Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công - Lord Beaverbrook

LỜI NGƯỜI DỊCH TUNG loại sách ích lợi trực tiếp cho các bạn trẻ hai mươi năm trước đây, tôi đã chọn cuốn MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG (Un art vivre) của André Maurois để dịch ra VIỆT NGỮ (1953). Lần này tôi chọn cuốn « BA CHÌA KHÓA MỞ CỬA THÀNH CÔNG » của Lord Beaverbrook, vì cuốn sách này có thể đem lại nhiều ích lợi thực tiễn cho các bạn trẻ muốn thành công trên đường đời. Hơn thế nữa, những kinh nghiệm bản thân của tác giả tác phẩm giá trị này được đúc kết như là một thứ cẩm nang tranh đấu trên đường kinh doanh có thể giúp các bạn thanh niên học hỏi để tiến mạnh tới đích. Dịch giả không ước mong gì hơn là các bạn trẻ bước vào đời xem qua cuốn sách này sẽ rút ra được những bài học thích đáng đưa đến một tương lai tốt đẹp. HOÀNG THU ĐÔNG *** LỜI MỞ ĐẦU CỦA J. P. KENNEDY Tôi chưa biết người nào đủ tư cách hơn là Huân Trước Beaverbrook để hướng dẫn thanh niên, cũng chưa thấy có người nào mà lịch sử thành công của đời sống cá nhân hấp dẫn bằng. Sinh ra trong một gia đình thanh bạch ở Tân Brimswich, tại Gia Nã Đại, Max Aitken (về sau trở thành Lord Beaverbrook) ngay từ lúc nhỏ tuổi đã tỏ ra những dấu hiệu có năng khiếu kinh doanh. Khi lên mười chẳng hạn, ông ta hết sức mong ước một chiếc xe đạp, song những may mắn để có được còn yếu kém hơn số lương ít ỏi của thân phụ ông, một mục sư. Thế rồi một hôm, có một hãng xà bông đề nghị treo giải thưởng một chiếc xe đạp mới cho đứa trẻ nào gởi về số giấy gói xà bông nhiều nhất. Thay vì đến các nhà hàng xóm để yêu cầu họ mua dùng loại xà bông có thứ giấy gói quý giá kia, Max nghĩ ra một sáng kiến đặc biệt. Ông ta đem tất cả số tiền dành dụm được ra mua các kết xà bông kia, đem bán lại mỗi bánh theo một giá hạ hơn trên thị trường – với điều kiện người mua trả lại giấy gói cho ông – và lập đi lập lại nhiều lần dịch vụ này. Nhờ thế mà Max đã đoạt được chiếc xe đạp, ghi vào bảng kinh doanh sự thành công đầu tiên trong số nhiều thành quả trên đường hoạt động dịch vụ. Đầu óc tháo vác và hiểu biết bén nhậy của ông được khai thác về sau đã mang lại cho ông tài sản, danh tiếng quốc tế, địa vị Nam Tước, các sở hữu địa ốc ở Sirrey, ở Jamaique, ở Nassau và Fredericton, một nông trại ở Ontario, một khách sạn đặc biệt ở Luân Đôn, một cao ốc văn phòng choáng ngợp bằng sắt và kính ở Fleet-Street, nhiều cổ phần lên đến nhiều triệu bảng Anh trong các đại xí nghiệp, làm chủ một tờ báo hàng ngày có số xuất bản vào hàng mạnh nhất trên thế giới. Buổi đầu Max kiếm ra tiền bằng cách bán báo, rồi mở rộng sự phát hành báo chí ở thị trấn quê nhà tại New Castle. Như thế còn chưa đủ, ông thành lập một hội và ấn hành tờ báo nhỏ của mình, NGƯỜI LÃNH ĐẠO (The Leader), trông nom lấy tòa soạn, sắp chữ và in bằng máy quay tay. Rời ghế nhà trường, Max làm việc ít lâu trong một tiệm tạp hóa, rồi đến