Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Biệt Berlin

Nước Đức trước thềm Thế chiến Hai, qua con mắt tinh tường và giọng kể điềm nhiên của Christopher Isherwood, hiện lên thật sống động với những quán bar đêm, với nhạc jazz, chất cồn và tình ái. Nhưng chua chát thay, ẩn sau đời sống phóng túng thơ mộng ấy là dự cảm chẳng lành về cái kết kề cận, là mầm mống suy đồi và bạo lực chực chờ bùng nổ. Chân thực khắc họa sự chuyển mình khốc liệt của cả một dân tộc, Từ Biệt Berlin đúng như tên gọi của nó, là lời giã từ cay đắng, là khúc bi ca trầm mặc cho sự điêu tàn của cả một thời đại hào hoa. “Bức phác họa xuất sắc về một xã hội trên đà thối rữa.” - George Orwell “Đọc tiểu thuyết này giống như nghe trộm chuyện phiếm trong một quán bar đông người trong khi lịch sử sốt ruột đập ầm ầm ngoài cửa sổ.” - The Guardian *** Từ biệt Berlin: Sự mất mát bị lãng quên 26/04/2020 - Hiền Trang “Tôi vẫn luôn giữ một chiếc rương ở Berlin”, nàng ca sĩ Marlene Dietrich từng viết trong một nhạc khúc nổi tiếng của mình. Sống cùng thời với Dietrich, văn sĩ người Mỹ gốc Anh Christopher Isherwood – người mà Somerset Maugham từng nhận xét với Virginia Woolf rằng: “Chàng trai trẻ này sẽ nắm giữ tương lai của tiểu thuyết tiếng Anh trong tay mình” – chuyển đến Berlin vào thập niên 30 theo tiếng gọi của tự do, và kể từ những áng văn của ông về thành phố, một lớp văn sĩ viết về Berlin ra đời. Kế hoạch ban đầu của Isherwood là viết một cuốn tiểu thuyết công phu nhiều tập về thủ đô nước Đức. Cuốn tiểu thuyết này thậm chí đã được đặt trước một cái tên: The lost – tạm dịch là Điều đã mất, như ám chỉ một nước Đức đã mất, một nước Đức  bị xa lánh và cô lập bởi phần còn lại của Âu châu đầu thế kỷ 20, thế nhưng như trong cuốn tự truyện về sau này, Isherwood thú nhận rằng “Tôi bí quá. Tôi không thể nào viết xong The lost.” Và cuối cùng, cuốn đại tiểu thuyết ban đầu được thu gọn lại thành những mẩu chuyện rời rạc, bao gồm một cuốn tiểu thuyết nhỏ mang tên Mr Norris changes trains cùng sáu mẩu truyện vừa tập hợp lại thành Goodbye to Berlin (Từ biệt Berlin theo bản dịch tiếng Việt của Duy Đoàn, do Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn phát hành). Và có đôi khi, những chân dung loang lổ, những hình thù lốm đốm lởn vởn và những chuyện phiếm lan man dang dở lại nói nhiều hơn là cả một toàn tập hay một biên niên sử nào. Bởi chúng không có hoài bão bảo tồn quá khứ, tái hiện lịch sử, cũng không có ý định trở thành một bản điếu văn cho những hào hoa đã thất lạc, chúng chỉ tồn tại để chứng minh rằng, tất cả những điều đó đã từng ở đây, song đã ở lại mãi mãi cùng những năm tháng ấy. “Tôi là cái máy ảnh với màn trập mở, hết sức thụ động, ghi hình, chứ không suy tư. Ghi hình người đàn ông đang cạo râu ở cửa sổ đối diện và người đàn bà vận kimono đang gội đầu. Một ngày nọ, toàn bộ cảnh này sẽ phải được rửa, được in ra cẩn thận, được treo lên.”, Isherwood viết trong những đoạn mở đầu. Hitler không phải kẻ duy nhất đánh cắp mất Berlin và biến Berlin thành một nơi quái gở. Tự thân những con người từng trú chân ở đó, khi họ ra đi, họ cũng đã mang giữ theo mình một phần của Berlin, một phần không bao giờ còn quay trở lại. Đọc Từ biệt Berlin quả giống như lật một cuốn album ố vàng mà trong đó mỗi tấm ảnh là một khoảnh khắc đóng băng, lắng cặn và được phong kín bởi thời gian, là chuỗi những lần chớp sáng đứt đoạn và không liền mạch. Sáu câu truyện nối lỏng lẻo với nhau bằng một đường dây kéo dài là giọng kể của nhân vật “tôi” – một chàng trai nuôi mộng trở thành tiểu thuyết gia mang tên Christopher Isherwood – và mỗi câu truyện là một đoản khúc xoay quanh những con người đột nhập vào cuộc sống của anh, hay đúng hơn là anh đã đột nhập vào cuộc sống của họ. Nhưng chớ nhầm! Nhân vật “tôi” dù là Christopher Isherwood đó, nhưng đồng thời cũng lại chẳng phải là tác giả Christopher Isherwood, dù rất dễ dàng để ta chập hai thực thể đó vào làm một. “Christopher Isherwood chỉ là một con rối tiện lợi của nghệ sĩ nói tiếng bụng”, tác giả giải thích về cái tên trùng lặp. Và chính ở đây, từ sự nhập nhằng giữa danh tính ngoài đời và danh tính trên trang viết, Isherwood đã làm một cuộc khai sinh ra thứ tiểu thuyết phi hư cấu. Đa số độc giả văn chương vẫn lấy tiểu thuyết In cold blood (theo bản dịch tiếng Việt là Máu lạnh) của Truman Capote xoay quanh vụ giết người ở vùng nông thôn Kansas làm cột mốc ra đời của faction, dòng văn học phi hư cấu. Thế nhưng, từ trước khi Capote gần ba thập kỷ, Christopher Isherwood đã có những bước đi thử nghiệm thể loại này với Từ biệt Berlin. Capote có được gợi ý từ Isherwood hay không? Thật khó mà nói được. Nhưng hai người đúng là có quen nhau, thậm chí là những người bạn vong niên thân thiết, chơi chung một hội nhóm gồm những văn tài, cùng từng tán tỉnh một chàng điếm, cùng trao đổi qua lại nhiều thư từ, và nàng “Geisha nước Mỹ” Holly Golightly trong tiểu thuyết ngắn Bữa sáng ở Tiffany của Capote, nhân vật đã được bất tử hóa qua sự nhập vai của huyền thoại Audrey Hepburn, được lấy cảm hứng từ nàng diễn viên hạng xoàng phóng túng mà ngây thơ, yêu kiều mà đồng bóng Sally Bowles trong Từ biệt Berlin. Lách mình qua những ngõ ngách, náu ẩn nơi những quán rượu, những xóm ổ chuột, những nhà trọ và nhà thương khắp Berlin, Christopher Isherwood ký họa lại buổi tà dương của một thời đại trước sự trỗi dậy của Hitler và quân Phát xít mà không đem theo một chút phán xét, chỉ gợn lên những niềm luyến nhớ âm ỉ về những con người và những cuộc ly biệt liên miên. Không phải lúc nào ta cũng bắt gắp một nước Đức với nỗi buồn – nhưng là nỗi buồn khinh khoái và phớt tỉnh, một nước Đức không cừu hận, không hổ thẹn, không cắn rứt, không tội lỗi hay gồng gánh lương tâm, như ở đây. Hitler khi ấy vẫn chỉ là một ẩn số, và những dự cảm chẳng lành về cơn thủy triều tàn khốc đang dâng lên vẫn còn nằm mấp mé ngoài xa, đang trực sầm sập ập vào nhưng dẫu sao, hẵng còn đủ thời giờ để người ta làm mộ bia cho những con dơi, bầy chim và lũ thỏ, vẫn còn kịp để một người cố gắng cứu vãn mình khỏi niềm cô đơn cố hữu, để một cô diễn viên cho phép mình dây dưa với một tay lừa đảo non choẹt bị tâm thần, để một cậu choai choai đêm đêm đi khiêu vũ và đong đưa kiếm tiền mua áo khoác, để những đám người vầy mình trong những cuộc vui, những cuộc say, những cuộc ghen tuông, những cuộc khẩu chiến vô ý nghĩa. Nhân vật Isherwood ôn lại quá khứ không phải trong tư thế một kẻ cuồng tín muốn được mục ruỗng và tan rã cùng quá khứ (kiểu anh chàng biên kịch Gil Pender trong Midnight in Paris). Quá khứ không hẳn là chốn tươi đẹp nhất, vẫn có đó những giây lát mà anh muốn nhoài mình khỏi bối cảnh, những thoáng chốc trong buổi chạng vạng anh cảm thấy như sắp bị vồ lấy bởi những bóng người vô hại nhất, những ứ đọng chật chội khiến anh muốn tháo chạy thật nhanh. Và những con người rẽ ngang qua anh, họ rời Berlin mà không mơ ngày trở lại, họ đánh mất Berlin mà không đoái hoài đến sự mất mát, không vận một chút lực nào để trì níu, hoặc là những gì họ để mất ẩn hình và phi trọng lượng, khiến họ chuội đi vào những hiện tại tiếp nối mà không có lấy một ma sát nào để giữ họ chậm bước ngoái đầu nhìn lại. Berlin, sau rồi, chỉ là một nhà ga trung chuyển nơi mỗi lần gặp gỡ cũng là một lần rũ bỏ. Lách mình qua những ngõ ngách, náu ẩn nơi những quán rượu, những xóm ổ chuột, những nhà trọ và nhà thương khắp Berlin, Christopher Isherwood ký họa lại buổi tà dương của một thời đại trước sự trỗi dậy của Hitler và quân Phát xít mà không đem theo một chút phán xét, chỉ gợn lên những niềm luyến nhớ âm ỉ về những con người và những cuộc ly biệt liên miên. Ở phần cuối câu chuyện về Sally Bowles, cô diễn viên sau khi đáp xuống Rome đã gửi tấm bưu thiệp và hứa hẹn sẽ viết thư cho Isherwood vào một hay hai ngày nữa. Nhưng ngày đó không bao giờ đến. Không một lá thư nào theo sau, cho đến khi câu chuyện được ghi lại, đã là sáu năm hoàn toàn bặt vô âm tín. Liên lạc là mối nối kém bền chắc nhất trên đời. Đến lượt mình, Christopher Isherwood cũng nói lời chia biệt Berlin. Thời điểm đó, sĩ khí của quân Quốc xã đã lên cao và dù Mặt trời vẫn rạng rỡ như hôm qua và những thị dân vẫn chờ ở ga Nollendorfplatz như lẽ thường, thành phố đã thuộc về Hitler và không bao giờ còn là nó như đã từng được nữa. Nhưng Hitler không phải kẻ duy nhất đánh cắp mất Berlin và biến Berlin thành một nơi quái gở. Tự thân những con người từng trú chân ở đó, khi họ ra đi, họ cũng đã mang giữ theo mình một phần của Berlin, một phần không bao giờ còn quay trở lại. Muốn hay không, Berlin thuở đó đã suy tàn. Cuộc hội đã kết thúc. Những ký ức, nếu vẫn cố thủ hay rơi rớt, chỉ còn được đóng gói trong “một chiếc rương” nương náu ở Berlin. *** Bản trần thuật đầy mục ruỗng của Berlin trước thế chiến 2 Thứ hai, 6/5/2019  “Bóng ma” chủ nghĩa quốc xã lan rộng, những giá trị bị đảo lộn, những mối thân tình bị bỏ mặc hoặc lãng quên, rời bỏ Berlin là lối thoát duy nhất. Từ biệt Berlin của Christopher Isherwood nằm đâu đó giữa một cuốn nhật ký chân thực và một tiểu thuyết văn chương hư cấu, hé mở và phơi lộ một xã hội từng hào hoa nay đã biến mất. Cái tên ban đầu mà Isherwood lựa chọn cho cuốn sách không phải là Từ biệt Berlin (Goodbye to Berlin) mà là The Lost, để chỉ cái đã chết, đã mất đi, đã vĩnh viễn không còn nữa. Cái tên nghe có vẻ “khoa trương” (lời của tác giả) và chung chung đó cuối cùng đã được đổi lại thành Từ biệt Berlin; nó gắn với một địa danh (thậm chí là một mốc thời gian nhất định): Berlin - thủ đô nước Đức, và nó còn gắn với hành động cụ thể: một lời giã biệt. Bản trần thuật đầy thanh âm mục ruỗng Từ biệt Berlin bao gồm sáu truyện ngắn nối kế nhau ơ hờ, thoát thai từ những trang nhật ký cùng những bản phác thảo của Christopher Isherwood. Ở đó, tác giả tự nhận mình là "cái máy ảnh với màn trập mở, hết sức thụ động, ghi hình, chứ không suy tư"; và “chỉ là một con rối tiện lợi của nghệ sĩ nói tiếng bụng, chứ không phải một gì khác”. Tuy nhiên, sáu truyện ngắn này lại kết nối một cách liền mạch, mỗi truyện là một mảnh ghép tạo nên một chương rất quan trọng trong cuốn tiểu thuyết đầy suy tư, trước một thực tại đang dần tan biến không gì có thể vãn hồi. Từ biệt Berlin mở ra bằng “một bản nhật ký”, với những gì vui tươi và sinh động nhất của những con người đủ mọi quốc tịch, mọi ngành nghề với thiên hướng, sở thích, lối sống đa dạng tụ họp lại ở Berlin. Isherwood vào vai chính mình, gặp gỡ và kết thân với những con người xa lạ đó rồi trần thuật lại câu chuyện, với vai trò là chứng nhân. Chương đầu tiên là một thế giới vẫn còn tươi sáng, ở đó có bà chủ nhà trọ hiểu chuyện đời và dễ mến, có nhân viên quán bar tính tình dễ chịu; có giọng ca nhạc jazz xuất sắc và có cô gái điếm nhưng vẫn sống hết sức tử tế. Tuy nhiên, từ chương thứ 