung tợn lạ kỳ, khiến cho người con gái độc nhứt và được thương mến hết sức của ông cũng phải kinh hoảng, không dám hó hé.  Thương con quá, ông Tám dịu mặt và dịu gọng lại rồi nhỏ nhẹ nói:  - Con ở nhà đừng thức khuya, hôm nào mưa thì đừng đi học, kẻo mắc mưa sanh bịnh. Đây, ba cho con tiền chợ và tiền bánh hàng.  Ông Tám vừa nói vừa móc trong túi ra một ghim giấy bạc một trăm, đặt lên bàn học của con và dặn thêm:  - Ai có hỏi, nói ba đi Sài Gòn uống thuốc.  Nhan nhìn xấp giấy bạc rồi nức nở thêm:  - Nín, kẻo bà Tư hay ! Ông Tám lại xẳng giọng.  Nhưng Nhan không còn sợ nữa, nàng nói:  - Con... thương …ba !  - Cố nhiên, ba lại không biết hay sao. Nhưng chính vì ba cũng thương con nên...  - Con đi buôn gánh bán bưng nuôi ba được.  - Đã lỡ rồi con à, đặt lại vấn đề làm gì. Ba có muốn theo nghề nầy đâu, nhưng hoàn cảnh đã đưa đẩy ba tới đó, rồi ba không thoát được nữa. Nhưng ba sẽ cố gắng làm vừa lòng con. Con nên nén lòng đợi một thời gian. Thôi, ba đi con nhé ! Nhớ đóng cửa cẩn thận.  Tám Huỳnh lặng lẽ bước tới mở hé cửa rồi lách mình ra ngoài. Nhan cũng vội bước theo cha, rồi nhìn vào bóng tối. Chớp nhoáng lên và nàng trông thấy bóng dáng dình dàng của cha nàng dưới chiếc nón lá và chiếc áo tơi, bước mau trong mưa gió: ông Tám quẹo ra sau nhà để tiến vào rừng sâu.  Bóng đêm lại tràn ngập không gian, khiến Nhan kinh sợ, vội đóng cửa lại và cài then cẩn thận. Đoạn nàng tắt đèn và đánh diêm lên soi đường để đi vào buồng nàng ở phía hữu.  Ông Tám Huỳnh góa vợ từ lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi con. Nhà chỉ có ba người: ông Nhan và bà Tư, một người dì họ của ông. Bà nầy ngủ ớ nhà sau, vì thế mà ông ra đi bằng cửa trước cho khỏi bị một người như bà bắt chợt bí mật của ông.  Bí mật ấy, cách đây một tháng, do một sự tình cờ; Nhan đã khám phá được, sau nhiều năm nghi hoặc. Nàng đã khóc thầm nhiều ngày, rồi rốt cuộc quyết định cật vấn cha.  Thấy không thể chối cãi được, ông Tám đành thú nhận với con rằng ông buôn lậu, hơn thế ông chỉ huy một toán tải hàng lậu từ biên giới Việt-Miên đến một khu rừng gần chợ Trà Võ để giao lại cho đoàn khác đưa về Sài Gòn bằng xe hơi.  Nhan đã khuyên dứt cha, nhưng ông Tám bảo không khá lắm, phải đợi tìm dịp để xoay nghề mới, mới buông nghề cũ được, và nhứt là phải tìm chỗ ở mới cho thật xa, vì hễ cải tà qui chánh thì phải trốn bọn đồng đảng cũ, chúng sợ bị tố cáo, dám thủ tiêu ông lắm.  Chỉ có một đứa con, mà là con mất mẹ, ông Tám cưng Nhan vô cùng, vì thế nên nàng tríu mến cha y như là tríu mến mẹ. Nên chi nàng đã âm thầm đau khổ nhiều sau cuộc khám phá đó, phần lo sợ cho an ninh của cha, phần ngại cho danh dự của gia đình vì ông Tám Huỳnh đă được thiên hạ kính nể bởi nếp sống ra mặt của ông, không có vết nhơ và không ai biết đời sống thứ nhì bí ẩn của ông hết.  Nhan đi nằm nhưng trằn trọc mãi không sao nhắm mắt được. Nàng lắng tai nghe mưa gió và hình dung ra người cha già đang lướt đi dưới phong vũ, trong bóng đêm, có thể lâm nguy bất cứ vào lúc nào.  Nàng xấu hổ mà nghĩ rằng tiền nàng ăn xài từ thuở giờ do một nguồn lợi bất chính mà ra, và thầm trách cha đã làm xằng. Tuy nhiên đêm nay, như bao đêm rồi, rốt cuộc Nhan vẫn tha thứ cho cha vì có bằng cớ hiển nhiên là ông Tám đã không muốn thế và chỉ bị hoàn cảnh đẩy đưa vào đó thôi. Mời các bạn đón đọc Nửa Đêm Trảng Sụp của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Lữ Đoàn Mông Đen
