Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mầm Ác

Mầm ác là một câu chuyện với những dòng diễn biến tâm lý của nhân vật Karen bởi nỗi ám ảnh, tội lỗi cô gây ra, và nỗi lo sợ về tương lai. Những giọt nước mắt rất mặn, chúng đã tưới lớn Mầm ác trong ai? Đón đọc Mầm ác, do Phúc Minh Books liên kết với Nhà xuất bản Văn học ấn hành! *** Mầm Ác là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kể về ba con người với tính cách riêng biệt. Một Karen thông minh và khuôn phép. Một Biba quyến rũ và nổi loạn. Một Rex cam chịu và giàu đức hy sinh. Mùa hè năm ấy, số phận đã đưa ba con người với ba tính cách riêng biệt ấy lại gần nhau... và biến mùa hè đó thành khúc cua định mệnh trong đời mỗi người - khúc cua bất ngờ khiến họ vĩnh viễn không còn cơ hội quay đầu. Khúc cua đẩy Karen khỏi lộ trình tươi sáng của một thiên tài ngôn ngữ. Khúc cua xô Biba khỏi tham vọng hào nhoáng của một đại minh tinh. Khúc cua cắt lìa Rex khỏi giấc mơ sống một đời bình yên dưới mái nhà trong hẻm Queenswood. Và khúc cua, đã làm bừng dậy một Mầm ác. Điều gì đã xảy ra với ba con người ấy? Một sự giải thoát? Một con ác mộng? Hay những bước chân lầm lạc không còn phương hối cải? Và những giọt nước mắt rất mặn, chúng đã tưới lớn Mầm ác trong ai? *** “Anh bước nhẹ nhàng trên tấm rèm nhung màu xanh và vàng đồng mà không gây ra một tiếng động nào, tấm rèm ấy nằm trên nhiều lớp vỏ chăn ga trải ra trên sân thượng, nhưng vẫn có một tiếng va chạm khi gót chân của anh tiếp xúc với hòn đá chặn ở hai đầu của một chiếc mền. Trước đây tôi chưa từng thấy ai đi như vậy, anh cứ đi lên đi xuống quanh một khoảng đất nhỏ, đi qua rồi đi lại, đi tới rồi đi lui. Anh đi như thể trong tâm trí có quá nhiều suy nghĩ và chúng phải chuyển hóa vào các cơ bắp, khiến cho cơ thể di chuyển không mục đích. Có lẽ đó là lý do tại sao trông việc này lại đáng sợ như vậy.” Nỗi lo hay nói chính xác hơn là nỗi ám ảnh luôn khiến cho con người ta rơi vào trạng thái hỗn loạn và hành động kỳ quặc trong vô thức. Nhiều lúc không thể tự kiểm soát bản thân và vì áp lực đã bị dồn nén quá lâu trong một con người sống thầm lặng và “an phận thủ thường” nên mọi chuyện sẽ luôn đi theo chiều hướng cực đoan nhất. Nhân vật Paul trong quyển sách này là một trường hợp tương tự như thế – một mầm ác trỗi dậy như một quy luật tự nhiên về tâm lý của con người. “Mầm ác” chẳng khác gì một bối cảnh mùa hè phóng túng – nơi trỗi dậy của những bí mật tội lỗi và sự hồi hộp luôn kéo dài liên miên bởi biến đổi trong tâm lý đã khiến con người ta trở thành kẻ giết chóc. Cả ba nhân vật chính nhìn thì tưởng họ là những con người lương thiện bình thường nhưng không, ai cũng len lỏi một mầm ác trong tâm hồn. Với Karen – cô là một sinh viên xuất sắc và triển vọng nghề nghiệp rất cao nhưng cuộc đời của cô đã có ngã rẽ khi gặp Biba – một cô gái lòe loẹt và hào nhoáng. Karen đã bị cuốn hút bởi lối sống xa hoa của Biba và đến tham gia cuộc vui tại biệt thự – nơi cô gặp Rex và nảy sinh tình cảm. Họ cuốn vào cuộc đời nhau bởi rượu, tình dục và những đêm hè hoạt náo. Thế nhưng, cuộc đời đâu thể mãi vui và hạnh phúc mãi khi Biba và Rex có những bí mật phức tạp từ gia đình. Ruồng bỏ, tự tử, oán hận và tội lỗi bao trùm cái gia đình ấy và cũng chính nó sẽ bao trùm cả mùa hè vốn dĩ đang rạng ngời của Karen. Dĩ nhiên, biến cố đã xảy ra và cuộc tình của Rex và Karen đã phải chịu xa cách. Thời gian mười năm, Karen đã sinh bé Alice và dĩ nhiên cả Rex và Karen luôn mong muốn có được cuộc sống bình yên sau một khoảng thời gian dài chịu đựng những sóng gió của số phận. Nhưng bất ngờ thay, Karen cũng có những bí mật u tối và chắc chắn sự ám ảnh đó không phải chỉ là một căn bệnh tâm lý mà nó sẽ trở thành một mối nguy đe dọa đến sự an toàn của con và chồng cô. “Mầm ác” đã gây ra được sự thu hút đối với tôi bởi việc di chuyển dòng thời gian giữa mười năm trước và hiện tại rất mượt mà. Mọi tình tiết không hề bị gượng ép và luôn đưa ra được những góc nhìn sâu để tiết lộ sự thật qua từng trang truyện. Kịch tính của tình huống đều được tăng tiến theo mỗi chương cộng thêm với những tình tiết hoàn toàn đảo ngược vấn đề đã khiến cho câu chuyện đặc sắc lạ thường. Vì tội giết người nghe qua thì đơn giản nhưng sự thật đằng sau hành vi tàn ác đó lại khiến chúng ta phải quan tâm nhiều hơn. Những thắc mắc sẽ ẩn hiện và thôi thúc chúng ta đọc đến phần kết cục. Dĩ nhiên, con người không ai hoàn hảo và cũng chẳng có tác giả nào xây dựng một nhân vật hoàn hảo trên mọi phương diện. Thiếu sót của Karen và Rex chính là họ sống trong sợ hãi, họ nhấn chìm cả tuổi trẻ và sự ngây thơ vào những sự tối tăm không cần thiết. Và ở Karen, cô cũng đã quá tham lam với những điều mới mẻ; nếu cô không tò mò với những điều lạ lẫm ở trước mắt thì ngã rẽ của đời cô chắc gì đã xuất hiện?! Biba thì khác biệt một chút, cô ấy hoàn toàn là một kẻ ích kỷ và liều mạng, một kẻ chuyên gia gây ra sự hỗn loạn ở mọi phương diện nhưng lại hiện ra rất chân thật, rất đúng với sự nổi loạn của những người mới lớn. Một điều đáng lưu ý nữa là bầu không khí mà tác giả tạo ra trong truyện thực sự mang lại nhiều ám ảnh, không phải kiểu đáng sợ máu me mà là kiểu tâm trạng mơ hồ và ảm đạm cứ bám víu lấy mọi thứ. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 29-01-2020) Trần Thông *** MỞ ĐẦU Tôi buông chiếc điện thoại để nó tuột khỏi tay. Cơn hoảng loạn đánh gục tôi rồi lại vực tôi dậy. Đầu ngón tay tôi chộn rộn lần mò trên mặt bàn cà phê, quờ quạng tìm chìa khóa xe và điện thoại di động. Tôi cuống cuồng mặc quần áo trong bóng tối, vớ vội lấy áo khoác và đôi bốt da cừu to quá khổ mà tôi vẫn dùng để đi trong nhà. Lúc tới ngưỡng cửa, tôi do dự một giây rồi hối hả quay lại bàn, lục ngăn kéo để tìm hộ chiếu và thẻ tín dụng chỉ dành cho lúc khẩn cấp. Tôi khẽ khàng kéo cánh cửa sau lưng, dù máu đang chạy rần rật trong tai tôi. Tôi chốt hai lần khóa bằng đôi tay run rẩy, nhưng để làm gì? Để ngăn ai đó thoát ra? Để ngăn kẻ nào bước vào? Tôi cũng không biết nữa. Ra đến bên ngoài, tôi nhón chân nhưng vẫn tạo ra tiếng lắc rắc như thể vừa đạp nát một con ốc sên dưới đế giày. Khi tôi giẫm phải một vũng nước ngoài cổng, nước lạnh ngấm qua lớp da lộn mềm mại và liếm vào những ngón chân trần của tôi. Trong khoang xe tối tăm, tôi vặn khóa khởi động, nhăn nhó vì cơn gió buốt giá thổi tới, xua đi làn hơi thở vừa đông thành khói. Đôi tay tôi ướt lạnh. Tôi cố bình tĩnh tìm đôi găng tay len nhét ở túi áo bên trái. Trước khi đeo găng, tôi móc điện thoại ra, mở danh sách cuộc gọi đến. Tôi gọi vào điện thoại trong nhà, chờ nghe tiếng tút tút kết nối tín hiệu nhưng lại vội cúp máy khi điện thoại chưa kịp đổ chuông. Kính chắn gió bị sương giá phủ mờ, còn tôi không dư thời gian để chờ tới lúc hệ thống sưởi làm tan hết hơi nước. Tôi lau ô cửa xe ở ghế khách rồi liếc mắt nhìn cửa sổ phòng ngủ tối đen. Anh có nghe thấy không? Biết đâu ngay lúc này, đèn bật sáng, bóng anh hiện ra bên cửa sổ và anh gọi to tên tôi. Liệu điều đó có ngăn được tôi không? Liệu điều gì có thể? Chiếc xe đỗ ngay phía trước căn nhà. Nếu tôi bật đèn pha lên thì chúng sẽ hắt sáng vào cửa sổ, vì vậy không cần ánh đèn dẫn lối, chỉ dựa vào việc nhìn xuyên qua dấu tay in trên cửa kính, tôi lầm lũi lái xe ra đường. Tới tận khi nghĩ mình đã đi khuất khỏi ngôi nhà, tôi mới mở đèn pha lên. Nơi thôn quê này lạnh băng và ảm đạm. Những hàng rào cây trơ trụi lá khắc họa đường nét kỳ quặc trên con đường trước mặt và vỉa cao bên đoạn đường hẹp đổ xuống những hình bóng tựa như bóng người. Cái chết, mất mát và lầm lỡ vây chặt lấy tôi, các linh hồn vốn giấu mình giờ bùng lên thành ma quỷ. Tôi sợ hãi cả việc liếc ra phía sau. Chúng truy đuổi khiến tôi mất bình tĩnh phóng bạt mạng, thậm chí lao cả lên bờ cỏ lúc rẽ quá nhanh qua khúc cua tầm nhìn hạn chế. Dây an toàn siết chặt vào khoảng giữa ngực tôi khi tôi phanh gấp để tránh đâm phải chiếc xe tải đột ngột xuất hiện trước mắt. Đó là một chiếc xe bẩn thỉu, sơn loang lổ, đồ lề lòng thòng đằng sau và đi chậm như rùa bò, có lẽ tay tài xế hơi quá chén. Tôi chẳng còn cách nào, đành đi chầm chậm theo sau. Tôi dành khoảng thời gian trì hoãn ấy để nghiêm túc suy nghĩ. Nhưng chẳng thể lí trí được trong tình huống thế này. Tôi chỉ mặc đồ ngủ và xỏ đôi giày ẩm lạnh, một mình lái xe trên đường quê giữa đêm tối mịt mùng. Không ai biết tôi đang ở đâu và sao tôi lại ở đó, trên danh sách cuộc gọi ở nhà, tôi cũng tự xóa dấu vết duy nhất mình có thể để lại. Tôi nghĩ tới những người khác, nhưng lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra rằng chỉ khi tiếp tục mới có thể mang đến sự an toàn cho chính mình. Liếc nhìn đồng hồ tốc độ, tôi thấy mình đang đi với vận tốc bốn dặm 1* một giờ. Tôi nhấn còi và nháy đèn, nhưng màu xanh lam hắt ra từ buồng lái cho tôi biết tay tài xế đang nghe điện thoại. Tôi mường tượng trong đầu về đoạn đường phía trước. Vì đã đi qua rất nhiều lần nên tôi nắm rõ từng ổ gà, từng khúc lắt léo và từng đoạn mấp mô. Tôi hít sâu một hơi, giật mạnh cần số, lao liều vào điểm tránh mở rộng mà tôi nhớ rằng nó nằm ngay bên phải. Nhưng người lái chiếc xe đen đi từ hướng ngược lại cũng nghĩ giống tôi. Khi chúng tôi vượt qua nhau, tiếng kim loại cọ xát chát chúa vang lên. Tôi tăng tốc. Nếu anh ta muốn làm gì thì cứ việc đuổi theo tôi đi. Gương bên trái xe của tôi bị bung ra khỏi khung, lủng lẳng níu giữ bằng một mẩu dây điện, trông như một phần tay chân dính với thân thể chỉ bằng một mạch máu duy nhất. Gã lái xe kia bị bỏ lại đằng sau, nhấn còi đầy giận dữ, hiệu ứng Doppler 2* khiến chiếc xe quăng lại nửa tiếng còi cụt lủn rồi cứ thế đi tiếp về phía nhà tôi. Vì có một chiếc xe tải chen giữa xe tôi và chiếc xe vừa nãy, mà lúc này tôi cũng chẳng kịp quay lại, nên không biết gã đi một mình hay chở thêm người, là ô tô riêng hay taxi. *1 dặm ~ 1,069 km. *Một hiệu ứng vật lý, được nhà vật lý Christian Andreas Doppler tìm ra. Hiệu ứng Doppler là hiện tượng xảy ra khi nguồn sóng (với tần số ổn định) di chuyển khiến cho tần số sóng phát ra khác với tần số sóng thu được tại điểm quan sát. Tôi lao đi một cách điên rồ. Chỉ có camera tốc độ với dấu hiệu nhận biết quá rõ ràng mới có thể khiến tôi đi chậm lại. Ở vành đai thành phố, bờ cỏ cằn cỗi bên đường thay thế bằng vỉa hè chật hẹp và hàng cây được trồng thẳng hàng, đều tăm tắp, chia cách mấy căn nhà, một quán rượu cùng một cây xăng. Dãy cột đèn dần xuất hiện, những quả cầu theo phong cách Victoria trông như những mặt trăng nhỏ đang xếp hàng, tôi nhận thấy chúng cũng sáng tựa vầng trăng. Cuối cùng, sự việc làm tôi nơm nớp lo sợ suốt một phần ba đời người đang ở đây. Trong xe bỗng trở nên nóng nực. Đôi tay đeo găng của tôi mướt mồ hôi, mắt khô khốc, còn lưỡi thì dính lên vòm miệng. Tôi đã từ bỏ rất nhiều điều và làm vô số việc tồi tệ chỉ bởi tôi phải làm thế vì lợi ích của gia đình mình. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với chúng tôi. Tôi sợ hãi, nhưng lại cảm thấy mình thật mạnh mẽ. Tôi mang sức mạnh của một người phụ nữ có quá nhiều thứ để mất. Mời các bạn đón đọc Mầm Ác của tác giả Erin Kelly & Quang Bích (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khúc Nhạc Mê Ly
Nguyên tác: The Kreutzer Sonata Bản dịch của: Trần Văn Điền Dịch theo bản Anh Ngữ của Aylmer Maude   Nhưng ta nói cho các ngươi hay: ai nhìn một người đàn bà mà động lòng ao ước, đều ngoại tình trong tư tưởng rồi vậy. (Matt. V, 28) Hôm ấy là ngày đầu xuân, cuộc hành trình của chúng tôi buốc sang ngày thứ hai. Những hành khách đi những nơi gần, lên lên xuống xuống, chỉ có ba người và tôi là đi suốt chuyến xe lửa. Một người đàn bà không còn trẻ, miệng ngậm điếu thuốc, nét mặt băn khoăn, mặc chiếc áo choàng kiểu đàn ông, đầu đội nón. Một ông tuổi trạc tứ tuần, bạn của bà này, nói năng luôn miệng, mặc bộ đồ mới trông thật chỉnh tề. Người thứ ba là một người đàn ông hơi lùn, sống vẻ biệt lập. Ông ta chưa già, nhưng mái tóc quăn đã sớm bạc màu. Cử chỉ đường đột. Đôi mắt sáng có những tia nhìn thật nhanh. Ông ta mặc một chiếc áo choàng cũ, cổ lông cừu may rất khéo, và đội một chiếc nón cao cũng bằng lông. Khi cởi cúc áo choàng, người ta mới thấy ông mặc chiếc "vét" kiểu Nga không tay và áo Sơ mi thêu. Một đặc điểm nữa là ông ta hay hắng giọng, phát ra tiếng kêu cụt ngủn như tiếng cười bị tắt ngấm trong cổ họng. Suốt cuộc hành trình ông ta giữ thái độ tránh né, không muốn làm quen hoặc tiếp xúc với các hành khách khác. Mỗi khi có ai ngồi bên gợi chuyện, ông ta chỉ trả lời vắn tắt. Ngoài ra, ông thường đọc sách, hút thuốc, mắt nhìn về phía cửa sổ, hoặc uống trà hoặc móc trong bị ra một món gì để ăn. Tôi thấy dường như con người này đang âm thầm chịu đựng một nếp sống cô độc ghê gớm. Nhiều lần tôi cố gắng bắt chuyện với ông. Nhưng mỗi khi cặp mắt chúng tôi đụng nhau - điều này rất hay xảy ra vì tôi ngồi đối diện với ông ta - thì ông ta lại quay đi, nhìn ra cửa sổ hoặc nâng cuốn sách lên đọc. Đến tối ngày thứ hai, khi xe lửa ngừng lại ở một ga lớn, ông ta đi kiếm nước sôi pha trà. Người đàn ông ăn vận chỉnh tề - về sau tôi mới biết là luật sư - và người đàn bà hút thuốc mặc chiếc áo choàng kiểu đàn ông cùng xuống phòng giải khát uống trà. Trong lúc họ vắng mặt, nhiều hành khách mới lên xe, trong số đó có một cụ già, không để râu, người cao ráo đúng là một thương gia. Ông ta mặc chiếc áo lông chồn và đội chiếc nón vải rộng lòng. Lão thương gia ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với chỗ người đàn bà và ông luật sư, rồi bắt đầu chuyện trò ngay với người thanh niên đi theo. Vẻ bên ngoài cho đoán thấy người thanh niên này là thư ký của một thương gia nào đó. Tôi ngồi ở dẫy ghế phía bên kia. Đang khi xe lửa còn đậu, không một ai qua lại giữa chúng tôi, tôi đã nghe được những mẩu chuyện của họ trao đổi nhau. Lão thương gia nói mình về thăm một cơ sở chỉ cách đây có một ga. Rồi, như thường lệ, câu chuyện xoay qua công việc buôn bán, giá cả hàng hóa. Họ bán đến tình trạng kinh tế ở Mốt Cu (Moscou), đến buổi hội chợ Nizhni Novgorog. Người thư ký kể chuyện một thương gia giầu có, cả hai đều quen biết, đã tổ chức cuộc vui chơi tại hội chợ. Cụ già liền gạt đi, thuật lại cho hắn nghe về những buổi chè chén say sưa mình đã tham dự hồi xưa tại hội chợ Kunavin. lão tỏ vẻ hãnh diện rõ rệt về đoạn đời thác loạn lão đã sống. Lão thích thú kể lại lão và mấy người bạn, trong số đó có cả người thương gia họ vừa nói tới, đã tổ chức ăn uống nhậu nhẹt tại Kanuvin và đã chơi những trò bí mật đến nỗi lão phải nói nhỏ vào tai cậu thanh niên. cậu này thích thú cười rộ lên, khiến lão già cũng cười theo, để lộ hai chiếc răng vàng kê(ch. tiếng cười của họ vang dội cả toa xe. Tôi bực bội đứng dậy định xuống sân ga đi đi lại lại chờ xe lửa khởi hành. Ra tới cửa, tôi gặp vị luật sư và người đàn bà đi tới, đang chuyện trò với nhau. Thấy tôi, người luật sư vui vẻ lên tiếng: - Không còn giờ đâu. Xe lửa đi bây giờ! Thật vậy, tôi chưa đi hết một vòng sân ga thì nghe chuông rung báo hiệu giờ khởi hành. Khi tôi trở lại, người đàn bà và vị luật sư vẫn còn đang mải mê nói chuyện. Lão thương gia ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn thẳng trước mặt, thỉnh thoảng lẩm bẩm trong miệng tỏ vẻ khó chịu. Khi đi ngang qua vị luật sư, tôi nghe ông ta nói: - Rồi bà ta bảo thẳng vào mặt chồng mình không thể và cũng không muốn sống