Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa - Nevil Shute

Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điều Gì Em Cũng Muốn
Tập đầu tiên của seri ra mắt độc giả từ năm 2002, ngay lập tức đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và đã dẫn đầu top 10 cuốn sách bán chạy nhất trong năm của New York Times. Không dừng lại ở đó, seri Kiều nữ lắm chuyện đã được chuyển thể thành phim Gossip Girl và phát sóng đều đặn trong suốt 6 năm trên kênh truyền hình quốc gia The CW với số người xem lên tới 2.35 triệu người mỗi lần phát sóng. Với lối viết mới lạ Von Ziegesar đã phản ánh được thế giới trần trụi của các cậu ấm cô chiêu ở Mỹ. Các nhóm nhân vật được xây dựng theo một khuôn mẫu truyền thống: tình yêu ẩm ương tuổi học trò, các anh chàng đẹp trai, những cô nàng thay bồ như thay áo, những câu chuyện cãi cọ và những trò chơi xấu giữa những cô nàng lắm chiêu … Dẫu vậy chúng vẫn có một sức hút kỳ lạ đối với giới trẻ có lẽ bởi từng tập sách đã đánh trúng tâm lý và phản ánh đúng thực trạng lối sống của giới trẻ hiện đại từ đó chúng có thể rút ra được những bài học bổ ích trước tình huống tương tự gặp phải trong đời sống thực. Tại Việt Nam, 4 tập đầu trong seri này đã được chuyển tới độc giả qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Trương Quý. Với giọng dịch nhẩn nha, tinh quái và cũng thật … lắm chiêu và sâu cay bản dịch tiếng Việt gần như đã truyền tải được hết tinh thần chung mà bộ sách muốn chuyển tải tới giới trẻ. ***   Kỳ Giáng sinh ở thành phố New York thật kỳ diệu, nhất là khu phố trên. Không khí náo nức mùi của tuyết đang rơi, mùi củi trong lò cháy và mùi đồ ăn Giáng sinh đang nướng. Nhìn từ trên những căn hộ tầng thượng của chúng mình, Công viên Trung tâm trông giống như một xứ thần tiên bằng bạc, đại lộ Park Avenue trở thành một cuộc diễu hành của đèn Giáng sinh, và kích cỡ của cây thông trong Trung tâm Rockefeller dường như hứa hẹn một lễ Giáng sinh đáng kinh ngạc hơn bao giờ hết - dù rằng tất cả chúng mình rồi sẽ say túy lúy để có thể nhận ra. Dọc đại lộ Năm, các cửa sổ cửa hàng đều trang hoàng cho kỳ lễ. Các cô gái đi ra phố mua sắm mặc những chiếc áo khoác Marc Jacobs bằng cashmere màu xanh da trời lộng lẫy. Họ đã khuân về từ hồi tháng 10 và còn chần chừ gì mà không mặc. Ðêm đến, ai cũng ra ngoài cùng tận hưởng niềm vui, vui thật là vui. Quên đi việc học giữa kỳ; quên đi những tờ đơn đăng ký vào đại học phút chót; quên đi việc phải giúp mẹ mua quà tặng cho người giúp việc, đầu bếp, tài xế hay những bà chuyên lo việc giặt ủi. Hãy vơ lấy bộ váy quây Prada bằng satin đen, đôi giày cao gót 10 phân của Christian Louboutin hay đôi Perspex gót nhọn hoắt, cái túi Hermès Birkin màu cam, và tóm lấy chàng trai dễ thương nhất bạn biết rồi ra ngoài với tớ nào! Ngó nghiêng D và V đang khóa môi nhau ở dưới bến tàu trên phố 79. Thật là bi kịch khi họ mất bao nhiêu là thời gian để nhận ra họ thích nhau. N đang mua hoa hồng nhung cho J - và bạn không nghĩ rằng cậu ta lại có một phần con người ngọt ngào trong cơ thể nghiện ngập đẹp đẽ của mình. B và S đang phi đến hiệu Bendel’sđể chọn lấy bộ cánh mặc cho vũ hội Ðen Trắng đêm nay. Tớ nghe nói Flow - cựu người mẫu, giọng ca chủ lực và cây guitar mê ly của ban nhạc 45 , vừa mới giành giải MTV Music Awardcho album đầu tay hay nhất, Komunik8 - sẽ đến làm lễ công bố danh