một văn phòng pháp luật, trong lúc vừa tiếp tục học luật ở Saint John tại trường đại học Tân Brimswisk. Ông đã khổ công để giao thiệp, làm quen với người mới. Cho đến đỗi ông phải thuê dạ phục về mặc với hy vọng được mời dự một cuộc họp quan trọng có nhiều người tại Quốc hội. Ông chờ đợi cho đến giờ mở cửa buổi dạ hội, song tấm thiệp mời không bao giờ đến. Đau lòng vì cảm thấy bị gạt bỏ ra bên lề, Max nhất quyết phải thành công để có thể mở ra bất cứ cánh cửa nào bấy lâu vẫn khép kín đối với ông. Tin chắc rằng có tiền bạc mới có thể đến khắp mọi nơi, ông đã sử dụng tất cả đầu óc sáng tạo và hiểu biết của mình để làm ra tiền. Sau một thời kỳ ngắn ở trong hãng Bảo hiểm sinh mạng, ông đến Halifax và vào làm thư ký cho John F. Stairs, một tài phiệt già có nhiều quyền lợi lớn ở phía đông Gia Nã Đại. Ông chủ và người làm công trẻ tuổi chẳng mấy chốc trở thành đôi bạn. Max đề nghị với Stairs tập hợp lại nhiều ngân hàng nhỏ địa phương để tăng cường năng suất. Stairs cho phép Max thi hành dịch vụ, nhìn nhận là anh phải thành công. Anh chàng trẻ tuổi bị thử thách đã không lùi bước. Bấy giờ ông chưa được hai mươi mốt tuổi, gặp phải những giám đốc ngân hàng khắc khổ liên hệ đến dịch vụ, thảo luận với họ, thuyết phục họ là sáng kiến của ông đem lại lợi tức. Việc phối hợp các ngân hàng thành tựu, và lần đầu tiên trong đời Max được 10.000 đô la. Stairs lấy làm thích thú, mới giao cho ông vụ bán trái khoán của Hội Cưa và Thanh Tân-Ê-Cốt. Từ văn phòng này đến văn phòng nọ, Max đi tìm kiếm những khách hàng có thể mua, mang trái khoán trong một cái túi xà cột. Nhiệm vụ thành công và kiếm được một món lời riêng khá lớn. Max tạo lập « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia » với Stairs làm chủ tịch, còn ông thì trở thành tổng giám đốc. Trong những năm đầu của thế kỷ này, người ta chứng kiến buổi đầu điện khí hóa, đã trở nên vô cùng quan hệ trong đời sống hiện nay. Nhiều tài sản lớn lao đã được tạo nên nhờ thiết lập điện trong những nhà ở, kỹ nghệ, nông trại, xe lửa. Max đã dấn thân hết mình trong công cuộc phát triển lớn lao này, đem về lợi tức quan trọng cho « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia ». Khi John Stairs mất, phần cả Max sau khi giải quyết dịch vụ lên tới 50.000 đô la. Bấy giờ ông mới về ở Montréal, rồi lại bắt đầu trông nom tổ chức và thay đổi các hội, nhưng trên một phương diện to lớn hơn. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ ở Montréal, ông được Ngân hàng thế lực Montréal giao phó công việc kiểm soát hoạt động dịch vụ của ba hội xi măng Gia Nã Đại. Trong lúc hoàn thành nhiệm vụ này, Max nhận thấy khả năng phối hợp cả ba hội lại và phụ thêm các hãng xi măng khác nữa để thành lập một hội liên hiệp mới quan trọng. Việc này đòi hỏi phải góp một số vốn 38 triệu đô la, một số tiền hết sức lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử Gia Nã Đại, và sẽ lợi ích