với hắn ta nữa vì... Vị luật sư còn tiếp tục nói nhưng tôi không nghe rõ. Nhiều hành khách khác lên xe. Người soát vé đi qua. Một bác khuân vác vội vã lên theo. Tiếng ồn ào khiến tôi không còn nghe được câu chuyện của họ nữa. Một lúc sau, bầu không khí trở lại yên tịnh, câu chuyện của họ dça4 quay sang những nhận xét chung quanh, không còn đề cập tới những trường hợp riêng lẻ nữa. Vị luật sư nói bên Âu Châu dân chúng đang bàn tán sôi nổi về vấn đề "ly dị", và ở Nga, những trường hợp ly dị xảy ra mỗi ngày một nhiều. Thấy chỉ có mình mình nói, người luật sư ngừng ngang rồi tươi cười quay sang cụ già: - Ngày xưa, đâu có những chuyện như vậy phải không cụ? Cụ già toan trả lời thì xe lửa chuyển bánh. Cụ liền bỏ nón xuống, làm dầu thánh giá và thì thầm đọc kinh. Vị luật sư lễ phép quay đi, chờ đợi. Đọc kinh xong, cụ già làm dấu thánh giá ba lần, đội nón lại ngay ngắn, sửa lại cách ngồi rồi lên tiếng: - Ngày xưa cũng có chứ, nhưng ít hơn thôi. Ngày nay những chuyện như thế bắt buộc phải xảy ra. Dân chúng bây giờ được giáo dục nhiều quá mà. Xe lửa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, lắc lư trên đường rầy khiến tôi nghe không được phải ngồi xích lại gần hơn. Người đàn ông đặc biệt có đôi mắt sáng, ngồi đối diện tôi cũng chăm chú theo dõi cuộc đối thoại. Người đàn bà mỉm cười hỏi lại: - Giáo dục có hại gì? Ngày xưa cô dâu chú rể đến ngày cưới mới thấy mặt nhau. Lấy nhau như thế thì làm sao hay hơn bây giờ được! Bà ta nói tiếp, theo dòng tư tưởng của riêng mình, không cần trả lời đúng câu hỏi người đối thoại như thói quen của phần đông các bà. - Họ cười bất cứ ai, chẳng cần biết mình có yêu được hay không để rồi phải khốn khổ suốt đời. Như thế mà cụ cho là hay được sao? Rõ ràng là bà ta muốn nói với tôi và nhất là với vị luật sư, chứ không phải với cụ già, kẻ đối thoại với mình. Lão thương gia khinh khỉnh nhìn người đàn bà, không trả lời gì thêm, chỉ lặp lại câu nói: - Họ được giáo dục nhiều quá mà! Vị luật sư mỉm cười góp ý: - Xin cụ giải thích cho biết giáo dục có liên quan gì với mối bất hòa giữa vợ chồng? Lão thương gia định nói, nhưng người đàn bà ngắt ngang: - Không, cái thời đó đã qua rồi! Vị luật sư can: - Phải, nhưng xin bà để cho cụ phát biểu ý kiến đã! Lão thương gia lên tiếng giọng cương quyết: - Bao nhiêu chuyện điên rồ đều do giáo dục mà ra cả. Người đàn bà quay nhìn vị luật sư, nhìn tôi, nhìn cả chàng thư ký đã đứng dậy, đang tựa lưng ghế chăm chú theo dõi cuộc đối thoại, rồi bà vội nói: - Họ bắt những người không yêu nhau phải cưới nhau rồi ngạc nhiên khi thấy chúng nó sống lủng củng với nhau. Chỉ có loài vật mới để cho chủ ghép đôi như thế. Con người không thế! Con người còn những xu hướng, những quyến luyến riêng của mình. Giọng người đàn bà gay gắt như muốn trêu tức lão thương gia. Ông này phản ứng: - Bà không nên nói như vậy. Loài vật là loài vật, nhưng loài người có luật lệ riêng. Người đàn bà vội đưa ra lý lẽ mà bà ta cho là mới mẻ: - Phải, nhưng làm thế nào sống được với một người mình không yêu? Lão thương gia trả lời: - Ngày xưa người ta đâu có nêu vấn đề đó ra! Bây giờ con người mới thắc mắc đủ thứ. Hơi một chút là họ nói: "Tôi không thèm sống với anh nữa!" Cái mốt đó lan tới cả đám dân quê. Cô nàng bảo chồng: " Đây, quần áo anh đây! Tôi nhất định đi theo người đàn ông đó. Đầu hắn có mái tóc quăn đẹp hơn anh." Như vậy, theo ý tôi, việc đầu tiên đòi hỏi nơi người đàn bà là phải biết sợ. Ý kiến bà thế nào? Chàng thư ký liếc nhìn vị luật sư, nhìn người đàn bà, rồi nhìn tôi. Dường như hắn muốn chờ phản ứng của chúng tôi để có thái độ thuận theo hoặc phản đối ý kiến lão thương gia. Người đàn bà hỏi vặn lại: - Sợ cái gì mới được chứ? - Sợ chồng! *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) Mời các bạn đón đọc Khúc Nhạc Mê Ly của tác giả Leo Tolstoy & Trần Văn Điền (dịch).
Chuyện Kinh Thánh
Giới thiệu tác phẩm này của minh, nữ văn hào Pearl Buck viết: “Có thể đọc Kinh thánh, cả Cựu ước lẫn Tân ước, theo nhiều cách. Đối với một số người, Kinh thánh lập thành những lời giảng dạy thiêng liêng. Đối với một số người khác, Kinh thánh là tác phẩm văn chương thuần khiết nhất mà chúng ta có trong ngôn ngữ nước nhà. Đối với một số người khác nữa, Kinh thánh là một bản tóm tắt sự hiểu biết về bản chất con người trong khổ đau, phấn đấu và hân hoan.” Thật thế, Kinh thánh là một công trình thần hứng, vượt ra ngoài khuôn khổ của một tôn giáo và một dân tộc. Cuộc hành trình của dân Do Thái tiêu biểu cho cuộc hành trình của loài người. Các nhân vật Kinh thánh in đậm dấu vết con người muôn hình muôn vẻ và muôn đời. Đây là bộ sách đầy minh triết, làm gia tăng cảm quan đạo đức và không kém phần thi vị. Đây cũng là sự mạc khải thầm lặng và say đắm về cuộc phấn đấu của con người, cả nam lẫn nữ, trong nỗ lực tìm kiếm cội nguồn của mình và nguyên ủy của sự sống và sự chết. Trong cuộc lữ hành đó, con người bắt gặp đấng tối cao chân chính, độc nhất, nhân từ và chung thủy, đồng thời nhận ra rằng mọi người đều là anh chị em nhau. Con người phơi phới đến với thượng đế trong yêu thương, tuân phục và thờ phượng, đồng thời sống làm một với người bên cạnh trong bác ái và phục vụ. Kinh thánh gồm Cựu ước và Tân ước, tập thành rải rác trong hơn một ngàn năm. Cựu ước gồm nhiều tập sách được ghi lại bắt đầu từ thời Đa-vít, khoảng năm 1.000, và kết thúc khoảng năm 200 trước Công nguyên. Tân ước được ghi lại trong thế kỷ thứ nhất của Công nguyên. Xuyên suốt Kinh thánh là một thông điệp đức tin, nổi bật lên lời giao ước của thượng đế cho con người. Một lời giao ước xuất hiện đầy nghiêm khắc trong Cựu ước và được kiện toàn một cách đầy thương yêu trong Tân ước. Từ hàng ngàn trang cổ văn gồm các luật lệ, ca nguyện, sự tích và lời giảng, Pearl Buck tuyển ra những nhân vật, những sự kiện tiêu biểu và kể lại theo cách của bà, thành bảy mươi hai câu chuyện, bắt đầu từ sáng thế cho tới khi Đức Ki-tô lên trời. Đây là một tác phẩm công khó trong nhiều năm và được xuất bản lần đầu vào năm 1971, đánh dấu năm bà tám mươi tuổi. Tuy cuốn Chuyện Kinh thánh không phản ánh hết được toàn bộ Kinh thánh, cũng không thể thay thế cho Kinh thánh, nhưng theo nhận xét của nhiều người trong giới thẩm quyền giảng huấn tôn giáo và phê bình văn học thì đây là một thành tựu lớn lao của Pearl Buck. Tác phẩm cô đọng sự kết tập cả hai truyền thống đông và tây, cả văn học lẫn tôn giáo. Thân phụ bà là một nhà truyền giáo tại Trung Hoa và cũng là một học giả tinh thông tiếng Híp-ri và Hy Lạp. Ông hầu như chỉ tín nhiệm vào hai bản Kinh thánh Qui điển Híp-ri và Hi Lạp. Bản thân bà, lúc trẻ từng kết hôn với một nhà truyền giáo. Bà trải qua thời niên thiếu tại Trung Hoa và sau đó, quay lại giảng dạy ở Đại học Nam Kinh. Bà khởi đầu văn nghiệp và thành danh qua các tác phẩm lấy bối cảnh và nhân vật Trung Hoa nửa đầu thế kỷ hai mươi. Bà thường xuyên tiếp cận với lối sống đạo và kinh sách của nhiều tôn giáo tại Ấn Độ, Trung Hoa; và Kitô giáo cũng được bà nhìn như một tôn giáo phương đông. Bên cạnh đó, bà là một văn hào từng được trao giải Pulitzer của Hoa Kỳ và giải Nobel Văn chương. Bà kể những chuyện trong Kinh thánh chứ không viết lại Kinh thánh. Bà bám rất sát các sự kiện và lời nói trong Kinh thánh, không thêm không sửa, nhất là cố giữ phần đối thoại y nguyên tối đa, bà chỉ minh họa thêm vài cử chỉ, ít nụ cười, mấy tiếng thở dài... Dưới ngòi bút linh động của bà, mỗi câu chuyện bà kể vừa chuyên chở được bản thông điệp tâm linh, vừa giữ được tính cách chính thống trong phạm vi qui điển, đồng thời, tạo được nhịp cầu giao cảm giữa độc giả ngày nay với tâm tình nhân vật và các sự kiện lịch sử hàng ngàn năm trước. Bà đã chuyển được phần nào nội dung của cuốn Kinh thánh dày cộm thành những câu chuyện hấp dẫn và đặt vào lòng bàn tay của người đọc bình thường, trong và ngoài Kitô giáo. Thêm nữa, ẩn trong lối hành văn mộc mạc và cảm động của bà, người đọc thấy lấp lánh nét tinh anh của một tâm hồn nhân ái, đại kết tôn giáo, tôn trọng nữ quyền, yêu thương mọi chủng tộc, tha thiết với môi trường sống... Bền vững và ngời sáng giữa các câu chuyện xa xưa ấy là đức tin tôn giáo nguyên thủy, đơn sơ và dồi dào khí lực. Vượt lên trên các luận thuyết phức tạp, xuyên phá nghi lễ và phẩm trật, ở bên kia ngôn từ và truyền thuyết, đức tin thuần khiết ấy hồn nhiên toả hơi ấm đều khắp cuộc sống thường ngày. Và trong cuộc sáng thế đang tiếp diễn và ngày càng tốt đẹp này, Kinh thánh mãi mãi là lời giao ước và là tin mừng cho mọi dân tộc, cho mọi người, để sống hiệp nhất và bình an. Người Dịch: Nguyễn Ước *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” Mời các bạn đón đọc Chuyện Kinh Thánh của tác giả Pearl S. Buck.
Ảo Ảnh Vàng Son
Tên truyện : Ảo Ảnh Vàng Son Nguyên tác : Une Misère Dorée Tác giả : Delly Dịch giả : Mai Thế Sang Thể loại : Văn học nước ngoài Đánh máy (vietlangdu.com) : maylangthang, thanhbinhdat Chuyển sang ebook (TVE): santseiya "Một gia đình công hầu muốn mời đến ăn và ở trong lãnh địa của mình, một gia đình từ hai đến ba người là cùng, có danh giá, có giáo dục ưu tú, có khả năng dạy học cho ba đứa trẻ. Nơi ở tốt, tại một trong những vùng rừng đẹp nhất của nước Áo. "Viết cho hòm thư lưu: I.L... Defelden. "Cần thiết phải có những chứng chỉ nghiêm túc" Giáo sư Lienkwicz bỏ tờ báo đang đưa sát đôi mắt cận thị. Trên bộ mặt thanh tú héo hắt vì tuổi tác, vì lo âu và vì những nỗi đau thể xác, cặp mắt ông suy nghĩ - cặp mắt trong sáng, dịu hiền và hơi ưu tú - hiện rõ tâm hồn Adrian Lienkwicz, một người đáng mến, thân thiết và điềm đạm nhưng hơi mềm yếu, dễ thất vọng với những thử thách đường đời. Tâm hồn dễ thương, tinh tế, ưa thích quá khứ xa xăm và những câu chuyện cổ, có khả năng hy sinh thân mình cho nhiệm vụ mà không hề phàn nàn, nhưng lại kém sẵn sàng hành động và đấu tranh. Thời niên thiếu ông học tại trường Đại học Vienne. Ông được các bạn bè yêu mến đồng thời họ cũng quấy rầy ông. Họ chế giễu tính nhịn chịu, chăm học và ôn hoà của ông. Tuy nhiên họ cũng bị chinh phục bởi con người tươi vui và hoà nhã ấy, có tính độ lượng đến khinh suất, biết hoà giải những tay kiếm hung hăng nhất và không biết cách từ chối bất kỳ ai cần đến sự giúp đỡ của mình về vật chất hay