Mông là bộ phận cao quý trên con người ta. Vội quá không gọi điện được cho bác Nguyễn Việt Hà xin cái định nghĩa về mông trong từ điển tiếng Việt và 103 câu trích dẫn có liên quan đến mông, phí quá :d Đây rồi, cũng tìm được hầu các bác một bộ mông tuyệt vời, không những thế lại là mông đen nữa, quá oách, mà lại được viết ra từ ngòi bút một trong hai nhà văn được coi là miền Nam nhất của miền Nam từ sau 1945: Bình Nguyên Lộc (người kia là Sơn Nam, dĩ nhiên), tức tác giả cuốn truyện lừng danh Đò dọc tới gần đây vẫn tái bản nhiều lần, Lột trần Việt ngữ và vô số tác phẩm văn xuôi. Lữ đoàn mông đen Bình Nguyên Lộc viết đăng phơi-ơ-tông từ 1966 trên Tin Sớm, bản sách này là bản 1972 của Mây hồng, đề rõ "tiểu thuyết tình cảm xã hội". Chị So trí nhớ tốt nhắc hộ em các vụ việc liên quan đến mông từng bùng nổ trên blog của em cái, giờ em chỉ nhớ được mỗi vụ cái gì mà "Ngoài phố mùa đông đôi m. em là đốm lửa hồng" :d Khinh rẻ các bộ phận trên cơ thể là một trọng tội về luân lý hahaha. "Lữ đoàn mông đen" là phiên từ "Brigade mondaine", các bác tự tìm hiểu nhé, trong truyện có pha tán tỉnh hơi bị mỹ mãn, hay hơn phim Hollywood nhiều. Còn quyền Ý thức bùng vỡ là quà chờ sẵn dành để tặng em Z. Em có thích hông? Lười chụp ảnh nên cóp tạm trên Internet, nhưng em yên tâm là quyển em sẽ có còn đẹp hơn quyển này :) Trong thế giới sách cũ Việt Nam Ý thức bùng vỡ được xếp vào loại kịch độc, như người ta nói là dùng để giết chuột được khỏi phải đi thăm anh Hoàng Tiến. *** Bình Nguyên Lộc sinh tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên.[2] Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (hay Mẹo) (1876-1972). Theo giấy khai sinh, Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915. Tuy nhiên, trên thực tế có thể ông sinh ít nhất một năm trước ngày ghi trong giấy khai sinh, nghĩa là năm 1914, nhưng không rõ có đúng là ngày 7 tháng 3 hay không. Nhà ông chỉ cách bờ sông Đồng Nai hơn một trăm mét và con sông in đậm dấu ấn trong một số tác phẩm của ông sau này như truyện ngắn Đồng đội (trong Ký thác), hồi ký Sông vẫn đợi chờ (viết và đăng báo ở California, Mỹ)...[3] Từ năm 1919 đến 1920, ông theo học chữ nho với một ông đồ trong làng. Sau đó Bình Nguyên Lộc học trường tiểu học ở Tân Uyên vào những năm 1921-1927. Năm 1928 ông ở nhà luyện tiếng Pháp để thi vào trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn. Từ 1929 đến 1933, ông học trung học ở trường Pétrus Ký và lấy bằng Thành chung (Diplôme d´Études Primaires Supérieures, tú tài phần thứ nhất) năm 1933[3]. Tuy nhiên, có tài liệu nói ông đậu bằng Thành chung trong niên khóa 1933-1934 và thôi học do kinh tế khủng hoảng. Cũng có tài liệu nói ông không học xong trung học và nghỉ học năm 1935.[2] Năm 1934, Bình Nguyên Lộc về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt. Sau đó ông thi vào ngạch thư ký hành chính nhưng vì kinh tế khủng hoảng, hơn một năm sau ông mới được tuyển dụng. Ban đầu, ông làm công chức tại kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936, ông đổi về làm nhân viên kế toán ở kho bạc Sài Gòn (sau đổi tên thành Tổng nha ngân khố Sài Gòn). Ông bắt đầu viết văn trong thời gian này. Truyện ngắn đầu tay của ông có tên Phù sa, viết về công cuộc Nam tiến của người Việt vào miền đất mới Nam Kì, đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ông kết bạn với những tác giả khác viết cho báo Thanh niên như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Hoàng Tư, Lâm Thao Huỳnh Văn Phương, Dương Tử Giang,.. Vào khoảng năm 1943, ông hoàn tất tác phẩm Hương gió Đồng Nai (khởi thảo từ năm 1935), tập truyện ngắn và tùy bút về hương đồng cỏ nội đất Đồng Nai. Tác phẩm được Xuân Diệu, Huy Cận và vài nhà văn khác tán thưởng, nhưng sau đó bị thất lạc trong chiến tranh. Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không lương, và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một. Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền Đông Nam Bộ và là thành viên của Hội Văn hoá cứu quốc tỉnh Biên Hòa. Vào những năm 1944-1947, do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. *** Định không biết nhảy, nhưng cứ vào những nơi nầy mỗi đêm, sợ người ta sinh nghi, nên chàng cố bươi trí để làm cho sự có mặt của chàng được ổn. 1  Dân chơi thì họ bất kể chàng, chàng chỉ lo bị nhơn viên của các hộp đêm nầy ngạc nhiên, tìm biết rồi có thể sẽ biết. Các em ca-ve, người tài-pán, các bồi bàn, toàn là những kẻ điểm mặt từng khách một để ghi họ vào sổ hồng, nếu họ sộp, vào sổ đen, nếu họ keo kiệt.  Mà không phải chỉ điểm mặt mà thôi đấy nhé. Họ sẽ truy tầm căn cước, nghề nghiệp chàng, thì nguy to.  Nguy to là vì cái nghề tạm bợ mà chàng quơ đại để ăn cơm, cái nghề ấy, họ mà biết thì chàng không còn làm được nữa, tức là bể chén cơm, chớ không phải sợ ai ám sát đâu.  Chẳng là chàng đang thất nghiệp, tới xin tiền một thằng bạn, ngỡ sẽ bị nó hất hủi chàng, không dè nó lại mừng rỡ reo to lên:  - Cứu tinh đã đến !  Rồi nó lại hỏi thêm:  - Mầy có cần tiền không ?  Có mỉa mai chưa ? Chàng tưởng nó giễu chàng, nên chàng nín lặng hồi lâu vì căm tức rồi mới nhẫn nại đáp:  - Ơ... hơ... cũng hơi cần.  - Mầy có thích chỗ làm lương cao chăng ?  - Tao chỉ mong có bấy nhiêu đó thôi.  - Vậy mai đi làm, nói đúng ra là tối mai. Tối nay, tao sẽ tiến dẫn mầy với "ổng" là xong.  - Nhưng làm cái quái gì mới được chớ ?  Câu chuyện nầy xảy ra lúc ông Diệm đang cầm quyền.  - Nè, thằng ấy nói, phải giữ mồm giữ miệng đa nhé. Hiện ông Mật vụ trưởng vừa lập một cơ sở lấy tên là "Lữ đoàn mông đen" và cần vài nhơn viên lỗi lạc cho Lữ đoàn, mỗi nhơn viên được xem như là ông xếp của một khu riêng biệt.  Mầy có vó sang trọng, tức là mầy khá mông đen, thì mầy được lắm. Ổng nhờ tao tìm người đáng tin cậy, có khả năng, tao cũng chẳng biết ai, nên đang bể óc đây thì mầy tới, may quá !  - Nhưng Lữ đoàn ấy sẽ đánh giặc với ai ? - Định hỏi.  - Không có đánh giặc, đánh giả gì hết ráo. Đó là dịch ở danh từ "Brigade mondaine" ra. Lữ đoàn mông đen chỉ cần len lỏi vào các giới ăn chơi để theo dõi những công chức, những nhơn vật tăm tiếng mà ăn chơi quá khả năng tài chánh của họ để mà báo cáo lên thượng cấp, rồi thượng cấp làm gì họ, mình cũng chẳng cần biết. Dễ ăn lắm mà.  Mới nghe qua thì quá dễ ăn thật đó, nên chi Định nhận lời lập tức, lòng phấn khởi vô cùng.  Nhưng đêm nay, đêm đầu làm việc, vào vũ trường Eldorado, chàng mới thấy là khó ăn.  Chàng có vó sang trọng thật đó, nhưng lại không sang trọng tí nào, vì chàng là học trò mới ra trường vừa tìm được một chỗ làm thì vài tháng sau đã bị đuổi, vì cự với ông chủ hãng, thế thì lấy tiền đâu mà chàng ăn chơi để sang trọng ? Như vậy, mặt mũi của những ông bự mà chàng có phận sự theo dõi, chàng không biết ra sao cả, chàng như thằng mù thì còn làm ăn gì được.    Mời các bạn đón đọc Lữ Đoàn Mông Đen của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Đò Dọc
