Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa - Nevil Shute

Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Siêu Thoát
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Siêu Thoát của tác giả Jodi Picoult & Trần Thị Nhật Trang (dịch). Jenna là một cô bé 13 tuổi, quyết tâm đi tìm người mẹ bị mất tích trong khu bảo tồn voi 10 năm trước đó. Lần theo cuộc tìm kiếm của Jenna và những người hỗ trợ em - một nhà ngoại cảm, một viên thám tử tư - câu chuyện đưa chúng ta vào thế giới loài voi vô cùng sống động, pha trộn với một chiều không gian khác - nơi nhà ngoại cảm có thể tiếp xúc với các linh hồn, và kết thúc không thể bất ngờ hơn. Một câu chuyện siêu thực gây xúc động sâu sắc về tình mẫu tử, tình đồng loại, với bút pháp xuất sắc của tiểu thuyết gia lừng danh Jodi Picoult. *** SIÊU THOÁT – CHUYỆN ĐỜI VOI VÀ CHUYỆN ĐỜI NGƯỜI Liệu những chương trình trên tivi, những gì bạn đọc được trong sách báo về các loài voi và cuộc sống của chúng là đầy đủ? Hãy để Jodi Picoult dẫn bạn vào thế giới huyền bí nhưng cũng hết sức chân thực về cuộc sống của loài voi.“Siêu thoát” là một cuốn tiểu thuyết được Jodi Picoult lấy cảm hứng từ những bài viết bà đọc được trên tạp chí National Geographic, kể về sự gắn liền của voi mẹ và voi con đến suốt đời, chỉ khi nào một trong hai chết thì mới thôi. Thêm vào đó là hoàn cảnh của gia đình bà, khi mà cả 3 cô con gái đều rời gia đình khiến bà cảm thấy cô đơn. “Siêu thoát” được nhà văn kể bằng ngôi thứ nhất nhưng với nhiều vai kể khác nhau. Tác giả đem đến cho ta những hiểu biết thú vị về các loài voi Châu Á, Châu Phi, những tập tính, thói quen, tâm lí của chúng cùng với mối quan hệ hết sức khăng khít của voi mẹ và voi con.  Trước tiên, Jodi Picoult đã khơi lên trong lòng các bạn đọc sự tò mò và thú vị qua những câu thơ: “Làm thế nào giải thích được vẻ đẹp của tôi Tao nhã nhưng hùng mạnh Một mầm sống trong tôi Cơ thể như được bơm căng lên bởi một cậu bé nghịch ngợm Đã có một thời tôi chỉ như một chú chim ưng Đã có một thời tôi nhỏ bằng một con sư tử Khi không là voi tôi mới nhận ra mình là ai. Kiệt sức rã rời, vẫn bị chủ mắng vì một trò mua vui bị hỏng Vì đôi chút buồn ngủ Vì đã tập luyện trong lều suốt cả đêm qua Người ta thường hay liên tưởng tôi với nỗi buồn sâu xa. Randall Jarrell so sánh tôi với một nhà thơ người Mỹ, Wallace Stevens. Tôi có thể thấy điều đó qua những vần thơ lộn xộn Nhưng trong tâm trí, tôi lại thấy mình là Elicot, Một người Châu Âu Một con người của sự rèn luyện Có ai mà ung dung được như thế Cam chịu âm thầm nhưng bồn chồn lo sợ Những cuộc trình diễn thăng bằng ngoạn mục Những tiết mục trên dây và leo lên chóp Không, tôi không thích những điều đó Loài voi chúng tôi tượng trưng cho tính khiêm tốn Trong những cuộc hành trình  u sầu đến chỗ chết Lặng lẽ không kèn không trống của chúng tôi Của những chú voi đã được học cách viết mẫu tự Hy Lạp bằng chân, Bạn có biết điều đó không? Tả tơi vì đau đớn, chúng tôi nằm ngửa nhìn lên trời, lăn lộn trên mềm cỏ, Không phải để cầu nguyện Mà