dự về số tiền quyên góp được. Dạ hội là một buổi gây quỹ cho Be Kind , một nhóm bảo vệ quyền động vật mà Flow là phát ngôn viên. Nhưng ai quan tâm làm gì cái đó chứ? Chúng ta đều biết chúng ta chỉ tới vì có thể ngó được cái khuôn mặt tuyệt hảo của chàng. Gặp bạn ở đó nhé! Họ thực sự là bạn bè trở lại? Ðúng đấy: S và B đã quyết định hôn nhau làm lành, và đúng lúc. Ý tớ là bạn thực sự làm bộ đâm lê được bao lâu với người đã cùng tắm chung thời tiểu học? B có thể không có tóc vàng hay cao ráo hoặc “trải đời” như S , nhưng chừng đó chẳng phải là cớ để cô phải ghét bạn mình. Và S sẽ chẳng bao giờ xảo quyệt hay ích kỷ bằng B , nhưng đấy cũng chẳng phải là điều khiến cô phải sợ nàng ta. Thay vì thế, hai cô gái quyết định đặt sang bên sự khác biệt và vui vẻ với nhau, ít nhất cũng để cho thời gian khắc trôi. Câu hỏi ở đây là, giờ họ quay lại với nhau, chuyện chơi khăm điên rồ nào họ sắp làm tới đây? Tin tớ đi, tớ sẽ là người đầu tiên khám phá ra, và các cậu sẽ là người thứ hai. Thì tớ có giỏi giữ bí mật đâu. Các cậu biết các cậu yêu tớ mà! GNC   Mời các bạn đón đọc Điều Gì Em Cũng Muốn của tác giả Cecily von Ziegesar.
Các Cậu Biết, Các Cậu Yêu Tớ Mà!
Tập đầu tiên của seri ra mắt độc giả từ năm 2002, ngay lập tức đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và đã dẫn đầu top 10 cuốn sách bán chạy nhất trong năm của New York Times. Không dừng lại ở đó, seri Kiều nữ lắm chuyện đã được chuyển thể thành phim Gossip Girl và phát sóng đều đặn trong suốt 6 năm trên kênh truyền hình quốc gia The CW với số người xem lên tới 2.35 triệu người mỗi lần phát sóng. Với lối viết mới lạ Von Ziegesar đã phản ánh được thế giới trần trụi của các cậu ấm cô chiêu ở Mỹ. Các nhóm nhân vật được xây dựng theo một khuôn mẫu truyền thống: tình yêu ẩm ương tuổi học trò, các anh chàng đẹp trai, những cô nàng thay bồ như thay áo, những câu chuyện cãi cọ và những trò chơi xấu giữa những cô nàng lắm chiêu … Dẫu vậy chúng vẫn có một sức hút kỳ lạ đối với giới trẻ có lẽ bởi từng tập sách đã đánh trúng tâm lý và phản ánh đúng thực trạng lối sống của giới trẻ hiện đại từ đó chúng có thể rút ra được những bài học bổ ích trước tình huống tương tự gặp phải trong đời sống thực. Tại Việt Nam, 4 tập đầu trong seri này đã được chuyển tới độc giả qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Trương Quý. Với giọng dịch nhẩn nha, tinh quái và cũng thật … lắm chiêu và sâu cay bản dịch tiếng Việt gần như đã truyền tải được hết tinh thần chung mà bộ sách muốn chuyển tải tới giới trẻ. ***   Khuyến cáo: Tất cả những tên thật về nơi chốn, con người và sự kiện đều được thay đổi hoặc viết tắt để bảo đảm khách quan. Cụ thể là tên tớ. Xin chào các cậu! Chào mừng đến với khu Upper East Side của thành phố New York, nơi bạn bè và tớ sống trong những căn hộ hoành tráng, tuyệt đẹp và đến học ở các trường tư đẳng cấp cao. Chúng tớ không phải lúc nào cũng là những người xinh đẹp nhất thế giới, nhưng chúng tớ biết trang điểm sao cho mình trông thật bắt mắt và ngon lành nhất. Mùa đông đang đến. Đó là mùa yêu thích của thành phố này và cả tớ nữa. Các cậu trai đi ra Công viên Trung tâm, chơi bóng hoặc làm những điều các cậu ấy vẫn làm vào mùa này, mặc cho lá khô rơi đầy trên áo len và trên tóc. Và những cái má ửng hồng đó... ôi hấp dẫn làm sao! Đã đến lúc rút thẻ tín dụng và xông vào cửa hiệu