Chuyện kể, sau chiến tranh với người Pháp, một gia đình có bốn cô con gái chưa chồng lại dắt dìu nhau từ Sài Gòn về Thủ Đức dựng nhà. Khi ấy, nơi này chưa hề có phố xá. Hương vị thành phố thoang thoảng trong thí nhớ các cô gái và ánh đèn từ thị xã Biên Hoà hắt lên. Làm sao “hội nhập” với người dân quê? Có lẽ, Bình Nguyên Lộc tìm cách cắt nghĩa điều đó với bao người. Tuy nhiên, một vấn đề mới lại nảy sinh, thật nan giải: các cô gái xinh đẹp kia đang ở độ tuổi lấy chồng, đợi vài năm nữa sẽ quá thì, còn hiện tại…. thật là phiền toái! Cuối cùng, các cô cũng đã có được tấm chồng xứng đôi vừa lứa, là người thành phố. Nhưng làng quê, với họ, lúc ấy không phải là nơi ao tù nước đọng, quá đỗi xa lạ. Người nhà quê vào thành phố, nhiều người đã viết, ngơ ngác và tội nghiệp lắm! *** Câu chuyện Ðò dọc xoay quanh một gia đình có bốn cô con gái, sống trong buổi giao thời của những năm 1950. Cuộc chiến đang diễn ra ác liệt, gia đình ông giáo Hải với các con gái là Hương, Hồng, Hoa, Quá phải rời khu về sống ở xóm me Tây gần thành Ô Ma - Sài Gòn. Ðến ngày Pháp chính thức rút khỏi Việt Nam, bốn cô con gái đã học được một ít chữ nghĩa thì cả nhà lại chuyển về một xóm quê khô cằn ở miền Ðông Nam bộ. Cuộc sống đơn điệu với "từng ấy gương mặt" có nguy cơ biến các cô tiểu thư xinh đẹp thành các cô gái già héo úa. Mỗi cô có một tâm tình riêng, người cha và người mẹ không dễ thấu hiểu và chia sẻ với họ. Ðò dọc tôn vinh giá trị gia đình như một nền tảng để con người có thể tựa vào trước bao biến thiên của xã hội hậu chiến *** Long về Sài Gòn chỉ ngắm đàn bà là đàn bà. Khi trước chàng ngắm họ để nghiên cứu cho khoa hội họa, ngắm để thỏa mãn sở thích ngắm vẽ đẹp bên nữ giới của một người con trai. Nhưng bây giờ chàng ngắm để so sánh. Có ai biết rằng Long khổ hay không? Chàng vẫn yêu Hồng như trước. Ý nghĩ không cưới Hồng sẽ làm cho chàng đau đớn mênh mông, ý nghĩ ấy vày vò Long mãi không thôi. Cưới Hồng là khỏi ân hận gì cả về vụ đó. Nhưng lại sẽ phải ân hận về vụ khác. Ân hận? Ừ, Long định viết bức thơ nữa, càng ngày càng lạt, càng thưa, rồi trốn luôn. Nhưng trốn người chớ nào có trốn được cái đau của người, nó sẽ đeo đuổi theo chàng, vày vò lương tâm chàng đến bạc đầu. Còn anh chàng Bằng nữa? Ăn làm sao nói làm sao với anh ta đây? Lụi đụi đã đến ngày cưới của Hoa và Quá. Ông bà Nam Thành thương lượng cho hai ngày cưới ấy cách xa nhau có năm hôm thôi. Mọi sắp đặt cho đám cưới trước sẽ dùng được cho đám cưới sau, đỡ tốn kém lại đỡ thì giờ. Long và mẹ đều có tiếp được hồng thiệp. Bức thơ riêng kèm theo đó nói rõ là chàng sẽ ngồi họ ở bàn đờn ông, còn bà Phủ thì được yêu cầu tăng danh dự cho lễ cưới bằng cách ngồi họ bên đàn bà. Hôm về Sài Gòn, họa sĩ cằn nhằn mẹ: - Sao má lên trên ấy mấy lần mà không cho con hay? - Mày hỏi lạ, tao là mẹ của mày mà đi phải xin phép mày nữa sao? - Không phải xin phép. Nhưng việc má đi có dính líu đến việc của con, con cần thảo luận trước với má. - Còn thảo luận, thảo liếc gì nữa, chừng nào con quyết định thì má cậy mai. Nhưng phải giữ liên lạc thân mật luôn từ giờ đến đó. - Rủi con không bao giờ nhất định cả thì có phải là hại hay không? - Hại chỗ nào? - Má lên làm thân, báo người ta hy vọng. Nếu về sau, việc không thành, họ sẽ thất vọng biết bao nhiêu. - Sao lại không thành được? - Được lắm, vì con chưa thích cưới vợ. - Mày nói giỡn sao chớ. Họ hy vọng không phải vì tao làm thân đâu, mà vì mày đã có tơ tình với con của người ta, như mày đã thú nhận. Bây giờ mày lại muốn thối thác thì người ta còn coi mình ra gì nữa. Long đuối lý, nín luôn mãi đến hôm nhận được thiệp mời mới nói với bà phủ: - Má đi, còn con xin kiếu. Con gởi quà cho má trao lại giùm hai cô ấy. Bà Phủ điếng người đi. Thì ra Long nó nói thật. Ngày