tinh thần. Thời thanh niên, ông chinh phục được trái tim cô Elizabeth Zulman, con gái một thầy giáo. Quy luật tương phản đã hấp dẫn đôi trai gái tính tình khác hẳn nhau ấy. Cô gái bản chất thích đấu tranh, cương quyết và có nghị lực, nàng đã cứu vãn được những di vật của gia tài họ Lienkwicz. Tính độ lượng của giáo sư Adrian đôi khi không hợp thời được ngăn chặn bởi trí thông minh bình tĩnh và đôn hậu của bà giáo. Đó là một gia đình hạnh phúc cho đến khi một căn bệnh hiểm nghèo ập đến cướp mất người bạn đời rất thân thiết ấy và để lại Adrian một mình với hai đứa con dại, đứa lớn mới mười tuổi. Là một người cha dịu hiền và tận tâm, Adrian không muốn xa rời hai con, ông mướn một nguời đàn bà vừa để trông nom và giáo dục các con vừa làm quản gia. Nhưng ông giáo hiền lành là một ông chủ mù quáng, và gia tài của ông chẳng bao lâu bị rút dần rút mòn, trước hết bởi mụ quản gia chẳng mấy tí chu đáo. Lại còn bị đám bạn bè xấu, ăn hại vô liêm sỉ đến nỗi ngày mà Adrian mệt mỏi, thấy mình buộc lòng phải rời bỏ chức vụ giáo sư, ông kinh ngạc nhìn thấy nguồn lợi tức của mình chỉ còn vỏn vẹn để sống với hai đứa con. Đó là một đòn gánh nặng giáng vào con người đã hoàn toàn suy sụp về thể xác. Ông lâm bệnh và được con gái ông là Marysia "kho báu và trí tuệ của ông" như ông thường gọi, chăm sóc một cách tuyệt vời. Thời kỳ dưỡng bệnh, buộc lòng ông phải rời bỏ căn nhà tiện nghi để đến một căn nhà hẹp hơn. Sức khỏe chỉ cho phép ông dạy học trò vừa đủ nuôi một gia đình nhỏ do cô gái Marysia điều khiển một cách khéo léo, nhờ thừa hưởng của bà mẹ những đức tính cao đẹp. Cả ba bố con sống thanh bạch như vậy trong cảnh khó khăn và thường được một số bạn cũ đến thăm. Thử thách lớn nhất cho gia đình là tình trạng tàn tật của Alexy, em trai Marysia. Bệnh bại liệt đã làm hai chân cậu bé không cử động được. Thầy thuốc mới đây đã tuyên bố là khí hậu ở Vienne không thích hợp cho bệnh nhân và không khí trong lành ở miền quê, nhất là miền rừng núi, nếu không chữa khỏi bệnh cũng làm giảm được bệnh một cách đáng kể. Từ đó ông giáo sư và cô con gái tìm kiếm một sự phối hợp nào đó để có thể chữa bệnh mà không tốn nhiều tiền. Phải chăng cái thông cáo ở cuối trang báo này là giải pháp cho vấn đề của ông Adrian! Ông quay về phía một cánh cửa mở và cất tiếng gọi: - Marysia! Có tiếng động ghế ở phòng bên rồi một cô gái cao và mảnh xuất hiện ở khung cửa. Trong bộ quần áo lao động giản dị, Marysia Lienkwicz có một dáng đi đặc biệt thanh nhã. Không có những nét đều đặn tuyệt đối, nhưng Marysia đẹp hơn cả đẹp, với diện mạo duyên dáng vừa dịu hiền vừa thanh tao, với sự tương phản của bộ tóc rất đen có những búp xoăn bóng loáng, với cặp mắt màu xanh thẫm phản chiếu một tâm hồn nồng nhiệt và trong sáng. Cô gái sốt sắng hỏi: - Gì thế, ba yêu quý? - Con hãy đọc đây này. Cô thiếu nữ cầm tờ báo lên, liếc qua bài báo rồi nhìn cha vẻ dò hỏi. - Con ạ, ba thấy hợp với chúng ta đấy. - Vâng, một miền rừng núi, tuyệt quá. Nhưng còn cần phải có thêm những chi tiết khác? - Tối nay ba sẽ viết. Alexy có vẻ mệt mỏi hơn, ba muốn nhanh chóng đưa em con ra khỏi nơi trật hẹp thiếu không khí này. Một nếp nhăn lo lắng hiện ra trên vầng trán rất trắng của Marysia: - Vâng, ở đây em con xanh xao lắm. Cả ba nữa! Chắc chắn là không khí đồng quê sẽ mang lại lợi ích to lớn. - Ba cũng tin vậy. Cả con nữa, con cũng sẽ khá hơn. Trông con có vẻ mệt mỏi lắm rồi. Con đã phải làm việc quá sức mình để chăm sóc em con và ba. Ba chẳng còn làm được việc gì nữa. Marysia cúi xuống đưa bàn tay vuốt ve cổ cha, hôn lên vầng trán đã nhăn nheo của cha và thỏ thẻ: - Thưa ba yêu quý, nếu ba biết được những nhiệm vụ đó đối với con thân thiết biết bao, con gái ba sẽ rất sung sướng được chăm sóc ba và em con với tất cả tình thương yêu của mình. Và con còn muốn được làm nhiều hơn thế nữa kia. Cặp mắt xúc động của ông Adrian nhìn vào khuôn mặt đẹp đang cúi xuống: - Ừ, ba vẫn biết là con là đứa con ngoan. Ba biết là con rất thương yêu người cha tội nghiệp của con lúc nào cũng ốm yếu. Nhưng lòng ba mong muốn biết bao được thấy con thanh bình và sung sướng, giải thoát khỏi những công việc lặt vặt và được tự do phát triển trí thông minh mà Chúa đã ban cho con. Một nụ cười rất tươi nở trên môi cô gái: - Thưa ba thân mến, thực tâm con chỉ yêu cầu một điều, đó là được tiếp tục hầu hạ ba và em con, được ba và em con yêu mến, giữ được hoạt động và can đảm mà Chúa đã ban cho con. Được như vậy, chừng nào con còn được giữ lòng tin Chúa, Marysia của ba sẽ không bao giờ bị đau khổ... Kìa, món xúp đã được rồi. Thiếu nữ lao vào trong bếp. Giáo sư cũng đứng lên và cảm động thì thầm: - Lúc nào nó cũng vui vẻ... Và dũng cảm nhường kia. Lạy Chúa, người nhân từ biết bao đã cho con một đứa con gái như thế. Ông đi vào phòng bếp, phòng ăn cũng đồng thời là phòng tiếp khách. Trên một chiếc ghế dài đặt trước cửa sổ, một cậu thiếu niên trạc mười lăm tuổi đang nằm. Thấy cha vào, cậu ngoảnh lại nhìn ông, cặp mắt thẫm, quá to đối với khuôn mặt gầy và nổi lên rất đậm trên nước da tái. Diện mạo trẻ trung ấy có một sức hấp dẫn kỳ lạ bởi vẻ đẹp