cho nền kinh tế chung trong nước. Ngân hàng Montréal và các xí nghiệp Gia Nã Đại khác chấp thuận kế hoạch và ủng hộ ông. Tuy vậy, trong lúc đang thương thuyết, một phe liên hệ đề nghị đem một công ty xi măng của mình nhập cuộc. Max từ chối, cho rằng lời yêu cầu bán công ty kia quá cao và nhận thấy dịch vụ không được lương hảo về mặt tài chính. Tác giả đề nghị liền rút lui khỏi buổi họp đang tiếp tục, phản đối Max trước Nghị viện, buộc tội ông đã tạo nên những tiền lời bất hợp pháp khi phóng đại giá trị tư bản pháp định của Hiệp hội. Như vậy là Max phải đương đầu với một đối thủ quỉ quyệt, có nhiều thế lực để đánh ngã bất cứ một thanh niên nào dưới ba mươi tuổi. Song Max đã không chiến bại. Anh chỉ có việc trình bày những dữ kiện ra trước Nghị viện và dân chúng, thế là chấm dứt nội vụ. Một khi bắt đầu, hiệp hội tỏ ra là một cơ sở tuyệt hảo và làm cho giá xi măng hạ xuống khắp Gia Nã Đại. Tuy vậy, ấm ức xót xa vì những lời lẽ rỉ tai của bọn thù nghịch loan truyền trong dân chúng chống lại ông, Max thanh toán phần của mình lên tới gần năm triệu đô la lúc bấy giờ, và tuyên bố là từ bỏ mãi mãi giới kinh doanh. Thời ấy ông đang ở lợi thế để lưu ý đến việc thực hiện một hoài bão vẫn ôm ấp bấy lâu : là đồng nhất những địa phận cách biệt của Đế quốc Anh thành một khối thịnh vượng hơn bằng cách hạ bỏ hàng rào thuế quan. Ông bắt đầu suy nghĩ thực sự đến việc nhảy vào chính trường để tranh đấu cho một sự cải cách giá biểu thuế quan và như thế là đảm bảo cho một sự đoàn kết chặt chẽ hơn của Đế quốc Anh. Ông đã gặp Bonar Law, một ngươi đồng hương ở Tân Brimswich, hoạt động chánh trị từ vài năm nay ở Anh. Max đến Luân Đôn, đi gặp Law, nói chuyện cải tổ quan thuế và Đế quốc Anh. Law hết sức quan tâm đến. Một tình bạn nồng ấm và lâu dài bắt đầu. Ít lâu sau đó, khi Law bắt đầu cuộc vận động bầu cử cho phe Đoàn kết, ông yêu cầu Max giúp cho một tay. Max mới quyết định đứng chung liên doanh với Law. Ông ra ứng cử trong một khu vực ở Lancashire. Khi bắt đầu cuộc vận động tranh cử, chỉ còn có mười ngày nữa thôi, mà ông lại phải đương đầu với một đối thủ có tên tuổi. Nhưng Max không sợ. Ông đã có dịp làm mau lẹ và đâu ra đấy. Ông liền thảo một kế hoạch vận động có thể giúp mình gặp tất cả những cử tri trong địa hạt. Max chưa có một kinh nghiệm nào về hùng biện chính trị, và hơn thế nữa giọng nói Gia Nã Đại của Ông làm cho cử tri Anh nghe lạ tai lắm. Bởi thế khi giới thiệu bạn cùng liên doanh, Bonar Law đã phải nói : « Xin quí vị đừng xét đoán bạn tôi qua các bài diễn văn đầu tiên. Tôi xin bảo đảm cùng quí vị rằng Ông ta sẽ giúp được nhiều việc cho khu vực nào bầu ông lên ». Law đã lo ngại không đúng. Thái độ chân thành của Max, sự ngay thật gạt bỏ những mánh lới mị dân, tất cả làm cho dân chúng chất phác ở Lancashire khoái chí tử. Max đã thắng lợi với một đa số đáng kể. Ông ta không gây sôi nổi trong năm đầu tiên ở nghị trường. Ông