Bendel và Barneys để lựa những đôi ủng mới đỏm dáng, tất lưới khêu gợi, váy len mini và áo chui đầu bằng vãi cashmere tuyệt hảo. Thành phố dường như long lanh hơn vào thời điểm này, và chúng tớ cũng muốn long lanh theo! Thật không may, cũng đã đến lúc phải điền vào đơn đăng ký trường đại học. Chúng tớ đều là con cái những gia đình danh giá, học ở những trường trung học thuộc hạng cao cấp, không thể không nộp đơn vào các trường đại học Ivy Leagues [1] , và không đỗ vào các trường đó thì thật là một sự xấu hổ nhục nhã. Áp lực là vậy, nhưng tớ quyết không để nó đè bẹp mình. Đây là năm cuối trung học, chúng tớ sẽ chơi tới bến để ghi lại dấu ấn của mình và vẫn mang theo kiểu sống ấy khi vào trường đại học mình lựa chọn. Chúng tớ có dòng dõi oách nhất bờ Đông - tớ chắc rằng chúng tớ sẽ có cách để làm sao vừa kiếm được miếng lại vừa được chơi [2] , như chúng tớ vẫn luôn được thế. Tớ biết một số cô nàng sẽ không để cho áp lực đè nặng tí nào đâu... Những cảnh trông thấy B đi cùng bố vào mua kính râm ở hiệu Gucci trên Đại lộ Năm. Ông ấy không thể quyết được nên mua mắt kính màu hồng hay xanh ngọc nên ông mua cả hai. Chà, ông ta đúng là đồng bóng! N và đám bạn đang tìm những trường hay ho nhất trong cuốn Cẩm nang của người vào đại học ở cửa hàng sách Barnes & Noble trên đường 86 và Lexington. S đi làm mặt ở Aveda trong khu phố dưới. Và D , đang mơ màng xem trượt băng ở Trung tâm Rockefeller và viết vào cuốn sổ tay. Một bài thơ về S – không còn hồ nghi gì nữa - thật là lãng mạn. B cũng có một buổi tẩy lông kiểu Brazil ở tiệm Chị em J . Cô nàng đang chuẩn bị để... Có phải B thật sự sẵn sàng đón nhận bước tiếp theo không? Cô nàng nói về việc đó từ khi hết hè, lúc cô với N cùng nhau trở lại thành phố. Sau đấy thì S xuất hiện, mắt N bắt đầu lạc hướng lung tung, làm cho B quyết định trừng phạt cậu bằng cách bắt cậu chờ đợi. Nhưng giờ S đã có D , và N đã hứa sẽ cư xử tử tế với B . Đã đến lúc rồi. Sau cùng, không ai thực sự muốn vào đại học mà vẫn là trinh nữ cả. Tớ sẽ theo dõi sát sàn sạt đấy. Các cậu biết các cậu yêu tớ mà! GNC [1] Nhóm Ivy League là nhóm gồm 8 trường đại học hàng đầu ở bờ Đông nước Mỹ, có tiêu chuẩn đầu vào cao. [2] Nguyên văn: Kiếm được bánh ngọt rồi còn muốn ăn, tương đương với thành ngữ Bắt cá hai tay trong tiếng Việt. Mời các bạn đón đọc Các Cậu Biết, Các Cậu Yêu Tớ Mà! của tác giả Cecily von Ziegesar.
Hot Girl Trở Lại!
Tập đầu tiên của seri ra mắt độc giả từ năm 2002, ngay lập tức đã thu hút được sự quan tâm của dư luận và đã dẫn đầu top 10 cuốn sách bán chạy nhất trong năm của New York Times. Không dừng lại ở đó, seri Kiều nữ lắm chuyện đã được chuyển thể thành phim Gossip Girl và phát sóng đều đặn trong suốt 6 năm trên kênh truyền hình quốc gia The CW với số người xem lên tới 2.35 triệu người mỗi lần phát sóng. Với lối viết mới lạ Von Ziegesar đã phản ánh được thế giới trần trụi của các cậu ấm cô chiêu ở Mỹ. Các nhóm nhân vật được xây dựng theo một khuôn mẫu truyền thống: tình yêu ẩm ương tuổi học trò, các anh chàng đẹp trai, những cô nàng thay bồ như thay áo, những câu chuyện cãi cọ và những trò chơi xấu giữa những cô nàng lắm chiêu … Dẫu vậy chúng vẫn có một sức hút kỳ lạ đối với giới trẻ có lẽ bởi từng tập sách đã đánh trúng tâm lý và phản ánh đúng thực trạng lối sống của giới trẻ hiện đại từ đó chúng có thể rút ra được những bài