vui của gia đình người ta, mà nó không buồn dự vào là nó đã quyết tâm không nghĩ đến hôn nhân rồi. Giây lâu bà hỏi con: - Nó có lỗi gì không? - Thưa không? - Nó không vừa mắt con à? Long làm thinh, bà phủ đoán hiểu phần nào, nên nổi tam bành lên: - Mày có phải là con trai mười chín đâu mà đi coi mắt vợ sơ hở được. Mày đã hối thúc tao lên để xem có đồng ý với mày hay không, thế nghĩa là mày đã thích nó rồi, sao lại còn tráo trở gì nữa? Lần thứ nhì Long lại đuối lý. Chàng rầu chín cả ruột gan vì nỗi lòng của chàng, càng bàn cãi, càng xét kỹ, càng rõ rệt ra. Nhưng ích kỷ ngăn cấm chàng chuộc lỗi bằng cách cưới Hồng. Cưới Hồng, chàng sẽ ân hận suốt đời. Vì vậy chàng cố lì làm thinh luôn. Bà phủ thở dài lo mua sắm tặng phẩm lễ vật để đi một mình. Mời các bạn đón đọc Đò Dọc của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Cơn Mưa Định Mệnh
Khi con người để cái phần "con" lấn át, không còn màng đến suy nghĩ, đạo đức, thì lúc đó cũng chẳng khác nào "thú vật". Cái kẻ mà có ý nghĩ ngủ với con gái ruột của mình, không phải thú vật thì là gì??? Không, kẻ đó thậm chí còn thua cả thú vật!!! Bà Ưng đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần khi mà ông Ưng lại nổi "thú tính"lên... Bà đứng không nổi quỳ không xong bởi da bị bỏng, căng rát, chỉ cần cử động là toàn thân bà cảm giác như có ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng. *** Bà tránh ra! Tránh ra... Nhanh lên.... Tiếng ông Ưng hét lên trong đêm tối. Tôi xin ông đấy, ông có còn tính người nữa không ông Ưng ơi? Bà Ưng đau đớn thể xác, bây giờ lại đau đớn cả tinh thần khi mà ông Ưng bỗng nhiên nổi lên cái tính "thú vật". Gọi là thú vật quả không sai, đời thủa nào bố đẻ đòi ngủ với con gái bao giờ??? Bà đứng không nổi quỳ không xong bởi da bị bỏng, căng rát, chỉ cần cử động là toàn thân bà cảm giác như có ngàn mũi kim đâm vào da thịt, đau đớn vô cùng. Ông Ưng không quan tâm đến sự đau đớn của vợ mình mà hung hăng gạt tay bà ra, trợn mắt giận dữ: Mày có tránh ra không con kia? Tao đang khó chịu đấy nhé, không cút ra tao đạp cho một đạp bây giờ? Từ bao giờ cái loại mày đòi lên tiếng cãi lại lời tao vậy hả?? Bà Ưng nước mắt lưng tròng, mấy ngày nay rồi bà chưa chợp mắt được tí nào cũng là bởi buổi sáng hôm trước bà đi tôi vôi thuê cho người ta. Nhà nghèo, bữa sáng ông Ưng không cho nấu cơm, bà nhịn ăn sáng rồi đi làm, đến nửa buổi, đói quá hoa mắt nên trượt chân ngã xuống hố vôi đang tôi. Phúc lớn mạng lớn là hố vôi đó còn chưa nóng đỉnh điểm, xung quanh có người cùng làm nên kịp thời cứu được bà lên ngay. Nhưng từ gối chân trở xuống bỏng nặng, theo lý thì phải nằm viện để điều trị nhưng ông Ưng không đồng ý. Nói là tốn kém viện phí, mấy đồng lương hưu của ông không đủ để trang trải... Sơ cứu qua loa bà Ưng đòi con gái đưa về nhà... Sống chung với người chồng vũ phu này mấy chục năm trời nên bà hiểu rõ, từ ngày bà bị bỏng, không giúp ông Ưng giải tỏa được cái máu "dê" trong người nên ông ấy mới hằm hè như vậy. Nhưng hỡi ôi, bà tưởng ông chỉ gia trưởng, vũ phu, keo kiệt thôi, nào ngờ ông ấy còn không bằng cả loài cầm thú nữa. Ông Ưng không làm gì được bà Ưng nên lăm le đòi ngủ với cô con gái út mới 15 tuổi là Thúy Hạnh. Bà nói nhẹ không được, nặng không xong, ông ấy nổi cơn thú tính lên lao vào căn buồng rách nát và đòi ngủ với cô con gái. Trong căn buồng tối, Thúy Hạnh nghe thấy tiếng cãi nhau, tiếng đồ đạc đập loảng xoảng nên sợ hãi, cô bé định chạy ra ngoài bênh vực cho mẹ vì mẹ đang bỏng nặng. Nhưng... khi nghe