đặc biệt và hơn nữa bởi vẻ đau đớn, chịu đựng. - Con yêu của cha có thấy khá hơn không? Ông dịu dàng hỏi và đưa tay vuốt mái tóc đen rất dày và xoăn của con trai. - Có khá hơn, ba ạ. - Con này, đây là giải pháp giúp chúng ta giải quyết được vấn đề - sau khi thấy con trai đọc xong bài báo, ông hỏi tiếp - Alexy,... con thấy thế nào? - Có lẽ thế, ba ạ. Ba sẽ viết thư chứ? - Ngay bây giờ đây, con ạ! Sau khi đã viết thư trả lời cho địa chỉ I.L... ông trở lại chỗ con trai nằm. Alexy đang giở những trang giấy trong một tập giấy cũ, cậu nói vẻ suy nghĩ: - Cha ơi, thật lạ quá, sao chẳng bao giờ thấy ba tìm nguồn gốc của gia đình chúng ta? Tuy nhiên con thấy hình như ba có thể tìm được một số hướng dẫn ở bên Ba Lan. - Ba cũng đã có bắt đầu đấy chứ. Nhưng khi mẹ con mất, ba nản lòng, nên đã bỏ dở. Ba chỉ biết là ở bên Ba Lan - ba không còn họ Lienkwicz và danh từ đó đã bị lãng quên hoàn toàn. Có lẽ tổ tiên chúng ta từ nhiều thế kỷ nay đã ngụ cư bên Áo. Tuy nhiên cũng thật lạ lùng, chúng ta chẳng có một tờ gia phả nào. Ông con có nói rằng chúng ta xuất thân từ dòng dõi quý tộc, nhưng dù sao cũng chẳng được lợi lộc gì. - Tất nhiên là thế. Tuy nhiên con rất muốn biết tổ tiên chúng ta là những ai và chút ít lịch sử ra sao. Con rất sung sướng được lục tìm trong quá khứ và tất nhiên dĩ vãng của gia đình chúng ta làm con say mê hơn cả. - À. con đúng là con trai của ba. - Giáo sư nói và vui vẻ nắm lấy tay Alexy. - Ở tuổi con, ba cũng có niềm say mê ấy, ba thích nghiên cứu như con nhất là nghiên cứu lịch sử quá khứ. Các bạn ba gọi ba là "ông già tước vị". Thực tế đối với ba không có gì vui thú bằng được lần mò trong tay những tờ giấy thiêng liêng, chứng minh cho thời quá khứ bất hủ... thú thật là lúc nào cũng hấp dẫn ba. Với nó ta quên được một chút hiện tại chẳng vui vẻ gì lắm... - Không, không phải bao giờ cũng thế. Alexy ngước mắt lên trời lẩm bẩm. Mấy ngày sau giáo sư Adrian Lienkwicz nhận được thư trả lời của I.L... bằng nét chữ phụ nữ, bức thư ghi rõ những điều kiện yêu cầu: Có năng lực dạy học mấy đứa trẻ từ mười một đến mười ba tuổi, xuất trình những giấy chứng chỉ tốt nhất, có phong cách nhã nhặn và thanh tú. Được cung cấp một căn hộ có bốn phòng rộng rãi, bày biện đẹp, thực phẩm giản dị và tinh khiết, đun nấu, sưởi tùy ý và có công viên để dạo chơi. Ngược lại, phải lên lớp bốn giờ mỗi ngày và chấm, sửa bài. Bức thư nói tiếp: Nếu những điều kiện thích hợp, xin cho chúng tôi biết về gia đình ông và tôn giáo, những người mà chúng tôi có thể hỏi thăm tình hình. Sau đó chúng tôi sẽ cho biết địa chỉ của chúng tôi. - Ba có thấy thật là bí ẩn không? Marysia hỏi sau khi đã đọc bức thư viết bằng một lối văn lịch sự nhưng khá vắn tắt... Lại vẫn những chữ đầu ấy... - Có lẽ con người đó không muốn phô tên mình ra trước sự tò mò của bất kỳ ai. Cũng là lẽ tự nhiên. Con thấy đấy, người ta rất khó khăn về vấn đề danh giá, như vậy càng tốt. - Vâng, về vấn đề này chúng ta chẳng có gì đáng lo ngại. Còn về những điều kiện khác, chúng ta có đầy đủ chẳng khó khăn. Hai ba con đều có thể lên lớp theo yêu cầu và còn chán thì giờ để cha hoàn thành cuốn "Lịch sử Ba Lan", còn con để làm việc nhà. Tình hình có vẻ dễ chịu đấy. Nhưng cũng cần phải tìm hiểu trước. Giáo sư viết cho địa chỉ không quen, trả lời chi tiết những yêu cầu và cho biết những người danh giá để hỏi thăm tình hình về ông. Mười lăm ngày trôi qua không có trả lời. Nhưng rồi một buổi sáng người đưa thư trao cho Marysia một phong bì có dấu gia huy, dán tem, đóng dấu bá tước quan. Nét chữ vẫn cùng một người đã viết bức thư trước. Marysia vội chạy vào phòng ăn đưa bức thư cho cha: - Ba ơi, đây là thư trả lời. Giáo sư vội bẻ dấu niêm phong và đọc to: "Kính thưa giáo sư, Những chứng chỉ của ông làm tôi thoả mãn hoàn toàn, cả về gia đình ông nữa. Nếu ông đã quyết định, xin ông cho biết. Về phần tôi, chúng tôi đã sẵn sàng tiếp đón gia đình tôi đến Runsdorf, lâu đài của chúng tôi đấy, ngoài giờ học, ông được hoàn toàn tự do. Vậy tôi chờ đợi câu trả lời chính thức của ông. Thưa giáo sư, kính chúc... IOLANTHE Nữ bá tước Lendau, Lâu đài Runsdorf-Dufelden". - Ôi, ôi, một dòng họ đại quý tộc. Giáo sư nói. Lendau là một gia đình cổ kính, dòng họ gần gũi của hoàng thân. Các con thấy thế nào? - Thưa ba, Marysia nói, con thấy là về phần chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào đã, mặc dù họ nhà Lendau là quý tộc. - Con nói đúng, con gái khôn ngoan của ba. Nhưng hỏi ai bây giờ? - Ba có một gia đình ông bạn thân là Conrad Duntz làm giám thủ[1] lãnh địa Nunsthel ở ngay gần Dufelden có phải không? Giáo sư vỗ vào trán đáp: - À, đúng rồi. Vấn đề là ở đây. Ba sẽ viết thư cho ông ấy và yêu cầu trả lời ngay, để cho bà đại quý tộc ấy đỡ phải chờ lâu. Mấy ngày sau nhận được thư trả lời của ông giám thủ do con trai ông viết: "Bố cháu gặp tai nạn xe cộ bị gẫy tay. Nếu không bố cháu chẳng chịu nhường cho cháu thú vui được viết thư trả lời bác... Runsdorf là một cơ ngơi rất cổ kính, rất rộng lớn, ở trong một thung lũng cách Dufelden mười kilomet. Mời các bạn đón đọc Ảo Ảnh Vàng Son của tác giả Delly.