nghiên cứu thấu đáo những vấn đề chính trị Anh và liên kết bạn hữu trong tất cả các giới công luận, cũng như ông đã từng làm trong giới kinh doanh. Ông áp dụng cách trau dồi tuyệt hảo tài hùng biện của mình bằng lối chấp nhận đứng lên phát biểu khắp mọi nơi. Dần dà ông trở thành một nhân vật chính trị. Ông được trao tặng chức hiệp sĩ năm 1911. Mặc dù hết sức gắt gao, chính trị chỉ thu hút một phần hoạt động hăng say của Sir Max. Tuy đã tuyên bố là rời bỏ kinh doanh, ông trở thành chủ tịch Ngân hàng Thuộc địa và Công ty tổ hợp Công binh, trong lúc ông có mặt tại Luân Đôn từ một năm nay. Năm 1912, trong một tháng, đầu óc tháo vát của Ông đã phá vỡ những kỷ lục của ông. Ông điều đình mua tất cả những mễ cốc chở đến trong cùng một tỉnh,135 kho mễ cốc và hai máy xay, cộng với 1.370 đô la tài sản địa ốc ở Montréal, cũng trong thời gian ấy, ông làm tăng số vốn của một hội kim khí từ 200.000 đô la lên đến một triệu và gia tăng sự sản xuất theo đà ấy. Nhưng đến năm 1.913, ông đã trả giá cho nhưng năm lao lực không ngừng, phát bệnh nặng. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, ông khám phá ra rằng tinh thần tháo vát và sự hiểu biết mà ông đã trông vào để tạo nên sự nghiệp, không đáng kể gì thiếu sức khỏe. Cho nên, ông tự hứa là ngừng bớt hoạt động. Bệnh trạng đã giúp ông tìm thấy một chìa khóa thứ ba, cộng thêm với hai chìa khóa đã đưa ông tiến lên khá xa. Người ta thấy Sir Max miễn cưỡng tỏ ý quyết liệt từ chối nhiều đề nghị hấp dẫn của người ta mang đến tận văn phòng ông tại Thredneedle Street. Một nghiệp vụ hiếm có thời bấy giờ có vẻ hình như là một lỗi lầm của thời đại lúc ấy, nhưng sẽ bộc lộ là nguyên nhân của một sự thành công lớn lao, đó là việc mua một số cổ phần nhỏ của nhựt báo xuất bản ở Luân Đôn, tờ Daily Express. Thế rồi vụ Sarajevo châm lửa vào là thuốc súng. Chiến thanh thế giới thứ nhứt xảy đến, và những quyết định hạn chế hoạt động của Max liền quên đi. Sir Max tự cảm thấy phải nhảy vào cuộc đấu tranh vì chính phủ Anh dấu kín không cho dân chúng biết những tin tức xấu từ mặt trận đưa về từng giờ. Ông nghĩ rằng người ta phải nói sự thật, dù là tốt hay xấu, và chỉ sau khi biết rõ các tai họa thì đế quốc Anh mới cảm thấy cần đoàn kết với nhau để nổ lực chiến thắng. Ông muốn nhất là những đồng bào Gia Nã Đại của ông biết rõ sự thật, chắc hẳn rằng họ sẽ chịu nổi và sẽ vì thế mà hành động quyết liệt. Sự khẩn khoản của ông gắt gao đến độ người ta phải cử ông làm đại diện cho chính phủ Gia Nã Đại ở mặt trận. Bắt đầu bằng mặt trận ở Ypres năm 1915, Sir Max nói cho thế giới hay những nỗi khốn khổ và tính chất anh hùng của binh sĩ Gia Nã Đại ở chiến trường. Trong khi chính phủ Anh còn dấu diếm dưới các hình thức tốt đẹp những sự thiệt hại ghê gớm của binh sĩ, thì Sir Max không rời nhiệm vụ đã định, chấp nhận cho những thông tín viên chiến tranh được tự do vào các phòng tuyến Gia Nã Đại và cung