được ông Ưng muốn làm trò đồi bại với mình, Hạnh sợ hãi chốn vào trong góc tường, ngồi thu lu một chỗ, tay cầm cái chổi để phòng thân... Con Hạnh đâu rồi? Con Hạnh đâu? Ông Ưng đi vào trong buồng, tối quá nên ông không nhìn thấy gì, khi nãy còn đang hăng "máu", chưa được giải tỏa nên căng thẳng quá, cãi nhau với bà vợ một trận ông còn thấy khó chịu hơn. Quờ quạng tay trên giường không thấy con gái đâu, ông Ưng điên đú: Cái con đĩ con này nó đi đâu mất rồi? Con cái mất dạy, ba tuổi đầu đã xí xớn đi đêm không về? Cái thứ này không để cho bố mày đ!t thì để làm gì... Cái con mẹ nó chứ? Con mẹ nó đã đeo"" phục vụ được tao thì con đĩ con phải phục vụ bố mày... Mẹ con chúng mày biết chưa... Mẹ cha nhà chúng mày chứ... Ông mày đang nưng"""" kak quá... hừ hừ... Ông Ưng gầm gừ tìm kiếm trong chiếc chăn bông cũ rích, trời rét, chăn gối vứt ngổn ngang trên giường, tìm mãi không thấy con gái đâu ông ta phát điên lên rồi chợt nhớ ra: mình chưa bật đèn sáng lên! Ông Ưng hung hăng bật công tắc đèn lên và rồi ông ấy cười rú lên như một con sói: Hahahaha... Con Hạnh, mày đây rồi! Mày trốn ở đấy làm gì? Đến đây bố bảo. Ông Ưng chìa tay ra phía trước, ở dưới đũng quần, của nợ khốn nạn của ông đang chĩa ra phía trước, hai con mắt ông nhìn rất đáng sợ. Hạnh sợ hãi tới mức tim đập thật nhanh, cả người run rẩy co rúm lại, cô bé hoang mang không biết nên làm gì khi bố đang tiến lại gần. Bờ môi mấp máy không nói thành câu.. Bà Ưng ở ngoài nhà đau khổ gào khóc: Thằng khốn nạn... mày là chó chứ không phải người nữa... Ưng ơi, mày giết tao đi, mày giết tao đi còn hơn chứ mày làm thế này thì trời đất nào tha thứ cho mày được? Nó là con gái mày đấy... thằng khốn nạn kia... Mày thèm thì mày mang tiền đi mà kiếm gái, tại sao mày lại đối xử với con gái tao như vậy... Ưng ơi... Ông Ưng nghe thế thì điên lên, ông giậm chân xuống nền nhà thật mạnh, chỉ tay ra ngoài nhà rồi nói: Con đĩ kia mày im mồm. Con gái mày đã chết đâu mà mày phải khóc? Không im tao ra tao vả cho giờ? Thúy Hạnh mở to mắt, trời mùa đông mà mồ hôi trán vẫn ướt đầm đìa, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những việc sắp tới sẽ kinh khủng như thế nào nếu như người bố- người đàn ông khốn nạn kia tiến đến. Hạnh vẫn cầm cái chổi, hai cánh tay run run... Đến đây bố bảo... đừng sợ, có cái đéo gì mà phải sợ? Rồi thể nào chả phải làm người lớn?? Đến đây... Nhanh lên... Khi ông Ưng đi đến gần Hạnh, ông ta đưa cánh tay lên phía trước định giật cái chổi từ tay HẠNH thì bất ngờ con bé phản đòn. Hạnh vung chổi lên vụt vào tay ông Ưng một cái, bị đánh bất ngờ ông ta rụt tay lại mồm tru tréo lên: Á.... con đĩ con này mày dám đánh bố mày à?? Hả! Hạnh ghê tởm ông ấy đến mức buồn nôn, cô bé chứng kiến hết những nỗi đau mà mẹ phải chịu đựng suốt thời gian qua. Cộng thêm hành động vô liêm sỉ ông ta đang định làm với mình càng làm cho Hạnh thấy hận bố, ghét bố, ghét đến mức muốn ông ấy chết ngay tức khắc. Ông Ưng vung tay tát đốp vào mặt Hạnh, cô bé thấy tai mình ù đi, má đỏ ửng lên, Hạnh nhìn bố bằng ánh mắt căm thù: Ông cút đi... huhu... Nói rồi Hạnh đứng vùng dậy, cô vung chổi liên tiếp đánh trả vào người bố, vừa đánh con bé vừa gào lên: Chết đi! Chết đi! Chết mẹ ông đi.... Ông Ưng không ngờ con gái lại phản ứng như vậy vì ngày thường Hạnh khá hiền và ít nói, nhất thời ngây ra vì hành động của con gái, ông ta không đánh nữa mà lặng thinh suy nghĩ. Phải chi ông đã thức tỉnh rồi? Ông đã biết việc mình làm là trái luân thường đạo lý nên vậy? Nhưng không, không