học bổ ích trước tình huống tương tự gặp phải trong đời sống thực. Tại Việt Nam, 4 tập đầu trong seri này đã được chuyển tới độc giả qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Trương Quý. Với giọng dịch nhẩn nha, tinh quái và cũng thật … lắm chiêu và sâu cay bản dịch tiếng Việt gần như đã truyền tải được hết tinh thần chung mà bộ sách muốn chuyển tải tới giới trẻ. *** Khuyến cáo: Tất cả những tên thật về nơi chốn, con người và sự kiện đều được thay đổi hoặc viết tắt để bảo đảm khách quan. Cụ thể là tên tớ. Xin chào các cậu! Có bao giờ các cậu tự hỏi cuộc sống thật sự của những người giàu có là thế nào không? À, tớ sắp kể cho các cậu biết đây vì tớ là một trong số đó. Tớ không nói về những siêu mẫu xinh đẹp, những nam diễn viên, hoặc những thần đồng âm nhạc, hay thiên tài toán học. Tớ đề cập đến loại người giàu từ trong trứng nước giàu ra - những loại như chúng tớ có tất cả mọi thứ mà người khác hằng ao ước, và chúng tớ đón nhận mọi thứ ấy như lẽ thường tình, hiển nhiên. Chào mừng các cậu đến với khu Upper East Side [1] của thành phố New York. Nơi đây, tớ và bọn bạn hàng ngày đi học, rồi đi chơi và sau đó là đi ngủ (thỉnh thoảng ngủ với nhau). Tất cả bọn tớ được sống trong những căn hộ to đẹp, có phòng ngủ, phòng tắm và đường dây điện thoại riêng biệt. Bọn tớ tha hồ tiêu tiền, rượu chè và làm tất cả những gì mà bọn tớ thích. Bố mẹ bọn tớ hiếm khi có mặt ở nhà cho nên đứa nào cũng có cả đống khoảng trời tự do, riêng tư. Bọn tớ thông minh, bọn tớ được ông bà cha mẹ truyền cho gen ngoại hình đẹp kiểu cổ điển. Bọn tớ ăn mặc rất sành điệu và sành sỏi trong khoản tiệc tùng. Phân của bọn tớ cũng thối lắm đấy, nhưng các cậu sẽ không ngửi thấy mùi được đâu, vì cứ cách một giờ, kẻ ăn người ở trong nhà đã xịt nước hoa vào phòng vệ sinh cho bọn tớ, thứ nước hoa Pháp với mùi hương tươi mát đặc trưng. Ðó là một cuộc sống xa hoa, nhưng cũng có vài đứa phải chịu đựng cuộc sống này. Từ tất cả các căn hộ của mình, bọn tớ đi bộ chút xíu là đến được Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan nằm trên Ðại lộ Năm và gần nhiều trường tư thục nữ, như trường Constance Billard, nơi mà hầu hết bọn tớ đều đăng ký học. Dù mang đầy những tàn tích của lịch sử, Ðại lộ Năm luôn xinh đẹp vào mỗi sáng sớm với ánh mặt trời chiếu lấp lánh trên đầu của những cậu chàng quyến rũ đang theo học trường nam St Jude. Nhưng chỉ khu gần bên viện bảo tàng, có sự gì đó đang mục ruỗng… Những cảnh trông thấy Trong chiếc taxi đậu trước trung tâm mua sắm Takashimaya,B đang cãi nhau với bà mẹ của nó. Trên bậc cầu thang dẫn vào Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, N đang thích thú thưởng thức điếu thuốc vấn. Tại cửa hàng, C đang chọn mua một đôi giày đồng phục mới để đi học. Và kìa, trên chuyến xe lửa New Heaven chạy về Nhà ga Trung tâm hiện ra hình dáng quen thuộc của một thiếu nữ tóc vàng, người dong dỏng cao, đẹp đến mê hoặc. Thiếu nữ ước chừng 17 tuổi. Có thể nào lại là... Hay là S đã trở về rồi sao? Một cô gái từng học trường nội trú, bị đuổi học và nay đang trở về Vâng, S đã bỏ trường nội trú để quay về. Cô xanh xao hơn, tóc cô dài hơn. Ðôi mắt xanh sâu thẳm của cô đầy ắp bí mật huyền hoặc được giấu kín. Cô mặc lại những bộ quần áo cũ kỹ đến khó tin, như thể chúng vừa sót lại trong một trận bão ở vùng New England. Sáng nay, tiếng cười rộn rã của