2 Sally Bowles trở về cuối cuốn sách, cái đẹp dần biến mất, màu sắc tươi sáng dần thay thế cho những thực tế phũ phàng, những nhân vật tốt đẹp dần biến chất, những nhân vật mới có nét bí ẩn, u uất riêng. Tiểu thuyết gia là một người kể chuyện trung thực, không đóng vai quan toà - phán xét hay bào chữa cho những nhân vật đại diện trong truyện. Anh chỉ đơn giản là kể lại, để từ đó dần lộ ra những thứ vốn phải hé lộ. Và cuối cùng cái gì đến cũng phải đến, “bóng ma” chủ nghĩa quốc xã lan rộng, những giá trị bị đảo lộn, những mối thân tình bị bỏ mặc hoặc lãng quên, rời bỏ Berlin là lối thoát duy nhất. Từ biệt Berlin vốn chân thực và hấp dẫn đến vậy là bởi vì Christopher Isherwood từng có 4 năm sống tại Berlin, Đức (1930 - 1933). Đó chính là chất liệu để anh tạo nên một bản trần thuật đầy thanh âm mục ruỗng, dù đã cố tình che đậy bằng giọng văn trung tính, lạnh nhạt và có phần dửng dưng trong suốt cuốn tiểu thuyết. Chủ nghĩa quốc xã và dấu ấn tha nhân Điều khiến người đọc say mê với Từ biệt Berlin không chỉ nằm ở bản thân câu chuyện hấp dẫn, văn phong điềm nhiên có phần lạnh lùng đầy chất anh hùng mà những “mã” nhận biết dẫn dụ: “Chủ nghĩa quốc xã” và “dấu ấn tha nhân”. Dòng tiểu thuyết về chủ nghĩa quốc xã vốn luôn khiến người đọc tò mò để rồi đau đớn trước thực cảnh bạo tàn và thống khổ. Từ biệt Berlin mang đến cho người xem một tầm nhìn trước cảnh thống khổ đó nhưng không kém phần đau đớn. Hai truyện ngắn và cũng là hai chương sách Nhà Nowak và Nhà Landauer đã xuất sắc lột tả được sự khốn cùng của những con người sống tại Berlin thời đó. Nếu như chương Nhà Nowak phơi bày sự khốn cùng của những con người cùng đáy xã hội, sống vật vờ, những giá trị đạo đức bị đảo lộn, mái ấm gia đình trở thành nơi bề bộn và tù ngục; thì chương Nhà Landauer là mở đầu cho chuỗi những ngày đau đớn của người Do thái, không chỉ tại Berlin, nước Đức mà còn trên toàn thể châu Âu sau này. Tình dục cũng là một trong những mối tò mò và quan tâm của độc giả về Isherwood nói chung, cuốn tiểu thuyết nói riêng. Christopher Isherwood thừa nhận một cách thẳng thắn là người đồng tính, nhưng đó là chuyện của sau này. Chính vì thế, mối tình dị tính tưởng tượng giữa “Isywoo” (cách nhân vật chủ nhà trọ Schroeder gọi Isherwood) và nhân vật Sally khiến không ít độc giả bất ngờ. Tuy nhiên, dù cố gắng thế nào, Christopher Isherwood vẫn để lộ “sơ hở” với thiên hướng tính dục của mình trong Từ biệt Berlin. Đó không chỉ là cách trò chuyện, sự gắn kết, mối thân tình của Isherwood đối với những nhân vật nam trong truyện thường mang những mối gắn kết lạ kỳ với giọng văn cảm mến và nhẹ nhõm hơn, mà còn ở mối quan hệ hiển rõ giữa Otto và Peter trong sách. Trên tất cả, Từ biệt Berlin còn mang dấu ấn dòng văn chương của những nhà văn là tha nhân. Dù hoà hợp với Berlin, dù kết giao thân thích với đủ hạng người tại đây, nhân vật "tôi" (chính là Isherwood) vẫn luôn cảm thấy xa lạ, khó hiểu, mâu thuẫn. Những dịch chuyển của nhân vật "tôi" dường như khá liên tục, và dường như không thuộc về vùng đất này. Christiopher Isherwood từng chia sẻ: “Với một nhà văn như tôi, vấn đề chưa bao giờ nằm ở việc ‘đồng tính’, mà là vấn đề của việc là một tha nhân, vấn đề nhìn nhận mọi thứ từ góc độ xiên lệch. Nếu đồng tính trở thành một điều bình thường thì nó không còn là đề tài gây hứng thú cho tôi". Christopher Isherwood là một tiểu thuyết gia, nhà viết kịch nổi tiểng. Ông cũng được biết đến là một người đồng tính nam với nhiều tác phẩm được viết trên chủ đề này. Isherwood sinh ra tại miền bắc nước Anh vào năm 1904 và trở thành công dân Mỹ kể từ năm 1946. Ông qua đời vào năm 1986 tại nhà của mình tại ở Santa Monica, California. Tạm biệt Berlin (1939) cùng Mr. Morris Changes Trains nằm trong bộ tiểu thuyết chung có tên The Berlin Stories ra mắt lần đầu vào năm 1945, lọt vào top 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thể kỷ 20 do Times bình chọn. Từ Biệt Berlin được chuyển thể thành vở kịch I Am A Camera bởi đạo diễn John Van Druten. 15 năm sau vở kịch được chuyển thể thành nhạc kịch nổi tiếng Cabaret. Trước khi Từ biệt Berlin xuất hiện tại Việt Nam, Christopher Isherwood ít nhiều được biết đến qua tiểu thuyết về đề tài đồng tính có tên A Single Man với 2 bản dịch Người cô độc (Youth Book, 2012) và Một con người (Tao Đàn, 2018). Nhà thiết kế thời trang nổi tiếng Tom Ford từng chuyển thể cuốn sách này thành bộ phim điện ảnh cùng tên vào năm 2009.   Mời các bạn đón đọc Từ Biệt Berlin của tác giả Christopher Isherwood & Duy Đoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con gái mẹ kế là bạn gái cũ của tôi Tập 1 - Kamishiro Kyousuke
Tên Khác: 継母の連れ子が元カノだった ; Con gái của mẹ kế là bạn gái cũ của tôi ; Tsurekano ; Đứa con mà mẹ kế dẫn về từng là bạn gái cũ ; 继母的拖油瓶是我的前女友 Tóm Tắt: Thời học trung học, Idori Mizuto và Ayai Yume tình cờ quen nhau và trở thành người yêu của nhau. Nhưng vì vài biến cố nhỏ nhặt mà tình yêu của hai người đành phải kết thúc. Cái kết thúc đó chưa được bao lâu thì ba của Mizuto và mẹ của Yume lại tái hôn với nhau. Liệu bánh xe định mệnh có lại đưa hai người quay về với nhau? ***   Mời các bạn đón đọc Con gái mẹ kế là bạn gái cũ của tôi Tập 1 của tác giả Kamishiro Kyousuke Người đăng: nguyentrinhan2008
Người Đàn Ông Lý Tưởng