như là một cách để quên đi. Cuộc hành trình dài đằng đẵng của chúng tôi Không phải là sự khiêm nhường mà là sự trì hoàn Đau đớn làm sao khi cơ thể nặng nề của tôi nằm xuống.” Đó là những lời tâm sự hết sức nhẹ nhàng mà thấm đượm bao nỗi buồn của chú voi trước những gì xảy ra ở hiện tại. Những lời đó tưởng chừng như là chú voi nói với chính bản thân nhưng thực chất lại là lời cảnh tỉnh cho con người, những việc làm tàn nhẫn mà con người đã làm đối với chúng, ép buộc chúng mua vui cho con người, v.v… Nhưng đâu đó, vẫn có những con người yêu quý và bảo vệ loài voi như Alice. Cô sinh ra và lớn lên gần gũi với thiên nhiên và động vật, đặc biệt là loài voi. Cô đã nghiên cứu, tìm hiểu, yêu thương và chăm sóc chúng, thậm chí vợ chồng cô còn xây một khu bảo tồn cho những chú voi, đưa chúng về chăm nom và yêu thương.  Tuy nhiên, “Siêu thoát” không chỉ là một câu chuyện về tình yêu thương giữa con người và loài voi mà còn là một câu chuyện kỳ bí về tình mẫu tử thiêng liêng cao cả. Jenna là một cô bé 13 tuổi đang tìm kiếm mẹ Alice mất tích 10 năm trước sau một tai nạn bi thảm ở khu bảo tồn. Đó là một nhiệm vụ đơn độc nhưng hết khó khăn và gian nan, vì ba em đang điều trị trong bệnh viện tâm thần và người chăm sóc em là bà ngoại em – người không hề muốn nhắc đến những chuyện này một chút nào. Jenna đã phải tìm hiểu và nhờ cậy Serenity Jones – một nhà ngoại cảm thất thế và Virgil Stanhope – một nhà thám tử tư nghiện rượu. Thế là cuộc hành trình của Jenna bắt đầu với những bí ẩn bị chôn vùi từ lâu nay dần được hé lộ qua những vết tích, bằng chứng còn sót lại suốt nhiều năm qua. Những hiểu lầm, thương tiếc, những câu chuyện cảm động đã dẫn dắt bạn đọc đi đến hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, để cuối cùng đi đến những kết luận không thể ngờ được.   Đối với tôi, đây là một câu chuyện hết sức cảm động và ý nghĩa không chỉ nói lên mối lên mối quan hệ giữa con người và loài voi mà còn là một câu chuyện tình mẫu tử thiêng liêng, đẹp đẽ. Tôi mong rằng câu “Siêu thoát”  sẽ đem đến cho bạn những điều ý nghĩa nhất.  Tsuki Nguồn: sachhay.vn *** Tóm tắt Jenna là một cô bé 13 tuổi sống tại thị trấn nhỏ Tuskegee, Alabama. Khi Jenna lên 3 tuổi, mẹ cô, Sarah, đã biến mất trong khu bảo tồn voi, nơi cô làm việc như một nhà khoa học. Kể từ đó, Jenna đã sống cùng ông nội và bà ngoại, nhưng cô luôn khao khát tìm thấy mẹ mình. Một ngày nọ, Jenna gặp gỡ một nhà ngoại cảm tên là Grace, người nói với cô rằng linh hồn của mẹ cô đang ở trong khu bảo tồn voi. Jenna quyết định đi tìm mẹ, và cô bắt đầu hành trình của mình với sự giúp đỡ của Grace và một viên thám tử tư tên là Virgil. Cuộc tìm kiếm của Jenna đưa cô đến với nhiều người và những câu chuyện khác nhau. Cô gặp gỡ những người làm việc trong khu bảo tồn voi, những người đã chứng kiến sự biến mất của mẹ cô. Cô cũng gặp gỡ những người có khả năng ngoại cảm, những người có thể giúp cô kết nối với linh hồn của mẹ cô. Càng đi sâu vào cuộc tìm kiếm, Jenna càng hiểu rõ hơn về mẹ mình và về thế giới