S vang dội khắp các bậc thang ở Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, nơi bọn tớ sẽ không còn có thể đứng túm tụm cùng nhau chia điếu thuốc và uống cà phê capuccino mà không thấy cô ấy đứng vẫy tay chào rối rít từ căn hộ của bố mẹ nằm ở phía bên kia con đường. Từ ngày trở về, cô ta có thêm thói quen là hay gặm gặm mấy cái móng tay càng khiến cho lũ bọn tớ tò mò hơn về bí mật của cô ta. Và trong khi cả lũ bọn tôi rất khao khát muốn được hỏi là vì sao cô nàng bị đuổi khỏi trường nội trú thì bọn tớ vẫn im như thóc. Bởi vì bọn tớ thật sự muốn xa lánh cô nàng. Nhưng S luôn luôn hiện diện quanh bọn tớ. Ðể đảm bảo an toàn, bọn tớ cùng canh đồng hồ chạy giờ y hệt nhau. Nếu bọn tớ không cẩn thận, S sẽ lôi kéo quý thầy cô về phe với cô ả. S sẽ mặc những bộ quần áo mà bọn tớ không thể nào mặc vừa. S sẽ ăn mất quả ô liu cuối cùng. S sẽ làm tình trên giường ngủ của bố mẹ bọn tớ, làm đổ rượu Campari lên chăn nệm của bọn tớ. S sẽ đánh cắp trái tim của các anh trai, bạn trai bọn tớ và về mặt nào đó chắc chắn S sẽ hủy hoại cuộc sống của bọn tớ và phá bĩnh tất cả bọn tớ bằng nhiều thủ đoạn. Tớ sẽ theo dõi cô ả thật chặt chẽ, sẽ canh chừng cô ả giùm cho lũ bạn bè. Tớ có thể đánh hơi được bọn tớ sắp có một năm đầy rẫy những trò khùng điên và ác hiểm. Các cậu biết các cậu yêu tớ mà! Gái nhiều chuyện (gnc)   [1] The Upper East Side là khu lân cận với khu Manhattan ở thành phố New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và con sông phía Ðông. Giữ vị trí như là khu vực giàu có nhất của Thành phố New York. Mời các bạn đón đọc Hot Girl Trở Lại! của tác giả Cecily von Ziegesar.
Trường Đời
Năm tôi 11, 12 tuổi, tôi đọc tiểu thuyết Trường Ðời của Nhà Văn Lê Văn Trương, tôi đọc tiểu thuyết Giông Tố của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Tôi đã viết nhiều lần: “Ai hỏi những tiểu thuyết nào có ảnh hưởng đến việc tôi thích viết truyện, tôi trả lời: Trường Ðời của Lê Văn Trương, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng.” Trước năm 1945 tôi théc méc về 5 chữ “Phổ Thông Bán Nguyệt San” in trên trang bià những quyển tiểu thuyết như quyển “Trường Ðời.” “Phổ Thông Bán Nguyệt San” là cái gì? Mấy ông anh tôi, các ông chú, ông cậu tôi có nhiều ông thích đọc tiểu thuyết, tôi hỏi nhưng không ông nào trả lời được. Những năm xưa ấy tôi không chú ý đến dòng chữ nhỏ “Tạp chí văn học ra đầu tháng và giữa tháng” nằm dưới hàng chữ “Phổ Thông Bán Nguyệt San.” Mà có chú ý tôi cũng không hiểu nghĩa. Nhiều năm sau, khi cuộc đời không còn những quyển tiểu thuyết “Phổ Thông Bán Nguyệt San” tôi mới biết  Phổ Thông Bán Nguyệt San là tờ báo tháng ra hai kỳ, Nhà Xuất bản Tân Dân dùng cách này để được dễ dàng trong việc kiểm duyệt sách, Như vậy mỗi tháng Nhà Tân Dân xuất bản 2 quyển tiểu thuyết, đều đều trong nhiều năm. Một nhà xuất bản mỗi tháng  in ra hai quyển tiểu thuyết phải kể là nhiều. Một kỷ lục trong số những nhà xuất bản Việt từ ngày Việt Nam có Nhà Xuất Bản Tiểu Thuyết. Tôi không biết sau chiến tranh năm 1946 ông Lê Văn Trương trở về Hà Nội năm nào, tôi chỉ thấy ít nhất ông cũng trở về sống ở Hà Nội hai, ba năm trước năm 1954 là năm ông vào Sài Gòn. Về Hà Nội sau năm 1946,, ông Lê Văn Trương, Nhà Văn viết nhiều tiểu thuyết nhất Việt Nam, nhiều tiểu thuyết của ông rất “ăn khách”, không viết gì cả. Nguồn sáng tác của ông bị cạn. Một