Bác sĩ Ellie Sullivan vừa hoàn thành giai đoạn bác sĩ nội trú ở một bệnh viện lớn trong thành phố. Trong khi đang chạy bộ trong công viên gần đó, cô đã chứng kiến một vụ nổ súng vào một nhân viên FBI đang truy đuổi những tội phạm bị truy nã, một cặp đôi được xác định là vợ chồng Landrys. Là người duy nhất nhìn thấy mặt kẻ nổ súng, Ellie đột nhiên trở thành trung tâm của một cuộc điều tra hình sự. Đặc vụ Max Daniels nhận vụ Landrys. Là một sĩ quan cục cằn, anh chắc chắn không phải là người đàn ông lý tưởng mà Ellie đã luôn tưởng tượng, nhưng cô bị anh hấp dẫn đến không hiểu nổi. Ellie trở về nhà ở Winston Falls, Nam Carolina, để tham dự đám cưới em gái. Ngay sau khi tới nhà, cô nhận ra một vị khách mời bất ngờ: Max Daniels. Cặp đôi Landrys đã bị bắt, và cô sẽ được gọi ra để làm chứng. Nhưng trước đó, mỗi lần hai người này bị bắt, các nhân chứng đều sợ hãi im lặng hoặc biến mất trước khi có thể dự phiên tòa. Max thề sẽ là cái bóng của Ellie cho đến khi xong phiên tòa, không lâu trước khi anh cũng bị thu hút bởi cô. *** Đôi điều về tác giả: Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. *** Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle Người Đàn Ông Lý Tưởng Shadow Music   Khát Vọng Nổi Loạn Âm Điệu Bóng Đêm Vì Những Đóa Hồng - Julie Garwood *** Ellie không được lựa chọn để đến Honolulu hay là ở nhà. Đặc vụ Goodman đã gọi điện cho cô và giải thích rằng anh và cô sẽ bắt chuyến bay đến đó trong bốn ngày. Anh ta tin nên cho Ellie có nhiều thời gian hơn để thông báo cho bệnh viện biết cô sẽ vắng mặt ở đó trong ít nhất là một tuần, hoặc có lẽ là hai tuần cũng nên. “Nếu tôi từ chối đi thì có vấn đề gì không?” cô hỏi. “Tại sao cô phải từ chối đi đến một trong những thành phố đẹp nhất thế giới nhỉ?” Sean hỏi. “Nhưng nếu tôi vẫn cứ từ chối thì sao?” cô nhấn mạnh. “Công tố viên sẽ ra văn bản và ép buộc cô đi. Cô không muốn bà ta thực hiện những thủ tục giấy tờ đó chứ?” Cô thật sự không có lựa chọn. Nói với bệnh viện việc nghỉ phép này hóa ra không quá khó khăn, nhưng nhìn vào tủ đồ để thu xếp hành lý lại là một nỗi đau khổng lồ. Ellie không có đủ quần áo trong tủ đồ của mình để mặc trong một tuần, nói chi đến hai tuần trên một hòn đảo. Đồ tắm của cô – cái cô có thể tìm thấy – cũng đã có “tuổi đời” ít nhất mười năm rồi. Cô đã sống trong mấy bộ đồ vô trùng, không xà-rông và những bộ váy ngắn in hoa hòe. Nuốt xuống sự kiêu hãnh của mình, cô gọi cho Ava và giải thích tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình. Em gái cô vừa mới trở về từ tuần trăng mật, nên nó khá dễ chịu, và nó thích làm cho Ellie “mắc nợ” mình. Sau khi phàn nàn về hình dáng bất thường của Ellie – rằng cô phù hợp với size 6 vì bộ ngực của cô – nó đã chớp lấy cơ hội để đưa ra lời khuyên với cô. Ava bảo với cô rằng cô có một thể hình được trời ưu đãi nhưng nên suy nghĩ tới chuyện giảm vòng một. “Em đang đùa đấy à?” “Chị sẽ mặc vừa size 4 nếu chị làm thế,” Ava nói. “Nhưng như vậy thì sẽ như một ma-nơ-canh ấy.” “Thì chỉ có ma-nơ-canh mới được mặc quần áo đẹp” “Chị gác máy đây.” “Không, không, đừng làm thế. Em không thể giúp được gì nếu chị không chịu nghe góp ý. Em sẽ tới cửa hàng và gởi mọi thứ chị cần, mọi thứ trừ đồ lót và áo ngủ, vì thế sẽ tốn một ít tiền để mua đấy. Em biết chị trả được mà. Mẹ nói chị đã trả hầu hết các khoản nợ vay từ tiền giải thưởng và chị cũng đã gởi 20.000 đô vào tài khoản gia đình. Ba mẹ đã tranh cãi nhau vì chuyện đó bởi ba không muốn nhận nó, nhưng cuối cùng mẹ thắng và nói số tiền dó sẽ dành cháu ngoại của họ.” “Sao ba mẹ biết tin họ sẽ là ông bà ngoại vậy?” cô hỏi. “À, chị biết không. Họ đã rất sốc bởi vì đó là đứa sinh đôi dễ thương nhất.” Ellie cười. “Còn bây giờ?” “Rất vui mừng,” cô nói. “Ba đang tìm một cái giường cũi.” “Ôi trời, đừng để ông ấy tìm thấy một cái giường giảm giá nhé. Hãy bảo ông ấy mua một cái đàng hoàng vào.” Họ nói về Annie và những trợ giúp trong lúc con bé mang thai, sau đó Ellie nói, “Chị rất vui vì được em giúp vấn đề quần áo. Gởi chị hóa đơn nhé.” “Đừng quên mua giày nữa nhé, Ellie. Và vì Chúa, cả những phụ kiện nữa. Những đôi xăng đan nhỏ có quai hậu và đế bằng sẽ hợp với mấy bộ đồ em sẽ gởi cho chị. Em cũng sẽ gởi cho chị vài bộ vòng đeo tay và bông tai dễ thương. Với lại, Ellie này, hãy hứa với em chị sẽ mặt bộ váy ngắn màu lam sẫm em sẽ gởi cho chị nhé. Em sẽ tìm nó bây giờ đây. Chị sẽ rất đẹp cho mà xem. Hứa đi.” “Okay,” cô nói. “Chị hứa… trừ khi nó quá‘khêu gợi’.” ... Mời các bạn mượn đọc sách Người Đàn Ông Lý Tưởng của tác giả Julie Garwood.
Sự Nổi Loạn Dịu Dàng
Bạn nào đã theo dõi tập thứ hai trong Series Malory này từ bên phòng đọc trực tuyến thì hẳn đã biết nội dung câu chuyện về Anthony Malory và Roslynn Chadwick này rồi, còn bạn nào chưa thì mình hi vọng các bạn sẽ thích. Anthony là nhân vật nam mình yêu quý nhất trong series này. Vì là lần đầu làm ebook nên mình còn nhiều thiếu sót, mong các bạn thông cảm.Dưới đây mình xin bổ sung thêm một đoạn review của truyện. Nữ thừa kế người Scot Roslynn Chadwick cần tới sự bảo đảm của hôn nhân để bảo vệ nàng khỏi người anh họ vô liêm sỉ. Khi nàng gặp Anthony Malory, một quý tộc người Anh với sức hấp dẫn không thể cưỡng lại cùng đôi mắt xanh biển đầy nhục cảm nói lên sự vui sướng vô hạn. Làm sao nàng lại dám nghĩ tới chuyện yêu một người đàn ông như thế, khi bản thân nàng tin tưởng rằng những hứa hẹn đam mê của anh sẽ chỉ dẫn nàng tới vương quốc của những điều không hê bền vững….và tới cả những đáy sâu không bao