của loài voi. Cô cũng học được cách đối phó với nỗi đau mất mát và cách tìm thấy sức mạnh để tiếp tục sống. Cảm nhận Siêu Thoát là một câu chuyện siêu thực gây xúc động sâu sắc về tình mẫu tử, tình đồng loại, với bút pháp xuất sắc của tiểu thuyết gia lừng danh Jodi Picoult. Câu chuyện được kể từ góc nhìn của Jenna, một cô bé 13 tuổi với tâm hồn nhạy cảm và trái tim đầy yêu thương. Jenna là một nhân vật rất dễ mến, và độc giả sẽ dễ dàng đồng cảm với cô bé trong hành trình tìm kiếm mẹ của mình. Tác giả Jodi Picoult đã xây dựng một thế giới loài voi vô cùng sống động và chân thực. Cô đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về loài voi, và điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm của cô. Những chi tiết về tập tính, hành vi, và văn hóa của loài voi được miêu tả một cách tỉ mỉ và hấp dẫn, mang đến cho độc giả những hiểu biết mới về loài động vật này. Bên cạnh đó, câu chuyện còn mang đến những thông điệp sâu sắc về tình mẫu tử, tình đồng loại, và ý nghĩa của cuộc sống. Tình mẫu tử là một tình cảm thiêng liêng và bất diệt, vượt qua mọi rào cản của không gian và thời gian. Tình đồng loại là sức mạnh giúp con người vượt qua những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Và ý nghĩa của cuộc sống là tìm kiếm và thực hiện những điều mình yêu thích, cũng như giúp đỡ những người xung quanh. Nhìn chung, Siêu Thoát là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, xứng đáng được đọc và thưởng thức. Đây là một câu chuyện sẽ khiến bạn xúc động, suy ngẫm, và thay đổi cách nhìn nhận về thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Siêu Thoát của tác giả Jodi Picoult & Trần Thị Nhật Trang (dịch).
Theo Đuổi Cassandra
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Theo Đuổi Cassandra của tác giả Lisa Kleypas & Muse (dịch). Tất cả mọi thứ đều có giá của nó... Tom Severin - Ông vua ngành đường sắt, người có đủ sự giàu có và quyền lực để thỏa mãn bất kì niềm khao khát nào ngay khi nó vừa xuất hiện trước mắt anh. Bất cứ cái gì - hay bất cứ ai - đều sẽ là của anh nếu anh yêu cầu. Tìm được một người vợ hoàn hảo với anh thật ra là chuyện dễ như ăn kẹo vậy - và ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy Lady Cassandra Ravenel, anh đã quyết tâm phải có được cô. Nhưng nàng Cassandra xinh đẹp và thông minh cũng quyết tâm chỉ kết hôn vì tình yêu - thứ mà anh không thể cho cô. Mọi thứ ngoại trừ cô ấy… Severin là người đàn ông hấp dẫn và lôi cuốn nhất mà Cassandra từng gặp, ngay cả khi anh có một trái tim băng giá. Nhưng cô không có hứng thú chung sống trong thế giới giả tạo ngoài mặt của một người đàn ông tàn nhẫn, người luôn chơi để giành chiến thắng. Khi một kẻ thù mới xuất hiện để phá hoại thanh danh của Cassandra, Severin đã nắm lấy cơ hội mà anh luôn chờ đợi. Và như mọi khi, anh luôn đạt được điều anh muốn - hay là không? Có một điều mà Tom Severin vẫn chưa học được từ cô dâu mới của mình: Đừng bao giờ đánh giá thấp một Ravenel. Cuộc săn đuổi để nàng Cassandra gật đầu đồng ý lấy anh có thể