hề có chuyện đó, chỉ là ông ngạc nhiên trước thái độ của Hạnh mà thôi, ông ta định đánh tiếp thì Hạnh nhanh như con sóc vụt cái chổi vào mặt ông ấy thật mạnh rồi chạy ù ra khỏi gian buồng. Hạnh sợ hãi, sợ bố đuổi theo nên cô bé không quay lại nhìn mẹ lấy một cái, cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối. Bị vụt vào mặt một cái đau điếng người, ông Ưng sa xẩm mặt mày choáng váng ngã phịch xuống đất, hai tay ôm lấy mặt rên rỉ: Cha tiên nhân con đĩ này nó dám đánh ông! Tiên sư chúng mày... con đĩ mẹ lại đẻ ra con đĩ con, ông nuôi chúng mày để chúng mày đối xử với ông thế này đây! Để ông tóm được mày ông giết, con ranh con ạ... á á... đau quá... Ông Ưng ngồi ở dưới nền nhà kêu than, bà Ưng ở bên ngoài thấy mừng thay cho con gái, không biết con bé bỏ chạy đi đâu ngoài trời đêm kia... nhưng thà vậy còn hơn ở nhà để thằng già kia nó giở trò đồi bại. Bà Ưng chắp tay lại khẽ khấn vái mong trời phù hộ cho con gái bà không nghĩ quẩn. Chỉ sợ tâm hồn ngây thơ của nó nghĩ không thông mà làn điều dại dột thì bà không sống nổi nữa. Hạnh ơi, con đừng bỏ mẹ mà đi nhé! Gió bên ngoài trời thổi rất mạnh, lúc đi khỏi nhà Hạnh chạy như bay nên không hề thấy lạnh, thậm chí trong người vừa sợ vừa hận thù nên cô bé quên đi cả cái giá lạnh. Hạnh không biết bản thân mình nên đi đâu, chỉ sợ bố đuổi theo nên cứ cắm đầu chạy. Nếu là bình thường, có lẽ Hạnh không bao giờ có gan đi một mình giữa đêm khuya thế này. Vì cô bé sợ ma, sợ bóng đêm. Nhưng hôm nay, trong lúc chạy được một quãng dài rồi Hạnh mới nhận ra, thì ra bóng tối chẳng có gì đáng sợ cả... Chỉ có lòng dạ con người mới thực sự ghê tởm, Hạnh không ngờ bố mình lại trở nên đê tiện đến như vậy. Ngay từ phút giây nghe thấy bố mình - ông Ưng nói rằng "Mẹ cô không phục vụ được ông ấy chuyện giường chiếu thì Hạnh sẽ phải là người thay thế..." Hạnh đã rất ghét bố, ghê tởm bố và sợ hãi đến mức không muốn nhìn thấy mặt ông ta nữa. Tiếng gió vẫn rít từng cơn, hai má Hạnh lạnh cóng, hai bàn tay nắm tròn thành nắm đấm, Hạnh vẫn cắm đầu cắm cổ chạy. Đến khi mệt quá dừng lại nghỉ chân cô bé mới phát hiện không có ai đuổi theo mình cả, nhìn lên phía trước là một ngôi chùa, nơi đây Hạnh có biết vì thỉnh thoảng dịp lễ đầu năm hoặc có việc gì đó cô bé vẫn theo mẹ lên chùa cầu may. Cây đa trước cổng chùa hứng trận gió đông mạnh nên lá rơi lả tả, cánh cổng chùa đóng im lìm, nhìn qua khe cửa, Hạnh thấy có bóng đèn thắp ở giữa đình để canh kẻ trộm, ngoài ra không thấy bóng dáng một ai. Hạnh không sợ đêm tối nữa, cô bé cũng chẳng sợ ma, chỉ cần nghĩ đến câu chuyện vừa diễn ra khi nãy cũng đủ khiến cô bé rùng mình rồi. Nghỉ ngơi một lát thần trí ổn định Hạnh bắt đầu thấy lạnh, nhiệt độ ban đêm quả nhiên xuống thấp. Hạnh đưa hai bàn tay lên trước mặt, hà hơi mấy cái để kiếm tìm hơi ấm nhưng không ăn thua. Trên người mặc có chiếc áo thu đông bên trong và chiếc áo len bên ngoài, hai manh áo mỏng không đủ để chống chọi với cái khí hậu khắc nghiệt thế này. Cô bé co ro ngồi xuống cạnh cổng chùa, thân hình bé nhỏ lạc lõng giữa đêm tối, thật đáng thương khi có nhà mà lại không dám trở về.... Sáu giờ sáng. Trời mùa đông nên vẫn còn tối, chú tiểu dậy tụng kinh và quét sân chùa, khi mở cánh cổng ra thì chú giật mình chạy biến vào trong nói với sư thầy: Thầy ơi! Thầy ơi! Giọng chú tiểu gấp gáp. Gì mà nghiêm trọng thế? Sư thầy vừa tụng kinh xong đang từ trong đình bước ra, trời rét, thầy mặc chiếc áo khoác rất dài và to, nhìn dáng đi chậm chạp đến sốt ruột. Có người chết ở