truyện ngắn ông cũng không viết. Vào Sài Gòn năm 1954 ông cũng không viết qua một trang tiểu thuyết nào. Thời gian đầu ông tìm những tiểu thuyết đã xuất bản của ông, nhiều quyển ông lấy ở những nhà cho mướn truyện, đem đến dạm bán cho mấy tờ báo, đề nghị nhà báo mua, đăng. Theo lệ, nhân viên những nhà báo nhận tác phẩm dạm bán không trả lời không mua ngay, mà nói: “Ðể chúng tôi đọc. Tuần sau ông trở lại.” Tuần sau ông LV Trương trở lại, nhà báo đưa trả mấy quyển truyện của  ông: “Truyện này không hợp với báo chúng tôi. Xin gửi lại ông.” Nhà Văn LV Trương bắt đền: “Trong lúc báo ông giữ tác phẩm của tôi, có người hỏi mua, tôi không có tác phẩm để bán. Báo ông làm tôi bị thiệt hại..” Nhà báo phải bồi thường cho ông một khoản tiền. Tôi – CTHÐ – chứng kiến chuyện tôi vừa kể ở toà báo Ngôn Luận. Sau 1954 Sài Gòn tái bản những tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Bằng, Khái Hưng, nhưng không tái bản một tiểu thuyết nào của Lê Văn Trương. Tôi không biết tại sao. Ông Lê Văn Trương là nhà văn Việt Nam – có thể là duy nhất – có đàn em viết truyện, ông sửa lại rồi ký tên ông đem bán cho nhà xuất bản. Vì ông nổi tiếng, vì truyện ông có nhiều người mua đọc, nên cứ truyện ký tên ông là nhà xuất bản mua. Người Pháp gọi những người viết truyện loại này là nègre. Hai ông đàn em viết truyện cho ông Lê Văn Trương ký tên làm tác giả là ông Ðặng Ðình Hồng, và ông Tân Hiến. Hai ông này cùng  vào Sài Gòn năm 1954.  Cả ba ông cùng nghiện thuốc phiện. Tôi thấy từ ngày vào Sài Gòn ông Lê Văn Trương không làm qua một công việc gì cả. Ông nghiện thuốc phiện nặng. .Ðời sống của ông đi vào tình trạng thiếu đói, vất vả, cực khổ. Từ năm 1960 ngày ngày ông lang thang đi tìm người quen để xin tiền, giới văn nghệ sĩ Sài Gòn gọi việc đi xin tiền người quen này là “đi cốc.” Khoảng năm 1958 hai ông Hoàng Xứ Lào Phoumi và Phouma tranh quyền làm Thủ Tướng Chính Phủ. Mỗi ông Hoàng có một số quân sĩ, hai ông dùng quân đội đánh nhau, những cuộc binh biến xẩy ra liên miên trên đấi Ai Lao. Nguồn cung cấp thuốc phiện cho Sài Gòn thời ấy là Ai Lao. Thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn bằng đường hàng không. Một lần xẩy ra cuộc binh biến, phi trường Vientiane bị đóng cửa nhiều ngày. Nguồn thuốc phiện từVientiane về Sài Gòn phải ngừng. Thuốc phiện trở thành khan hiếm ở Sài Gòn. Những nhà buôn thuốc phiện không bán hàng ra, có bán thì cầm chừng, và bán giá đắt. Giới đệ tử của Phù Dung Tiên Nữ rơi vào tai kiếp không có thuốc hút. Dân Hít Tô Phê – Hít Thuốc Phiện – có thể nhịn ăn vài ngày nhưng nhịn thoóc một bữa thì không được. Không có thoóc. có tiền cũng khó mua được thoóc. Mà 90/100 dân Hít Tốp là dân nghèo, không phải nghèo thường mà là nghèo mạt rệp, nghèo đến con rêp cũng không sống nhờ được. Thời ấy Sài Gòn có câu: “Phu-mi, Phu-ma đánh nhau. Phu-mơ chết.” Phu-mơ: fumeur: người hút. Trong cơn bĩ cực ấy có ông nghiện nghĩ ra chuyện lấy sái thuốc phiện nấu với nước, lọc cho hết chất sạn, than, tro, dùng ống chich hút chất nước sái thuốc phiện chích thẳng vào mạch máu. Chất thuốc phiện vào máu, người nghiện phê ngay trong nháy mắt. Ðang hút 100 đồng, chỉ cần chích 10 đồng là người nghiện phê hơn hút. Nhưng việc chích – dân nghiện gọi là choác – làm hại cơ thể người chích gấp nhiều lần việc hút. Chích 1 năm hại người bằng hút 10 năm. 10.000 người