đã kết thúc. Nhưng cuộc đua để chiếm lấy trái tim cô mới chỉ bắt đầu ... *** Tóm tắt Tom Severin, một nhà tài phiệt giàu có và quyền lực, luôn có được những gì anh muốn. Tuy nhiên, khi anh gặp Cassandra Ravenel, anh nhận ra rằng cô ấy là người duy nhất anh không thể chiếm được. Cassandra là một người phụ nữ xinh đẹp, thông minh và độc lập, cô ấy không muốn kết hôn với một người đàn ông chỉ muốn lợi dụng cô. Severin quyết tâm có được Cassandra, anh ta sử dụng mọi thủ đoạn để buộc cô kết hôn với mình. Cassandra cuối cùng cũng đồng ý lấy anh, nhưng cô ấy chỉ làm vậy để bảo vệ danh tiếng của gia đình. Severin và Cassandra bắt đầu cuộc sống hôn nhân của họ với rất nhiều căng thẳng. Severin cố gắng chiếm lấy trái tim Cassandra, nhưng cô ấy chỉ càng xa lánh anh hơn. Tuy nhiên, khi một kẻ thù mới xuất hiện để đe dọa Cassandra, Severin đã phải đối mặt với thử thách lớn nhất trong cuộc đời anh: bảo vệ người phụ nữ anh yêu. Review Theo Đuổi Cassandra là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn cổ điển với những nhân vật hấp dẫn và cốt truyện lôi cuốn. Tác giả Lisa Kleypas đã xây dựng thành công một thế giới đầy xa hoa và hào nhoáng của giới thượng lưu Anh Quốc thế kỷ 19. Tom Severin là một nhân vật nam chính điển hình của tiểu thuyết lãng mạn: anh ấy là một người đàn ông giàu có, quyền lực và quyến rũ. Tuy nhiên, Severin cũng là một người đàn ông phức tạp và đầy mâu thuẫn. Anh ấy là một người đàn ông có trái tim băng giá, nhưng anh ấy cũng là một người đàn ông yêu thương và bảo vệ người phụ nữ anh ấy yêu. Cassandra Ravenel là một nhân vật nữ chính mạnh mẽ và độc lập. Cô ấy là một người phụ nữ có ý kiến ​​và không ngại đứng lên bảo vệ bản thân. Cassandra là một người phụ nữ đáng ngưỡng mộ và là một người bạn đồng hành tuyệt vời cho Severin. Cuốn tiểu thuyết có những tình tiết kịch tính và bất ngờ. Kleypas đã khéo léo đan xen những tình tiết lãng mạn với những tình tiết hồi hộp, tạo nên một tác phẩm hấp dẫn và khó quên. Đánh giá chung Theo Đuổi Cassandra là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn cổ điển đáng đọc. Cuốn tiểu thuyết có những nhân vật hấp dẫn, cốt truyện lôi cuốn và những tình tiết kịch tính. Mời các bạn mượn đọc sách Theo Đuổi Cassandra của tác giả Lisa Kleypas & Muse (dịch).
Trại Hoa Vàng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Học đường Trại Hoa Vàng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh. Trại hoa vàng là một truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, được xuất bản năm 1994. Với chủ đề tình yêu tuổi ô mai, với giọng văn hóm hỉnh, hài hước, kể về những việc làm, lời nói ngây ngô của tuổi học trò nhưng cũng đầy ý nghĩa, nói lên thứ tình cảm trong sáng có thể khiến người ta thay đổi bản thân mình, đó là tình yêu. Truyện đã được đăng dài kỳ trên báo Mực Tím. Câu chuyện xoay quanh Chuẩn – một cậu học sinh trong giai đoạn thanh thiếu niên và không thông minh lắm, thường bị gọi là “thằng đầu bò” nhưng lại có thú chơi hoa – cậu học tại trường cấp 2 nổi tiếng tại