giờ có thực của tình yêu. Tác phẩm thứ hai của Johanna Lindsey trong Malory Series, những câu chuyện tình yêu lãng mạn về những thành viên của một gia tộc đầy gắn bó. “ Những câu chuyện của bà là minh chứng cho sự vĩnh cửu của tình yêu. Lindsey đã thổi vào từng trang câu chuyện nguồn nhục cảm không bao giờ khô cạn. Người đọc gần như có thể ngửi thấy mùi hương của những đóa hoa, cảm nhận được làn gió, và chạm vào cả người anh hùng của mình.” _Romantic Times_ *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu - Johanna Lindsey Nơi Em Thuộc Về - Johanna Lindsey Trái Tim Hoang Dã Chỉ Một Tình Yêu Ngọn Lửa Mùa Đông Trái Tim Đam Mê Đầu Hàng Tình Yêu Của Tôi Đánh Cắp Khát Khao Em Không Lựa Chọn Nhưng Quyến Rũ Tia Sét Hoang Ai Đó Hoàn Hảo The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Anh quốc, năm 1818 - “Mình đang sợ sao, ngốc thật?” Roslynn Chadwick quay khỏi cửa sổ chiếc xe ngựa và thôi nhìn những cảnh vật lướt qua trong một giờ vừa rồi, mà nàng thực sự cũng không để tâm nhìn chúng. Sợ hãi ư? Giờ thì nàng chỉ còn một mình cô đơn trên đời, không gia đình, cũng không ai che chở đáng để nhắc tới. Lo sợ? Nàng đã cảm thấy lo sợ. Nhưng Nettie MacDonald đã không biết được điều đó, không nếu nàng có thể che dấu nỗi sợ ấy. Bản thân Nettie đã quá lo lắng rồi, kể từ khi họ băng qua biên giới nước Anh sáng ngày hôm qua, mặc dù bà đã cố gắng che dấu bằng cách càu nhàu suốt, theo cách của bà. Nettie trước đây rất vui vẻ và hoạt bát, kể cả khi họ đi ngang qua Lowlands (vùng đất thấp của người Scot), nơi mà bà rất khinh bỉ. Bà là một người vùng Highlands trong cả 42 năm cuộc đời, Nettie chưa bao giờ nghĩ tới cái ngày mà bà phải rời bỏ vùng đất cao nguyên bà yêu quý một mình tới nước Anh. Anh Quốc! Nhưng Nettie sẽ không bị bỏ lại đằng sau, không phải Nettie yêu quý của nàng. Roslynn mỉm cười cho lợi ích của Nettie, và thậm chí còn hấp háy đôi mắt nâu lục nhạt của nàng để đoan chắc với bà: - Ôi, sao mà cháu phải sợ chứ nhỉ, Nettie? Không phải chúng ta đã xoay sở trốn được khỏi đó vào lúc nửa đêm mà không có cách nào khôn ngoan hơn sao? Geordie nhất định sẽ mất hàng tuần để tìm kiếm ở Aberdeen hay Edinburg và không bao giờ có thể đoán ra là chúng ta bỏ trốn tới London. - Đúng là hắn ta sẽ làm vậy. Nettie mỉm một nụ cười thỏa mãn cho thành công của họ, phút chốc quên mất nỗi sợ hãi và căm ghét người Anh của mình. Nỗi căm ghét của bà đối với Geordie Cameron đã trở nên quá sâu sắc. - Và cô hi vọng tên khốn đó sẽ nghẹt thở vì cái tính hằn học của mình khi hắn nhận ra là cháu đã thoát khỏi cái kế hoạch ngu ngốc của hắn, đúng là cô mong thế. Cô đã không thích Duncan, chúa phù hộ cho ông ta, bắt cháu hứa điều mà cháu ghét, nhưng ông ta biết điều gì là tốt cho cháu. Và cũng đừng nghĩ rằng cô là một người phiền toái, cô không nghe nổi khi cháu quên thứ tiếng Anh chuẩn của cháu, con gái, cũng do Duncan đã đưa tới một ông thầy hợm hĩnh để dạy cho cháu. Cháu sẽ không quên, đặc biệt là giờ chúng ta đang ở giữa những tên họ hàng quỷ quyệt. Roslynn cười toe toét khi câu nói cuối cùng của Nettie được nói ra với hàm ý trách móc nhất, và không thể nhịn được việc trêu chọc bà thêm chút nữa : - Việc cháu gặp được một người Anh nhất định sẽ khiến cháu sớm nhớ ra thứ tiếng Anh chuẩn của mình. Giờ thì cô sẽ không từ chối cho tôi một chút thời gian còn lại khi cháu không cần phải nghĩ về tất cả những gì cháu nói, đúng không ? - Được rồi, nhưng chỉ khi cháu biết là cháu không quên chút nào thôi, và cháu cũng biết cô không quên rồi. Dĩ nhiên là Nettie biết. Đôi lúc Nettie còn hiểu rõ Roslynn hơn cả bản thân nàng. Và khi Roslynn không giận dữ, mỗi khi giận dữ nàng thường quên mất bản thân mình và dùng lại chất giọng địa phương của người Scot mà nàng đã học từ Nettie và ông ngoại, nàng vẫn có lý do để buồn phiền. Nhưng vẫn không khiến nàng quên được thứ tiếng Anh chuẩn đã ăn sâu vào nàng bởi gia sư của nàng. Roslynn thở dài : - Cháu hi vọng va li của chúng ta đã tới đó, nếu không thì chúng ta sẽ ở vào hoàn cảnh đáng buồn.   Họ đã rời đi chỉ với một bộ quần áo để thay đổi, để dễ đánh lừa anh họ của nàng Geordie, đề phòng trường hợp ai đó nhìn thấy họ rời đi và báo với anh họ nàng. - Đó là điều cuối cùng cháu nên lo, con gái ạ. Chắc chắn là thế và điều đó cũng đã tiết kiệm thời gian khi mời mấy bà thợ may váy áo tới lâu đài Cameron để may tất cả những cái váy dễ thương đó cho cháu, mấy thứ mà cháu chẳng thể mặc vừa khi chúng ta tới đó. Duncan, chúa phù hộ ông ta lần nữa, đã suy tính mọi thứ, kể cả việc gửi tới trước những cái va li, từng thứ một, những thứ mà Geordie không nghi ngờ gì nếu có nhìn thấy. Và Nettie từng nghĩ nó giống như một trò đùa khi chạy trốn vào lúc giữa đêm như họ đã làm, với những chiếc váy được kéo lên và quần ống túm ở bên dưới để dưới ánh trăng trông họ như những người đàn ông nếu nhìn thoáng qua. Thành thực là Roslynn cũng đã từng nghĩ giống vậy. Thực tế đó là phần duy nhất trong cuộc chạy trốn điên khùng này làm nàng hứng thú. Họ đã cưỡi ngựa tới thị trấn gần nhất nơi đã có xe ngựa và người đánh xe chờ sẵn, rồi đợi một vài giờ để chắc chắn họ không bị đuổi theo trước khi thực sự bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng tất cả mọi sự lén lút và phiền phức đó đều cần thiết để thoát khỏi Geordie Cameron. Ít nhất thì ông nàng cũng đã khiến Roslynn tin rằng điều đó là cần thiết. Và Roslynn tin