Vịnh Mõm Đen
(Gồm 2 truyện dài là Vịnh Mõm Đen và Kolkhida) Tác giả: Konstantin Paustovsky Nguyên tác: Кара-Бугаз (1932), Колхида (1933) Dịch giả: Nguyễn Hải Hà NXB: Thanh Niên (1978) Ghi chú: Bản dịch đã được sửa phiên âm và hiệu đính khá nhiều lỗi dịch thuật, có tham khảo thêm bản tiếng dịch tiếng Anh. Nguồn text: bản chụp của bạn qingqing T ên tuổi nhà văn Xô-viết Konstantin Paustovsky từ lâu đã trở nên quen thuộc và được bạn đọc nước ta, đặc biệt là bạn đọc trẻ tuổi, ưa thích. Nếu bạn đã say mê văn học, và tìm thấy ở văn học một cuộc sống thật sự của ngày mai, một sức mạnh hướng dẫn đầy ân tình và đủ sức thuyết phục thì, có lẽ bạn sẽ khó có thể thờ ơ được khi thấy người bên cạnh mê mải với những «Bông hồng vàng» và «Truyện ngắn Paustovsky». Tác giả «Bông hồng vàng» và những truyện ngắn kỳ diệu đó đã tìm thấy phương châm sống và sáng tạo nghệ thuật của mình trong câu nói nổi tiếng của nhà thơ Ba Tư Saadi, mà ông đã trích dẫn trong bài «Một con người lớn lao» viết năm 1919 nhân dịp kỷ niệm M. Gorky 50 tuổi: «Tôi dùng 30 năm để chu du. Tôi đã sống nhiều ngày với những con người thuộc mọi dân tộc và đã sưởi ấm bên nhiều đống lửa trại. Tôi đã thấy chút ít vẻ đẹp lớn lao tràn đầy vũ trụ. Tôi đã dùng 30 năm để học và 30 năm cuối cùng để sáng tác. Sung sướng thay kẻ nào, sau khi sống cuộc đời như thế, đã để lại cho con cháu dấu ấn của tâm hồn mình» . Và, noi theo gương M. Gorky, Paustovsky đã ra sức trau dồi vốn sống, bởi vì theo ông: «Cuốn sách hay chỉ ra đời như kết quả của một cuộc đời đầy giá trị và sáng tạo» . Trước Cách mạng tháng Mười, Paustovsky đã từng đi lái xe điện, làm y tá trên các đoàn tàu cứu thương, làm người chọn phế phẩm ở xí nghiệp sản xuất đạn trái phá, học nghề đánh cá, rồi làm báo... Trong thời kỳ đó và trong những năm đầu của Cách mạng tháng Mười ông đã viết rất nhiều, nhưng trong nhiều năm các nhân vật của ông vẫn chơi vơi trong bầu trời lạnh lẽo của những cá nhân tự coi là phi thường nên đơn độc (tiểu thuyết Những đám mây lấp lánh (1929) và tập truyện Những người lãng mạn (viết từ năm 1916 đến năm 1923, in năm 1935). Họ cảm thấy mình «ở ngoài cuộc sống chung» , vì thế họ bị coi là «những con người tình cờ» đến sống giữa thế gian này. Nhưng không khí sôi nổi, xây dựng đất nước cuối những năm 20, đầu những năm 30, khi Liên Xô đang sải rộng đôi cánh công nghiệp hóa trên đà bay thần kỳ của những kế hoạch năm năm đã giúp cho ngòi bút của Paustovsky đi đúng hướng: ông không phải đi đâu xa để tìm tính chất lãng mạn cho ngòi bút của mình, vì chính nó đang hiện hiển sinh động ở ngay trong cuộc sống xây dựng lớn lao bề bộn đó. Sự ra đời của Kara-Bugaz  [1] và Kolkhida đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời sáng tác của Paustovsky và làm cho tên tuổi ông nổi tiếng khắp Liên bang. Trong Kara-Bugaz và Kolkhida Paustovsky muốn phản ánh tính chất lãng mạn và tinh thần anh hùng được thể hiện một cách sinh động trong cái bình thường mà không phải bất kỳ ai cũng dễ dàng nhận thấy. Là một vịnh biển huyền bí nằm bên một vùng sa mạc hoang vu, Kara-Bugaz – nơi có trữ lượng muối mirabilite phong phú nhất thế giới - đã gắn liền với những vụ đầu cơ, lường gạt, ăn trộm và khai thác một cách vô tổ chức của một số nhà tư bản dưới thời Nga hoàng. Kara-Bugaz, với hòn Đảo Đen - là nơi bọn Bạch vệ mưu toan đẩy hàng trăm tù binh Hồng quân vào bàn tay thần chết trước giờ phút bọn chúng rút chạy - đã nhắc nhở mọi người rằng mỗi tấc đất quê hương mà ta đang xây dựng hôm nay đã được giành giật, giữ gìn bằng xương máu của biết bao liệt sĩ. Còn Kolkhida, địa danh khởi nguồn từ Colchis - trong thần thoại Hy Lạp là nơi các dũng sĩ Hy Lạp với con tàu Argo dưới sự chỉ huy của Jason đã đến và tìm được ở đó thứ lông cừu vàng mà người xưa hằng mơ ước – lại là một vùng đầm lầy với khí hậu á nhiệt đới vô cùng khắc nghiệt và bệnh sốt rét ác hại đã cướp đi từng làng, thậm chí từng vùng. Nhưng với những con người giàu lòng tin ở sức mạnh của chính mình và của tập thể thì «Trong thiên nhiên quanh ta hầu như không có tai ương nào không thể đem sử dụng cho nhu cầu và lợi ích của con người» . Và với kỹ sư Prokofyev say sưa đi tìm ngọn nguồn của dầu lửa, với nhà địa chất Vasilyev đi thăm dò các vỉa than và phosphorite, với kỹ sư Davydov cả đời lăn lộn trên sa mạc, với những dự án phát triển sản xuất lớn, tới Khorobrykh trẻ tuổi quyết mang hết sức mình ra tìm cách làm con đường đi tới Kara-Bugaz, và với đội ngũ trùng trùng điệp điệp những con người say mê làm giàu cho Tổ quốc, Kara-Bugaz đã trở thành một khu liên hiệp công nghiệp hóa chất với một vành đai công nghiệp lớn bao quanh. Và đầm lầy Kolkhida đã biến thành một vùng đất trồng trọt phì nhiêu, xanh tốt, thành đất vàng đầu bạc tràn đầy khí trời và ánh nắng dưới bàn tay lao động cần cù sáng tạo của một lớp người dũng cảm ngoan cường, như Gabunia, người ký sự đào kênh tưới nước, như Kahiani, nhà cải tạo chất đất, như Pakhomov, người tìm cách làm khô cạn đầm lầy bằng phương pháp bồi lắng, như Nevskaya, nữ kỹ sư ươm cây nhiệt đới... Trong Kara-Bugaz và Kolkhida những chủ đề Tuổi trẻ, Khoa học và Ước mơ luôn luôn là ba người bạn đồng hành thân thiết. Là nhà văn của những chân trời xa, Paustovsky đã dẫn người đến với một Kara-Bugaz trong giai đoạn công nghiệp hóa Liên bang Xô-viết, với một Kolkhida đã thực sự trở thành một thiên nhiên mới đối với những người lao động tự do. Theo Paustovsky, bản chất của cách mạng là sáng tạo và ước mơ: «Tính lãng mạn đầy sinh khí đi cùng đường với cách mạng và xây dựng... Nếu không được ánh sáng lãng mạn chiếu rọi, chủ nghĩa thực dụng sẽ chết cứng» . Nhận thức văn học là bông hoa của lòng kiên trì và tình yêu cuộc sống, Paustovsky đã coi sáng tác của nhà văn là việc gom góp bụi vàng của người quét bụi để đúc nên bông hồng vàng. Với ý nghĩ đó, Kara-Bugaz và Kolkhida cũng chính là những bông hồng vàng xinh xắn mà Paustovsky đã đúc nên bằng những hạt vàng do ông kiên trì thu lượm trong đời đề tặng lại cho đời. Những tác phẩm hay bao giờ cũng làm cho người ta thêm yêu đời, chắp cánh cho tâm hồn bạn đọc và hướng dẫn bạn đọc đến với cái đẹp của thực tế cuộc đời. Xin thân ái gửi các bạn một sáng tác của Paustovsky - mà với nó Paustovsky có quyền vui sướng, vì theo ông: «Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường vào cái đẹp, của người biết đi tới tương lai, nơi nhân dân dốc hết sức hy vọng của mình để vươn tới» - và chúc các bạn lập nhiều chiến công. Hà Nội, tháng 6 năm 1978, Nhà xuất bản Thanh Niên     Ghi chú [1] Kara-Bugaz: nghĩa là Mõm Đen không bao giờ đã khát (tiếng Armenia). Chúng tôi xin đổi tên truyện này là Vịnh Mõm Đen (Nhà xuất bản và người dịch). ***   Mời các bạn đón đọc Vịnh Mõm Đen của tác giả Konstantin Paustovsky.