thị trấn với toàn học sinh dở. Nhưng thật bất ngờ, cậu thi đậu vào trường cấp 3 Trần Cao Vân chứa hầu hết là học sinh giỏi với sự ngạc nhiên, sửng sốt và vui mừng của gia đình. Chuẩn gặp được một nhóm “nữ quái” lớp 10A2 gồm: “Liên móm”, Thùy Dương và Cẩm Phô. Trong đó có Cẩm Phô là một cô gái hiền lành, dễ thương bảo vệ cậu khỏi những câu trêu chọc của “Liên móm”. Nhờ vào hai người bạn thân “Phú ghẻ” và Cường từ cấp 2, Chuẩn và Cẩm Phô trở thành một cặp. Dần dần, cậu cũng kết thân với “Liên móm” và Thùy Dương. Chuẩn là một học sinh lớp 10, rất yêu thích hoa, sống trong một thị trấn yên bình tại miền Nam Việt Nam. Nhà cậu gồm có ba, mẹ và nhỏ em gái tên Châu. Ba cậu là người rất nghiêm khắc và dữ dằn, mỗi khi cậu bị điểm kém thì sẽ bị ông đá vào hạ bàn. Có vài lần Chuẩn ăn cắp tiền của mẹ để đi mua hoa về trồng, đến khi mọi chuyện bại lộ thì cậu bị ba đánh đòn một trận. Ba Chuẩn mua một chiếc xe đạp rất đẹp nhưng không cho cậu chạy, ông hứa sẽ giao nó cho cậu với điều kiện cậu phải thi đậu vào trường Trần Cao Vân. Nhà Chuẩn bên cạnh nhà của nhỏ Thảo, cô bé hàng xóm dễ thương có tình cảm với Chuẩn, thường qua nhà giúp Chuẩn tưới cây làm vườn. Chuẩn không ngờ có ngày cậu được điểm cao vào trường Trần Cao Vân, ba cậu lấy tiền tiết kiệm ra đãi tiệc bà con trong khu vực để mừng việc con trai ông thi đậu. Chiếc xe đạp thuộc về Chuẩn, bạn bè cậu gọi nó là chiếc “Huy chương vàng” và cho bạn bè mượn chạy khắp thị trấn. Chuẩn có hai người bạn thân là “Phú ghẻ” và Cường. Phú ghẻ cũng học bên trường Trần Cao Vân trong khi Cường học bên trường Huỳnh Thúc Kháng. Vì nhà nghèo không có tiền mua quần áo mới nên mẹ Chuẩn phải chỉnh sửa lại quần cũ của bà cho cậu mặc đi học. Cái quần có miếng vá hình tam giác trên mông khiến Chuẩn xấu hổ, cậu không muốn ai thấy điểm nhạy cảm này. Trong lúc chào cờ, miếng vá trên quần Chuẩn bị mọi người nhìn thấy, họ gọi miếng vá đó là “tam giác Béc-mu-đa”. Chuẩn thường bị chọc ghẹo bởi “Liên móm”, bạn thân của Cẩm Phô và Thùy Dương. Liên móm chọc ghẹo Chuẩn trong khi Cẩm Phô đứng ra bênh vực cậu. Từ đó Chuẩn nhớ nhung và đem lòng yêu Cẩm Phô dù chưa thấy mặt cô. Cẩm Phô là con gái của hai vợ chồng chủ tiệm thuốc tây Hồng Phát, một trong ba nhà giàu nhất thị trấn, đặc biệt là nhà cô sát bên nhà Phú ghẻ. Chuẩn tình cờ gặp Cẩm Phô khi qua tìm Phú ghẻ, không may xe đạp của Cẩm Phô bị hỏng nặng sau cú tông của Chuẩn. Chuẩn càng vui mừng hơn khi biết Cẩm Phô cũng có tình cảm với mình. Ba mẹ của Cẩm Phô nghiêm khắc và dữ dằn hơn cả ba Chuẩn, không người bạn nào dám đến nhà Cẩm Phô. Một lần Chuẩn đánh liều đi thẳng vào tiệm thuốc để gặp Cẩm Phô, nhưng ba Cẩm Phô bất ngờ xuất hiện khiến Chuẩn phải giả vờ là người mua thuốc để rút lui. Biết được chỉ có một mình Cường mới có thể đến nhà Cẩm Phô để gặp thằng Luyện – em trai cô, Chuẩn phải nhờ Cường gửi tín hiệu hẹn hò cho Cẩm Phô. Chuẩn và Cẩm Phô bắt đầu hẹn hò ở quán chè Bà Thường. Chuẩn mua một cây đàn guitar, nhờ Phú ghẻ tập cho cậu đàn để có thể hát cho Cẩm Phô nghe. Nhỏ Châu