điều này sau khi nhìn thấy gương mặt của Geordie khi di chúc của ông được đọc. Sau tất cả, Geordie là cháu trai lớn nhất của Duncan Cameron, cháu trai của người em trai út của ông, cũng là người họ hàng nam duy nhất của ông còn sống. Geordie có mọi quyền lợi để thừa kế một vài thứ trong số của cải khổng lồ của Duncan để lại cho hắn, cho dù chỉ là một phần nhỏ. Nhưng Duncan để lại tất cả mọi thứ cho Roslynn, người cháu duy nhất : lâu đài Cameron, tiền bạc, những công việc kinh doanh nhiều vô kể, mọi thứ. Và Geordie đã rất cố gắng để kiềm chế một cơn giận khủng khiếp. - Chắc hẳn là hắn ta đã rất bất ngờ - Nettie nói sau cái ngày Geordie rời đi khi bản di chúc được công bố - Hắn biết là Duncan ghét hắn, ông đổ lỗi cho hắn vì cái chết người mẹ yêu dấu của cháu. Đó là lý do tại sao hắn lại ve vãn cháu một cách sốt sắng như vậy trong những năm qua. Hắn đã biết Duncan sẽ để lại mọi thứ cho cháu. Và đó cũng là lý do tại sao chúng ta không còn thời gian nữa, giờ khi Duncan đã mất. Đúng vậy, không còn thời gian nữa. Roslynn đã hiểu điều này khi Geordie hơn một lần hỏi cưới nàng sau khi bản di chúc được công bố, và nàng một lần nữa từ chối. Nàng và Nettie đã rời khỏi ngay đêm đó, không có thời gian để thương tiếc, không có thời gian để hối hận với lời hứa nàng đã hứa với ông mình. Nhưng nàng đã thực sự đau buồn trong hai tháng cuối, khi mà họ đã biết thời gian của Duncan sắp hết. Và thực sự cái chết của ông như là một sự giải thoát, bởi vì trong suốt bảy năm cuối cuộc đời ông đã phải chịu đựng những cơn đau, và chỉ bởi tính ngoan cố của người Scot đã khiến ông còn sống lâu như vậy. Không, nàng không nên buồn bởi những cơn đau của ông đã kết thúc. Nhưng ôi, nàng nhớ làm sao người ông già nua đã là cha và cả mẹ nàng trong suốt những năm qua ! - Cháu không cần khóc thương ta, cháu yêu - ông đã nói với nàng nhiều tuần trước khi ông mất - ta cấm điều đó. Cháu đã ở bên ta quá nhiều năm, quá nhiều thời gian lãng phí, và ta không muốn cháu lãng phí thêm dù chỉ một ngày sau khi ta chết. Cháu hãy hứa với ta như vậy nhé. Thêm một lời hứa nữa với người ông già nua yêu quý của nàng, người ông đã nuôi dưỡng nàng, yêu thương nàng kể từ khi con gái của ông trở về với ông mang theo Roslynn mới 6 tuổi. Liệu thêm một lời hứa nữa có hề gì sau khi nàng đã cho ông lời hứa định mệnh khiến cho giờ đây nàng ở trong tình thế đầy bối rối như thế này. Và dù thế nào sau đó cũng vẫn không có thời gian để mà khóc thương, cho nên ít nhất nàng cũng đã hoàn thành lời hứa đó. Nettie cau có khi thấy Roslynn hướng mắt nhìn lại cửa sổ lần nữa và biết rằng nàng lại đang nghĩ về Duncan Cameron. « Gramp-ông ngoại» nàng đã gọi ông một cách bất kính như vậy kể từ cái ngày mẹ nàng lần đầu tiên mang nàng tới lâu đài Cameron sống chỉ để chọc tức ông. Đứa trẻ tinh nghịch ấy đã yêu thích việc chọc giận người ông Scot già và khó chịu, và làm thế nào mà ông lại thấy vui với mỗi trò nghịch ngợm và chọc phá mà cô bé dành cho ông. Cả hai người đều nhớ tới ông, nhưng giờ có quá nhiều thứ khác cần phải suy nghĩ tới. - Cuối cùng chúng ta cũng tới quán trọ. Nettie nhìn ra từ chỗ ngồi đối diện với phía trước xe ngựa. Roslynn nghiêng người về phía cửa sổ để nhìn về cùng một hướng, và ánh nắng như đang dát vàng trên khuôn mặt nàng, chạm vào mái tóc nàng khiến nó cũng ánh rực lên như nắng. Nàng có mái tóc đẹp, màu vàng ánh đỏ như mẹ nàng - Janet. Mái tóc của Nettie thì đen như than đá, và mắt bà màu xanh mờ như bóng những cây sồi cao lớn che phủ mặt hồ. Roslynn cũng có được đôi mắt giống mẹ, màu xanh lục pha xám khó tả bởi có thêm những ánh vàng sáng lấp lánh thu hút sự chú ý. Thêm vào đó, mọi thứ của nàng giống nhiều với Janet Cameron trước khi bà bỏ đi cùng với một người đàn ông Anh. Thực tế thì Roslynn không có điểm gì giống với cha, người đàn ông đã đánh cắp trái tim của mẹ nàng - Janet và để lại bà cùng với nỗi đau vô hạn khi ông chết sau một tai nạn bi thảm. Janet cũng như vậy, chết chỉ một năm sau đó. Và Roslynn, nhờ ơn Chúa, vẫn còn lại người ông để nương tựa. Một cô bé mới bảy tuổi, mà cả bố mẹ đếu đã qua đời, may mắn là đã có thể thích nghi, đặc biệt là với một người ông Scot luôn yêu quý và chiều theo mọi ý thích bất chợt của cô. Ôi, mình cũng tệ như cô bé, Nettie nghĩ thầm, khi nghĩ về cái chết khi mà giờ đây tương lai mới là thứ cần phân vân. - Cháu hi vọng là những chiếc giường tối nay ít ra cũng êm hơn tối qua- Roslynn nhận xét khi xe ngựa dừng lại trước quán trọ kiểu thôn quê- Đó là điều duy nhất khiến cháu thấy hăng hái khi tới London. Cháu biết Frances sẽ có những chiếc giường thoải mái chờ chúng ta. - Cháu muốn nói là cháu không thấy vui chút nào khi gặp lại người bạn thân sau ngần ấy năm ư ? - Dĩ nhiên là có chứ ạ, cháu không thể chờ đợi để được gặp lại cô ấy- Roslynn liếc Nettie với sự ngạc nhiên - nhưng hoàn cảnh này sẽ không cho phép một cuộc sum họp vui vẻ, phải không ? Cháu muốn nói là, vì không còn thời gian để mất, nên thực sự cháu có thể gặp Frances trong bao lâu ? Ôi, Geordie chết tiệt – nàng thêm vào với cái quắc mắt khiến cho đôi mày màu hung sáng của nàng nhích lại gần nhau - Nếu không phải vì hắn ta… - Cháu đáng lẽ không nên hứa hẹn gì cả, giờ thì chúng ta đã ở đây, và chẳng tốt tý nào khi than phiền về chuyện đó nưã, đúng không ?- Nettie bắt bẻ nàng.   Mời các bạn mượn đọc sách Sự Nổi Loạn Dịu Dàng của tác giả Johanna Lindsey.