ngoài cổng thầy ạ! Sao cơ? Sư thầy ngạc nhiên. Con vừa ra mở cổng thấy có một người chết cứng vừa ngã vật xuống đất xong... Mặt chú tiểu cắt không còn giọt máu, sự tình thế nào không ai biết nhưng trời còn tối, hơn nữa rét buốt thế này tự nhiên có người ngã vật xuống đất bất động thì chắc hẳn ai chứng kiến cũng đều sợ hãi như vậy. Đi theo ta! Sư thầy nói xong liền cầm tràng hạt lên trước ngực, vừa đi vừa niệm chú a di đà phật.. Điện sáng được bật lên, đúng là ở giữa cổng có người. Là một cô gái còn rất trẻ. Khoảng lứa tuổi học sinh, thân hình co rúm vì lạnh, môi và mặt tái nhợt, mắt nhắm nghiền nằm co quắp trên nền đất. Sư thầy ngồi xuống đưa tay lên mũi cô bé xem còn thở không, kiểm tra xong thầy nói: Vẫn còn sống! Mau bế con bé vào trong, đốt một chậu than hồng để ở phòng bên trái... khả năng là bị nhiễm lạnh rồi, mặt nóng ran... Chú tiểu hấp tấp đỡ cô bé dậy và bế vào trong nhà, sư thầy chuẩn bị một chậu nước ấm và khăn sạch để lau mặt cho cô. Vào phòng kín có than hồng sưởi ấm, cộng thêm sư thầy lau mặt và chườm khăn ấm nên lát sau cô bé tỉnh dậy. Tuy nhiên, cô không tỉnh táo cho lắm, hai mắt nhìn lên trần nhà như vô hồn, mồm lẩm bẩm giống như mê sảng... Con bé sốt cao lắm, mau lấy thuốc hạ sốt đến đây! Dạ.! Không biết con cái nhà ai đêm đông giá buốt mà không biết đường về nhà là sao? Như này mà không phát hiện sớm là chết đấy.. Sư thầy nghiền nát viên thuốc hạ sốt hòa tan cùng nước và bón cho cô bé từng thìa một. Cơ thể ấm dần lên, thuốc ngấm, chú tiểu nấu một bát cháo loãng và đem lên. Ngủ một giấc đến trưa thì cô tỉnh dậy, đầu óc quay cuồng, nhất thời cô bé ngơ ngác không biết vì sao lại ở đây. Chú tiểu thấy cô tỉnh dậy thì mừng quá, vội chạy đi báo cho sư thầy biết. Con thấy trong người thế nào? Sư thầy nhìn cô bé nói nhẹ nhàng, thoáng nhìn đã thấy có thiện cảm. Thúy Hạnh nhìn thấy vị sư thầy trước mắt lúc này mới nhớ ra chuyện đêm qua ngủ quên trước cổng chùa. Bây giờ nằm ở đây, có lẽ được mọi người đưa vào trong chùa. Hạnh e ngại toan ngồi dậy thì sư thầy vội ngăn lại: Đừng vội... con còn mệt. Cứ nằm nghỉ thêm đi, dậy ngay sẽ chóng mặt đó.. Con cảm ơn thầy! Hạnh nói lí nhí, cô bé thấy đầu mình đau nhức khủng khiếp, cổ họng khô rát khàn cả tiếng, có lẽ cô đã bị nhiễm lạnh bởi cơ thể đã chịu rét cả đêm qua. Nhà con ở đâu? Sư thầy bắt đầu hỏi chuyện, bởi lẽ sư biết được một cô bé bỏ nhà đi đêm không về chắc chắn có nguyên nhân, mà lý do là gì thì người không suy luận ra nổi. Nhìn mặt cô bé cũng sáng sủa, dễ nhìn.. lý nào... Sư thầy trầm ngâm suy nghĩ... Hạnh không nói gì cả, nghe thầy hỏi nhà cô bé òa lên khóc, có phải họ muốn đuổi cô về nhà không nhỉ? Hạnh sợ cái cảnh phải quay về căn nhà đó, nơi đó có một người không bằng cầm thú. Cô không muốn về... Hạnh lắc đầu, cô ấp úng không nói được thành câu, liên tục xua tay... Đừng sợ... đừng sợ... Ta không làm hại con... Bình tĩnh nào, có chuyện gì cứ cứ bình tĩnh rồi hãy nói... Thầy ơi.. con không về nhà đâu, con mà về là ông ấy sẽ hại con đấy... Hạnh khóc tu tu, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Sư thầy kiên nhẫn lắng nghe. Ông ấy là ai? Bố con! Bố con... Ông ấy... ông ấy đòi hại con... hu hu... huhu... bố con là người xấu... hu... hu... Hạnh khóc nấc lên, dù chưa biết đầu đuôi thế nào nhưng sư thầy cũng đoán được rằng con bé bị bố bạo hành. Bàn tay người lại lần tràng hạt, mồm niệm chú a di đà phật, thật không ngờ lại có người cha nhẫn tâm đến như thế. Mời các bạn đón đọc Cơn Mưa Định Mệnh của tác giả ThanhThanh.