và nhỏ Thảo là hai khán giả nghe Chuẩn đàn “thử nghiệm”, nhỏ Châu thấy buồn chán trong khi nhỏ Thảo cực kỳ thích, luôn luôn khen ngợi Chuẩn. Mãi mê tập đàn mà không quan tâm đến việc học ở trường, Chuẩn bị điểm kém khiến ba cậu nổi giận vô cùng. Ba cậu đã xé cuốn sách học đàn, đồng thời đập vỡ cây đàn của cậu. Một ngày nọ, Liên móm đem chuyện hẹn hò ở quán chè ra chọc ghẹo Chuẩn. Chuẩn nghi ngờ Phú ghẻ đã làm lộ chuyện hẹn hò của mình, nhưng thật ra thủ phạm chính là Cường. Cường giải thích rằng cậu kể chuyện hẹn hò của Chuẩn cho Thùy Dương nghe, rồi Thùy Dương kể lại với Liên móm. Liên móm liên tục chọc ghẹo Chuẩn khiến cậu buồn bã vô cùng. Chuẩn đem chuyện này tâm sự với Cẩm Phô và đòi chia tay, nhưng Cẩm Phô đề nghị cả hai đổi chỗ hẹn hò, từ quán chè chuyển qua nhà chị Cẩm Phiêu – chị gái của cô. Cả hai sẽ hẹn hò dưới vỏ bọc học chung để đảm bảo an toàn cho cuộc tình này. Phú ghẻ tiết lộ rằng Cẩm Phô học cực kỳ yếu và từng bị ở lại lớp, điều này càng khiến Chuẩn hoang mang hơn vì cậu và Cẩm Phô đều học yếu thì rất khó học chung. Nếu muốn học chung thì Chuẩn chỉ còn một lựa chọn duy nhất là phải giỏi hơn Cẩm Phô để có thể chỉ dạy cô. Từ đó Chuẩn cố gắng học chăm chỉ hơn, làm gia đình cậu bất ngờ, ba mẹ cậu vui lòng hơn. Chuẩn và Cẩm Phô bắt đầu gặp nhau tại nhà chị Cẩm Phiêu. Thời gian đầu dạy Cẩm Phô, Chuẩn thường la mắng lớn tiếng khiến cô nổi giận nói câu “tam giác Béc-mu-đa”, nhưng sau đó cô gửi thư xin lỗi Chuẩn. Cả hai tiếp tục học chung, lần này Chuẩn đã biết rút kinh nghiệm, giảng dạy bạn gái một cách nhẹ nhàng hơn. Từ khi Chuẩn cho Liên móm mượn cuốn sách thì cô không còn chọc ghẹo cậu nữa, ngược lại còn đối xử rất tốt với cậu. Nhờ có Chuẩn dạy mà Cẩm Phô trở thành học sinh giỏi, còn bản thân Chuẩn trở thành học sinh xuất sắc. Ba Cẩm Phô đã biết chuyện cả hai học chung, ông rất hài lòng vì Chuẩn đã giúp con gái ông học hành tiến bộ hơn. Chuẩn ngày càng hạnh phúc bên Cẩm Phô, Cường và Thùy Dương đã thành một đôi, còn Phú ghẻ và Liên móm có thể cũng sắp yêu nhau. Gần đến Tết Nguyên Đán, Chuẩn đem hoa đi bán kiếm được kha khá tiền, dự định mua quần áo mới cho nhỏ Châu và nhỏ Thảo, điều này làm nhỏ Thảo vừa vui vừa ngượng. Một ngày kia, Chuẩn bất ngờ khi thấy bạn bè đến nhà mình, nhóm bạn đầy đủ gương mặt quen thuộc như Phú ghẻ, Cường, Cẩm Phô, Thùy Dương, Liên móm và Luyện. Nhóm bạn biết Chuẩn có vườn hoa rất đẹp nên muốn đến xem thử. Ba Chuẩn kêu cậu vào trong nhà, cứ tưởng ông sẽ cho cậu một trận đòn vì tội rước bạn vào nhà, ngờ đâu ông tặng cho cậu cây đàn guitar mới. Được bạn bè đề nghị, Chuẩn đàn cho họ nghe và tặng cho mỗi người một cành hoa, riêng Cẩm Phô được cậu tặng một bó hoa hồng tươi thắm. Khi tặng hoa cho Cẩm Phô, Chuẩn nhìn qua nhà nhỏ Thảo thì thấy nhỏ Thảo chạy vụt vào trong nhà. *** Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Trại Hoa Vàng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh Trại Hoa Vàng là một cuốn tiểu thuyết ngắn gọn, nhẹ nhàng nhưng lại mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc. Câu