nghiện hút may ra có một, hai người bỏ được hút, người choác thì 10.000 người chết cả 10.000 người. Ông Lê Văn Trương trở thành dân choác. Người ông khô đét, da ông đen sạm. Bà vợ sống với ông từ Hà Nội trước 1946 tới ngày ông qua đời ở Sài Gòn là bà Ðào. Bà này không phải là vũ nữ Dancing Fantasio mà là bà cô đầu. *** Đôi bên họ đã thỏa thuận, thân bằng cố hữu đã biết cả, nay con làm ngang trái như thế, không sợ người ta cười ba và mẹ ư? - Nhưng con không yêu thì biết làm sao! - Thế sao trước kia con bằng lòng? - Trước kia con khác mà bây giờ con khác. Ông Nam Long kéo ghế, ngồi lại gần Khánh Ngọc: - Ba không biết trước kia và bây giờ, tính tình con thay đổi thế nào. Nhưng ba chỉ nói để con biết ba yêu và chiều con lắm. Con đã rõ. Nay ba chỉ muốn con nghĩ đến những việc thiết thực một chút. Ba thầu khoán, công việc thì nhiều mà nó thì đỗ kỹ sư cầu cống. Nó có thể giúp đỡ cho ba và làm nổi danh thế của ba nhiều lắm. Gia dĩ nó là người đỗ đạt to, có địa vị trong xã hội, con lấy nó rất xứng đáng. Con nghĩ sao? Khánh Ngọc vặn chiếc mùi soa không trả lời. - Thế sao trước kia con bảo yêu nó? - Con đã bảo với ba trước kia khác mà bây giờ khác. Trước kia, con là con bé học trò mới rời khỏi ghế nhà trường. Chứ bây giờ... con đã từng trải việc đời, con nghĩ và cảm khác trước. Nếu đời người mà chỉ là một cuộc đi thầu để kiếm lãi, thì vâng con xin lấy một ông kỹ sư. Nhưng đời người không phải thế, mà sự sống là một cái gì thiêng liêng hơn sự đi tìm lợi lộc thì lấy chồng, con phải lấy một người... đàn ông, một người đàn ông thật đàn ông, thì đời sống của con mới thật đầy đủ. - Thế con định lấy ai? - Lấy ai rồi thì ba sẽ biết. - Con định lấy ông Trọng Khang à? - Vâng, con yêu người ta. - Ông ấy thì tài giỏi và nhiều nết tốt thật đấy. Nhưng không có bằng cấp và địa vị... gì... Khánh Ngọc ngắt lời cha: - Ông ấy có nhiều bằng cấp giá trị bằng nghìn cái bằng luật khoa cử nhân của con, và cái bằng kỹ sư cầu cống của anh Giáp. Con vì theo ba lên trên ấy, trải mấy tháng nguy nan và trực tiếp ngay với cuộc đời, con mới biết được cái sự thật ấy. Mà Giáp cũng thế. Còn như cái địa vị của ông ta thì ở trong trái tim con. - Nhưng con không nghĩ đến chỗ Giáp theo đuổi con trong bao nhiêu lâu, và vì con mà phải khổ sở ư? - Con nghĩ lắm. Con thương lắm. Nhưng thương không thể đi với yêu được. Bây giờ con mới nhận ra trước kia, con chỉ thích anh ấy, chứ con không yêu anh ấy bao giờ cả. - Anh về bao giờ mà không đánh dây thép cho tôi biết, để tôi ra ga đón. Thế nào công việc xong rồi chứ? - Ô kìa, thế Khánh Ngọc không nói gì cho anh biết cả à? - Có, tuần lễ trước đây gặp tôi ở bàn quần, cô ấy có bảo rằng công việc sắp xong. Nhưng tôi không ngờ chóng thế. - Thế mấy hôm nay anh không gặp à? Tôi tưởng anh với cô ấy ngày nào cũng phải gặp nhau chứ. Tôi ngỡ năm ngoái ở trên ấy về là cưới ngay, sao để trùng trình thế? Giáp lấy thuốc nhồi vào cái "píp" của mình, rồi đưa cho Trọng Khang: - Anh hút thử cái "píp" của tôi xem, ngon đáo để. Khánh Ngọc thích lắm nhé, vẫn bảo tôi chờ anh về để biếu anh. - Ừ, dáng đẹp lắm. - Anh cũng thích? Trọng Khang gật đầu. - Khánh Ngọc biết lựa tính anh lắm. À còn câu chuyện tôi với Khánh Ngọc thì bây giờ... chúng tôi là bạn, Khánh Ngọc không viết thư từ gì cho anh cả à? - Thì cũng như anh, tuần lễ viết hai lần, nhưng không thấy đả động đến chuyện