Ảnh Phổ Diện
Vua John ra sắc lệnh Công nương Gabrielle xứ St. Biels phải rời khỏi quê hương Anh quốc của cô để kết hôn với một lãnh chúa Cao nguyên. Cô biết mình phải tuân lệnh và gói ghém đồ đạc đến Scotland cùng với đội cận vệ. Trên đường tới tu viện nơi dự định tiến hành lễ cưới, họ bắt gặp một nhóm người đang muốn chôn sống một kẻ khác. Cô đã giải cứu kẻ gần chết đó và bí mật mang anh ta đến tu viện.  Vì cô đến đó chờ để làm lễ kết hôn, hai nam tước đồi bại người Anh đang tranh giành để có được cô cũng đến tu viện. Nhưng vị lãnh chúa mà cô buộc phải cưới thì không. Ông ta bị sát hại trước khi tới nơi. Giờ hai nam tước đang tranh cãi xem ai là người thay mặt cho đức vua để quyết định tương lai của Gabrielle.  Lãnh chúa Colm MacHugh đến tu viện để đón em trai mình, người đã gần như bị chôn sống. Anh không khám phá ra người nào đã cứu em trai mình nên quyết định đưa vị linh mục đã giúp Liam hồi phục lại về vùng đất của anh để xem xem liệu anh có tìm hiểu được thêm gì nữa. Khi mệnh lệnh của hai nam tước người Anh đặt ra cho Gabrielle dẫn đến kết quả không mong đợi, anh liền giải cứu cho cô và đưa cô về với anh. Để đáp trả món nợ cũ, anh chấp thuận kết hôn với cô và trở thành người bảo hộ cho cô.  Ảnh Phổ Diện (Shadow Music) là cuốn tiểu thuyết lãng mạn, vì thế người đọc đều biết cuối cùng thì Colm và Gabrielle sẽ yêu thương nhau và cùng chống lại những thế lực đen tối vây quanh. Các nam tước dồn hết sức lực, đặc biệt là một kẻ trong số họ muốn “kho vàng ẩn” của St. Biel. Có cả những xung đột thị tộc tại Scotland – điều luôn luôn xuất hiện trong loại tiểu thuyết lãng mạn này.  Công nương Gabrielle có một cá tính mạnh mẽ. Cô không thắc mắc gì khi tuân lệnh nhà vua. Mặc dù vậy, cô sẽ sống cuộc sống của cô khi thấy phù hợp theo những hạn chế về mặt văn hóa và tín ngưỡng của thời bấy giờ. Colm nhanh chóng học được cách giải mã một số những từ ngữ của cô để biết cô sẽ làm điều mà cô thích. Colm là một vị lãnh chúa mạnh mẽ, điển hình và cũng là một chú rể bất đắc dĩ. Anh học được rằng cuộc hôn nhân này không phải là sự trói buộc như anh tưởng. *** Wellingshire, nước Anh. Công nương Gabrielle chỉ mới có 6 tuổi khi bị triệu đến bên giường người mẹ đang hấp hối. Hộ tống là người cận vệ trung thành, đằng sau là hai người lính hai bên, bước chân họ chậm rãi để cô bắt kịp khi họ trang trọng diễu qua hàng lang dài. m thanh duy nhất chỉ là tiếng những đôi ủng dập xuống nền nhà bằng đá lạnh buốt. Gabrielle đã được gọi đến giường mẹ nhiều lần đến nỗi cô bé không tài nào đếm nổi. Chân bước và mái đầu cúi xuống, ánh nhìn dán chặt vào viên đá sáng bóng mà cô vừa tìm được. Mẹ sẽ rất thích nó. Đó là một viên đá đen tuyền với một đường sọc màu trắng mảnh mai lượn vòng quanh. Một bên mặt trơn nhẵn như bàn tay mẹ lúc vuốt ve khuôn mặt Gabrielle. Mặt bên xù xì như những cái chạm của cha cô. Hàng ngày lúc hoàng hôn buông xuống, Gabrielle mang đến cho mẹ một món quà quý giá khác nhau. Hai ngày trước cô bé bắt được một con bướm. Đôi cánh của nó thật xinh đẹp, vàng óng xen lẫn những mảng màu tím biếc. Mẹ tuyên bố đó chính là chú bướm xinh đẹp nhất mà bà từng thấy trên đời. Bà khen ngợi Gabrielle vì đã biết nâng niu một tạo vật của Chúa lúc bà tiến về phía cửa sổ và thả cho nó bay đi. Ngày hôm qua Gabrielle hái những bông hoa ở ngọn đồi phía ngoài lâu đài. Hương cây thạch nam và mật ong vất vít quanh cô bé, và cô bé nghĩ mùi hương này thậm chí còn dễ chịu hơn cả mùi dầu thơm và nước hoa đặc biệt của mẹ cô. Gabrielle buộc một dải lụa xinh xắn quanh phần cuống bó hoa và cố gắng tạo thành một chiếc nơ đẹp, nhưng cô bé không biết cách và cuối cùng làm rối tung nó lên. Cô bé đã dỡ nó ra trước khi mang cả bó hoa đến cho mẹ mình. Những hòn đá là những món quà quý ưa thích của Mẹ. Mẹ giữ một hộp đầy những viên đá mà Gabrielle thu nhặt cho bà và đặt nó trên bàn ngay cạnh giường, chắc Mẹ sẽ thích viên này nhất cho mà xem. Gabriella không hề tỏ ra lo lắng về cuộc gặp gỡ ngày hôm nay. Mẹ đã hứa sẽ không đi tới thiên đường sớm, và mẹ chưa bao giờ thất hứa với cô. Những vệt nắng trải dài trên những bức tường và sàn nhà lát đá lạnh buốt. Nếu như Gabrielle không bận rộn với viên đá của mình, cô bé sẽ thích được đuổi bắt theo bóng nắng và cố gắng giành lấy một vệt cho mình. Hành lang dài là một trong số những chốn đùa nghịch ưa thích của cô bé. Cô bé thích co chân nhảy lò cò từ viên nọ sang viên kia trên mặt đá lát sàn, và quay lại xem xem khoảng cách xa đến bao nhiêu trước khi ngã phịch xuống. Thi thoảng cô bé nhắm chặt mắt, hai cánh tay giang rộng, và xoay tròn xoay tròn cho đến tận lúc loạng choạng ngã nhào xuống nền nhà, mặt mũi tối tăm đến nỗi những bức tường đá dường như bay lượn ngay trên đầu. Nhưng thích nhất là được chạy dọc hành lang, đặc biệt khi cha có ở nhà. Ông là người đàn ông to lớn, trang nghiêm , cao hơn bất kì chiếc cột chống nào trong nhà thờ. Cha cô sẽ gọi cô đến và chờ cô sà vào lòng ông. Rồi ông sẽ nhấc bổng cô lên trong vòng tay mình và nâng cô đến ngang đầu. Nếu đang ở khu sân trong, cô với hai bàn tay lên trời, cảm giác chạm vào được cả một đám mây. Cha lúc nào cũng vờ thả lỏng tay mình để cô tưởng ông sẽ làm cô rơi xuống. Cô biết ông sẽ không bao giờ làm thế, nhưng cô vẫn kêu thét lên thích thú. Cô bé quàng tay quanh cổ cha và bám thật chặt khi ông sải bước đến phòng mẹ. Khi tâm trạng cha đặt biệt vui vẻ, ông sẽ cất tiếng hát. Cha có một giọng hát dễ sợ, thỉnh thoảng Gabrielle cười rúc rích và bịt chặt lấy hai tai tỏ vẻ khiếp đảm cực kì, nhưng cô chưa bao giờ thực sự cười phá lên. Cô không muốn tổn thương đến những tình cảm dịu dàng của cha mình. Hôm nay cha vắng nhà. Ông rời Wellingshire để đến thăm chú Morgan ở phía bắc nước Anh, và vài