chuyện kể về tình yêu tuổi học trò ngây ngô, trong sáng của Chuẩn và Cẩm Phô. Tuy nhiên, tình yêu của họ cũng gặp phải những thử thách, trắc trở, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả và đến được với nhau. Câu chuyện được kể bằng giọng văn hóm hỉnh, hài hước của Nguyễn Nhật Ánh. Tác giả đã khắc họa thành công những nhân vật tuổi học trò với những suy nghĩ, hành động ngây ngô, đáng yêu. Chuẩn là một cậu học sinh học kém nhưng lại rất yêu hoa. Cậu có một tình yêu đơn phương với Cẩm Phô, một cô gái xinh đẹp, giỏi giang. Cẩm Phô cũng có tình cảm với Chuẩn, nhưng vì gia đình nghiêm khắc nên cô không dám công khai. Câu chuyện đã mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái, nhưng cũng khiến người đọc phải suy ngẫm về tình yêu tuổi học trò. Tình yêu tuổi học trò là thứ tình cảm trong sáng, hồn nhiên nhất. Nó có thể khiến con người ta thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn. Một số điểm nổi bật của tiểu thuyết Trại Hoa Vàng Câu chuyện được kể bằng giọng văn hóm hỉnh, hài hước, mang đậm dấu ấn phong cách của Nguyễn Nhật Ánh. Các nhân vật được khắc họa sinh động, chân thực, đặc biệt là những nhân vật tuổi học trò với những suy nghĩ, hành động ngây ngô, đáng yêu. Câu chuyện mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái, nhưng cũng khiến người đọc phải suy ngẫm về tình yêu tuổi học trò. Đánh giá chung Trại Hoa Vàng là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại học đường. Câu chuyện nhẹ nhàng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực. Mời các bạn mượn đọc sách Trại Hoa Vàng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Mùa Thu Lá Bay
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Lãng mạn Mùa Thu Lá Bay của tác giả Quỳnh Dao. Tóm tắt Mùa Thu Lá Bay là một tiểu thuyết lãng mạn của tác giả Quỳnh Dao, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1966.  Review Mùa Thu Lá Bay là một câu chuyện tình yêu đầy đau khổ và bi kịch. Tuy nhiên, câu chuyện cũng mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đánh giá Mùa Thu Lá Bay là một câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy đau khổ và bi kịch. Câu chuyện mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về tình yêu và cuộc sống. Đây là một câu chuyện đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. Về mặt nghệ thuật, Mùa Thu Lá Bay được viết bằng một văn phong lãng mạn, sâu lắng. Quỳnh Dao đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lý nhân vật, đặc biệt là tâm lý của những người đang yêu. Câu chuyện cũng có nhiều tình tiết bất ngờ, hấp dẫn, khiến người đọc không thể rời mắt. Tuy nhiên, Mùa Thu Lá Bay cũng có một số hạn chế. Câu chuyện có quá nhiều nhân vật, khiến cho mạch truyện đôi khi bị rối. Ngoài ra, kết thúc của câu chuyện cũng có phần hơi vội vàng, chưa được giải quyết thỏa đáng. Nhìn chung, Mùa Thu Lá Bay là một tiểu thuyết lãng mạn đáng đọc. Câu chuyện mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thực, sâu sắc về tình