nhân duyên... - Cuộc nhân duyên ấy không có nữa. Vì... Khánh Ngọc không yêu tôi, và tự tôi xét thấy không xứng đáng. - Có lý đâu thế! Đã cùng nhau sống những phút... - Những phút đó làm cho tôi hiểu... Anh Trọng Khang, tôi với anh... chỉ có sự thành thực mới xứng đáng với cái tình của chúng ta nó đã nảy nở ở bên cái chết. Khánh Ngọc yêu anh, yêu anh lắm, yêu như người ta yêu một cái gì đẹp đẽ và cao quý nhất ở trên đời. Trọng Khang đứng phắt dậy: - Nhưng tôi không thể yêu như thế? Tôi với anh... - Anh hãy khoan để cho tôi nói hết. Rồi anh muốn nói gì, tôi xin nghe. Trước nhất, tôi nói để anh biết: tôi không đau đớn mấy về chỗ Khánh Ngọc không yêu tôi. Mà Khánh Ngọc sẽ đau đớn vô cùng, nếu không lấy được anh, nghĩa là được anh yêu. Kìa thì anh hãy khoan để tôi nói. Anh đừng thương tôi, trước anh phải thương Khánh Ngọc, và yêu nữa. Bởi đối với một con người như thế mà không yêu, thì chúng ta thực không còn là con người nữa. Anh sở dĩ bắt trái tim anh phải câm là vì anh không muốn cướp mối tình của tôi. Nhưng mối tình ấy, có bao giờ thuộc về tôi đâu mà bảo anh cướp. Mối tình ấy mọc ra ở trong lòng nàng từ khi gặp anh, vì anh mà có. Còn đối với trước kia, chẳng qua là một thứ cảm tình ẻo lả, chạm vào những sự thực gay go là chết ngay. Sao gọi là tình yêu được! Lúc ấy, tôi là cái bóng một người đàn ông, mà Khánh Ngọc thì cái bóng một người đàn bà. Làm sao có chân ái tình. Mà nếu có thì cũng là cái bóng của ái tình thôi. Bây giờ, nếu anh không yêu thì Khánh Ngọc đau đớn lắm; và cũng chẳng ích gì cho tôi. Mà có lẽ vì thế, tôi cũng đau đớn. Chắc chả cần phải nói, một khi đã sống một cuộc đời như anh, hay thấp hơn, một cuộc đời như tôi đã tập ở bên cạnh anh thôi, thì những cái hình thức bề ngoài và những thành kiến nhỏ hẹp chúng ta chẳng tính đến. Tôi biết anh không khuyến khích mối tình của Khánh Ngọc và anh đã tìm hết cách để làm cho thui chột đi, nhưng một khi mối tình đã chớm mọc lên trong một trái tim hào hùng như thế, còn cái gì làm thui chột cho được. Anh về hỏi cô Tuyết Vi xem Khánh Ngọc thờ phụng anh đến thế nào, hắt hủi một mối tình như thế là một cái tội. Bây giờ, tôi đã nhờ sống bên anh mà... thành... người rồi, có bằng cấp làm người rồi, tôi tưởng tôi có quyền nói với anh: "Không hèn nhát trước nguy nan, chưa đủ, phải không hèn nhát trước hạnh phúc nữa". Trọng Khang lấy que diêm cời cái "píp": - Tôi về nhà lúc bốn giờ. Tắm rửa, thay quần áo xong là lại thăm anh ngay. Em Tuyết Vi cũng chưa nói gì cho tôi biết cả. - Mà cần gì phải ai nói. Mối tình Khánh Ngọc đối với anh sáng lòe ở đôi con mắt. Tôi tưởng anh biết rõ hơn ai hết. - Tôi biết nhưng... - Nhưng... vì một tình thương không phải đường, anh không thành thật được với anh chứ sao. À, Marie đến kia rồi. Chắc biết tin anh về đi tìm đấy. Khánh Ngọc chạy đến nắm tay Trọng Khang: - Em lại cô Tuyết Vi, nghe nói anh về, em đến thẳng ngay đây, vì em biết thế nào anh cũng đến đây trước. Anh về không đánh dây thép cho em ra đón, tệ thế thì thôi. Chà anh đen quá, thật bóng như Tây đen. Em ở nhà với cô Tuyết Vi, hai chị em chỉ lo anh ngã nước. Anh Giáp, hôm nay phải lại cả đằng nhà ăn cơm đấy nhé. Không thấy Giáp trả lời, Khánh Ngọc quay lại đã chẳng thấy Giáp đâu. Khánh Ngọc bỗng thẹn, má đỏ ửng: - Ồ, lủi đi đâu chóng thế thì thôi. Mời các bạn đón đọc Trường Đời của tác giả Lê Văn Trương.