ngày tới cũng sẽ chưa về. Gabrielle không hề lo lắng. Nếu không có cha ở nhà, bà sẽ không chết. Stephen, chỉ huy của đội cận vệ, mở cánh cửa phòng mẹ cô và vỗ về Gabrielle bước vào phòng bằng một cú thúc nhẹ qua vai. “Nào, Công nương,” anh hối thúc. Cô quay lại với một cái cau mày bất bình. “Cha nói anh phải gọi mẹ em là Công nương Geneieve, và gọi cháu là Lady Gabrielle chứ.” “Ở nước Anh, em sẽ là Lady Gabrielle.” Anh đập nhẹ vào chỏm lông trang trí trên chiếc áo dài của mình. “Nhưng ở St. Biel, em chính là công nương của chúng ta. Giờ thì đi đi nào, mẹ em đang đợi.” Nhìn thấy Gabrielle, mẹ cô lên tiếng gọi. Giọng nói phát ra yếu ớt, còn mặt bà trông trắng bệch. Từ lúc cô bé nhớ được tới bây giờ , mẹ đã nằm trên giường rồi. Hai chân mẹ đã quên mất bước đi, bà giải thích với Gabrielle như thế, nhưng cô bé vẫn hy vọng, cầu nguyện rằng một ngày nào đó chúng sẽ nhớ ra. Nếu như điều nhiệm màu ấy xảy đến, mẹ hứa với Gabrielle rằng mẹ sẽ đứng chân trần trên nền nhà sạch sẽ để đếm gạch cùng với cô bé. Và mẹ cũng sẽ khiêu vũ cùng với Cha. Phòng ngủ chật ních toàn những người là người. Họ nhích thành một lối nhỏ giành cho cô. Vị mục sư, Cha Gartner, đang lẩm bẩm lời cầu nguyện của ông qua tiếng thì thầm gần hốc tường, và thầy thuốc, người lúc nào mặt mày cũng cau có và thích chọc lấy máu mẹ bằng những con đỉa nhày nhụa, đen sì, cũng có mặt. Gabrielle thầm biết ơn vì ông ta đã không đặt những con vật đó vào cánh tay mẹ ngày hôm nay. Các tớ gái, người hầu và quản gia lảng vảng bên cạnh giường. Mẹ đặt khung thêu và chiếc kim của bà xuống, xua tay cho người hầu tránh sang một bên, và ra hiệu cho Gabrielle. “Lại đây ngồi cạnh mẹ nào,” bà ra lệnh. Gabrielle bước tới, trèo lên bục, và chìa hòn đá ra cho mẹ. “Chà, đẹp quá,” mẹ thì thầm khi cầm lấy viên đá và cẩn thận quan sát nó. “Đây hẳn là viên đá đẹp nhất,”, mẹ thêm vào với một cái gật đầu. “Mẹ, lần nào con mang tới cho mẹ một viên đá mẹ đều nói thế. Lúc nào cũng là viên đẹp nhất.” Mẹ cô chạm nhẹ vào cô bé. Gabrielle dịch tới gần hơn. “Mẹ không thể chết hôm nay được. Nhớ không? Mẹ hứa rồi.” “Mẹ nhớ mà.” “Cha sẽ rất giận dữ, vì mẹ không khỏe lên.” “Lean closer, Gabrielle,” her mother said. “I have need to whisper.” “Xích vào với mẹ, Gabrielle,” mẹ cô bé đáp. “Mẹ nói thầm thôi.” Một tia sáng lóe lên trong mắt báo cho Gabrielle biết mẹ lại đang bắt đầu trò chơi của mình. “Một bí mật ạ? Mẹ sẽ nói cho con biết?” Đám đông tiến lại gần. Ai cũng hăm hở giỏng tai nghe lời bà sắp nói. Gabrielle nhìn quanh phòng. “Mẹ, tại sao mọi người đều ở đây hết vậy?” Mẹ hôn lên má cô bé. “Họ nghĩ mẹ biết nơi cất giấu kho báu, và hi vọng mẹ sẽ nói cho con nghe.” Gabriella cười rúc rích. Cô bé rất thích trò chơi này. “Mẹ sẽ nói cho con chứ?” “Không phải hôm nay,” mẹ trả lời. “KHông phải hôm nay,” Gabrielle lặp lại để cho đám người tò mò đang vây xung quanh có thể nghe thấy. Mẹ cô bé gắng gượng ngồi dậy. Một người hầu nhanh chóng tiến lại đặt thêm gối vào sau lưng bà. Ngay tức khắc thầy thuốc loan báo rằng sắc mặt bà đã khá hơn. “Ta cả thấy khỏe hơn nhiều rồi,” bà lên tiếng. “Giờ hãy rời đi,” bà ra lệnh, giọng nói nhấn mạnh từng lời. “Ta muốn có phút giây riêng tư với con gái mình.” Vị thầy thuốc nhìn như thể ông muốn cự lại, nhưng vẫn im lặng giải tán đám đông ra khỏi phòng ngủ. Ông ra hiệu cho hai người hầu gái ở lại bên trong. Những người khác đứng túm tụm bên ngoài để chờ lệnh của bà chủ. “Có phải hôm nay mẹ khỏe hơn nhiều nên mới kể chuyện được cho con phải không?” Gabrielle hỏi. “Phải,” bà đáp. “Con muốn nghe chuyện gì nào?” “Câu chuyện về nàng công chúa,” Cô bé hăm hở lên tiếng. Mẹ cô bé không hề ngạc nhiên. Lúc nào Gabrielle cũng đòi bà kể đúng một câu chuyện. “NGày xửa ngày xưa có một nàng công chúa sống ở vùng đất xa thật xa tên gọi là St. Biel,” mẹ cô bắt đầu. “Chỗ ở của nàng là một lâu đài màu trắng thật lộng lẫy nằm tên đỉnh một ngọn núi cao. Nhà vua trị vì nơi ấy là chú của nàng. Ngài đối với công chúa rất ân cần và nàng vô cùng hạnh phúc.” Khi mẹ cô bé dừng lại, Gabrielle nôn nóng tiếp lời. “Mẹ là nàng công chúa đó.” “Gabrielle, đúng như thế, con biết mà. Và đó là câu chuyện của cha và mẹ.” “Con biết, nhưng con vẫn muốn nghe mẹ kể chuyện cơ.” Mẹ cô bé tiếp tục. “Khi nàng công chúa đến tuổi trưởng thành, một giao kèo được lập với Nam tước Geoffrey vùng Wellingshire. Công chúa buộc phải cưới vị nam tước và sống với anh ta tại nước Anh.’ Vì bà biết rằng con gái mình thích nghe đoạn kể về lễ cưới, những bộ váy áo xúng xính, âm nhạc, thế là bà đi vào chi tiết. Cô con gái bé nhỏ vỗ hai tay vào nhau đầy hào hứng khi nghe đến bữa tiệc cưới long trọng, đặc biệt là lời miêu tả những chiếc bánh tạc nhân hoa quả cùng với những chiếc bánh ngọt nhân mật ong. Đến cuối câu chuyện, lời kể của người mẹ trở nên chậm chạp và nặng nề. Bà kiệt sức. Cô con gái bé nhỏ nhận thấy điều đó và , theo thói quen, cô lại bắt mẹ cô hứa sẽ không được chết hôm nay. “Mẹ hứa. Giờ đến lượt con kể cho mẹ nghe câu chuyện mẹ đã dạy cho con đi nào.” “Đúng y như mẹ dạy, phải không Mẹ? Và cũng y như mẹ của mẹ dạy mẹ phải không?” Bà mỉm cười. “Từng từ một. Và con sẽ nhớ và lại kể cho con gái con một ngày nào đó để chúng biết về dòng dõi của chúng và vùng đất St. Biel.” Gabrielle trở nên trịnh trọng, hai mắt cô bé nhắm lại đầy tập trung. Cô bé biết mình không được bỏ sót một từ nào trong toàn bộ câu chuyện. Đây là di sản của cô, và mẹ cô chắc chắn rằng một ngày nào đó cô sẽ hiểu ý nghĩa của câu chuyện này. Cô bé đặt hai tay lên lòng mình và rồi mở bừng mắt. Nhìn vào nụ cười khích lệ của mẹ, cô bé bắt đầu. “Này xửa ngày xưa vào một năm nhiều bão lớn ập vào từ ngoài biển khơi…” Mời các bạn mượn đọc sách Ảnh Phổ Diện của tác giả Julie Garwood.