yêu và cuộc sống. *** Một buổi chiều mùa đông tại thị xã Đài Bắc. Mẫn Vân Lâu thẩn thờ lê bước. Mưa rơi trên mái tóc, trên mặt, trên áo, thấm qua làn vải tê buốt thịt da. Những bước chân hoang bật định, chàng không muốn nghĩ đến bất cứ một cái gì! Những vũng nước dưới chân, những chiếc xe phóng vút qua, tiếng còi, tiếng người chửi rửa... Mặc, đầu óc chảng bây giờ là một khoảng trốn tối mò! Gió rít bên tai, ánh đèn màu chói chang trước mắt... Tất cả đều vô nghĩa trước một bóng dáng, một tiếng gọi buồn buồn Hàn Ni và tiếng dương cầm không bao giờ dứt... Đôi tay thon gầy trắng xanh khẽ nhấn phím đàn, âm thanh trong sáng nhẹ nhàng, nhạc khúc "Người Thợ Rèn" của Handel. "U Mặc Khúc" của Tchaikovsky, "Người Thiếu Nữ Tóc Nâu" của Debussy, và "Bi Khúc" của Mozart... Những âm thanh lúc vội vã, lúc trầm buồn, khi mơ mộng, như khuân mặt của Hàn Ni, như tiếng hát, như những lời thì thầm tình tự Hàn Ni, Hàn Ni! Những âm thanh hổn dộn, những tiếng gọi mời, những lời thương nhớ chất ngất Hàn Ni! Mẫn Vân Lâu cắn môi, bao âm thanh hỗn dộn như xoắn lấy óc chàng, Hàn Ni! Hàn Ni! Vân Lâu đụng vào một người khách qua đường. Lập tức có tiếng hét bên tai chàng: - Có say chưa mà đi đứng chẳng trông thấy ai hết vậy! Đúng, Vân Lâu có uống rượu thật, nhưng chàng thấy mình đâu có say. Ta chưa say mà, hình bóng của Hàn Ni vẫn ngời ngời trong trí ta mà! Hàn Ni, Hàn Ni, Hàn Ni em! Vân Lâu loạng choạng bước, chàng không còn thiết đến gì ngoài tiếng gọi tuyệt vọng như vang bên tai. Hàn Ni! Hàn Ni! Hai ngọn đều thật sáng, rồi có tiếng xe thắng gấp. Vân Lâu ngỡ ngàng đứng lại, nhìn vào xe, tên tài xế này lải nhải cái gì thế? Mặc, ta không cần nghe, không cần biết, vì đầu óc chàng ngập đầy bóng dáng Hàn Ni và tiếng đàn... Hình như có đám người bu quanh, có người giữ lấy chàng. - Hắn say mèm rồi, đưa hắn đến bót đi! A, họ định làm gì thế? Vân Lâu vùng vẫy cố thoát ra. Chàng đẩy đứng đám đông sang một bên, rồi cắm đầu cắm cổ chạy, mặc cho tiếng hét phía sau đuổi tới: - Bắt lấy hắn! Bắt thằng say rượu lại đi!  Có những bước chân dồn dập đuổi theo, Vân Lâu chạy bán sống bán chết. Có tiếng còi xe cảnh sát, tiếng còi inh ỏi, tiếng người... Tất cả như một bản nhạc đại hợp tấu với những nhịp trống dồn dập. Đúng rồi đây là khúc nhạc cuồng nhiệt của Hung Gia Lợi. Những ngón tay lướt nhẹ trên phím ngà! Vân Lâu vẫn chạy, chàng có cảm tưởng như mình đang đuổi theo khúc nhạc. Đột nhiên, một bức tường chắn ngang trước mắt, Vân Lâu tối sầm mặt mũi. Như chiếc bóng xì hơi chàng ngã nhào xuống. Mặt chàng úp xuống mặt đất lạnh!... Mưa vẫn rơi nhưng lòng Vân Lâu có những ánh lửa cháy sáng không bao giờ bị dập tắt. Chàng mở mắt ra, đất đen và ẩm kề bên môi, ánh đèn màu phản chiếu trên giòng nước lấp lánh! Đẹp tuyệt, Vân Lâu hé miệng ra với nụ hôn đầm ấm. - Hàn Ni em! Hàn Ni? Nhưng Hàn Ni bây giờ ở đâu? Hình như... Đầu chàng đau như búa bổ. Vân Lâu cố gắng đừng lên, tựa người vào tường. Rồi chàng thảng thốt gọi lớn: - Hàn Ni! Mời các bạn mượn đọc sách Mùa Thu Lá Bay của tác giả Quỳnh Dao.