cấp cho họ tất cả những tin tức đòi hỏi, nếu không phương hại đến bí mật quân sự. Việc làm của ông có kết quả. Từ Tân Brunswich đến Vancouver, người Gia Nã Đại nỗ lực gấp đôi, khoác đầy mình danh dự. Tại Luân Đôn, hành động của Sir Max cũng được chú ý vì đến năm 1917, ông được phong làm huân tước Beaverbrook. Vài tháng sau, ông kiểm soát hoàn toàn nhựt báo Daily Express. Tất cả mọi người ở Fleet Strees đều cho rằng ông đã nhắm quá cao. Huân tước Northcliff, ấn hành tờ báo thế lực Daily Mail, tiên đoán rằng Max sẽ tiêu tan đến đồng xu cuối cùng vì báo chí. Cuối năm ấy, tờ Daily Express chứng tỏ thành công. Tuy vậy, Beaverbrook không ngủ trên những vòng hoa chiến thắng, đưa ra nhiều câu hỏi, nghiên cứu, hoàn bị kiến thức về nghề làm báo như ông đã từng hoàn bị kiến thức về tài chánh, kinh doanh. Nhiệm vụ nặng nề trông nom một nhựt báo bán chạy chưa đủ chiếm hết thì giờ, năm 1918 ông nhận giữ chức bộ trưởng Thông tin và hoàn thành nhiệm vụ khá tốt đẹp. Bao nhiêu nỗ lực làm việc đã được tưởng thưởng. Năm năm sau khi ông chủ trương tờ Daily Express vượt con số một triệu ấn bản. Ngày nay, các cơ sở xuất bản của ông ở Luân Đôn, Manchester và Glasgow, cùng hai tờ báo khác mà Beaverbrook lấy về sau đó, những nhựt báo buổi chiều ở Luân Đôn và Glasgow, Evening Standard và Evening Citizen, tổng cộng có năm triệu độc giả. Khi những đám mây đen vần vũ của chiến tranh thế giới thứ hai nổi lên, Beaverbrook (đã sáu mươi tuổi) thuộc nhóm ít người hướng dẫn cho nước Anh đang hướng về họ. Có dịp may được tham dự gần cuộc chiến đấu của những lũ khổng lồ, tôi có thể xác nhận với tính cách chứng nhân, rằng huân tước Beaverbrook, có lẽ hơn ai hết, là một trong số người tạo nên chiến thắng bằng cách làm cho nước Anh kiêu hãnh bị chiến bại đè nặng, đã ngẩng đầu lên trở lại. Vì cuộc chiến đã thắng lợi trên không nhờ R.A.F. (Không lực Hoàng gia), trong tháng chín năm 1940. Huân tước Beaverbrook, với tư cách là Tổng trưởng sản xuất Hàng không, đã cho « vài người » làm ra vô số phi cơ để chiến thắng trận đánh Anh quốc cho « bao nhiêu người ». Khi Thủ tướng Winston Churchill đưa ông lên làm Tổng trưởng Không quân năm 1940, Beaverbrook không để mất thời giờ chờ đợi chính phủ cấp cho những văn phòng cần thiết cho công việc bề bộn này. Ông lập tức biến đổi cơ sở của mình thành Đại bản doanh tạm thời, soạn thảo ngay cho mình và các cộng sự viên trực tiếp một kế hoạch làm việc bắt đầu từ tám giờ mỗi sáng để kết thúc vào hai giờ sáng hôm sau. Trong ngày hôm ấy, ông đến viếng bất ngờ một cuộc họp của những tay cầm đầu kỹ nghệ hàng không thường vẫn diễn ra. Ông tuyên bố rõ rệt với họ rằng bổn phận của họ không phải là mất thì giờ nhóm họp với nhau để bàn cãi các vấn đề. Vận mệnh của đất nước đang lâm nguy. Họ chỉ có một công việc độc nhất để làm : trở lại xưởng của họ để đóng máy bay. Ông đã nói với họ một cách hết sức giản dị, song thông điệp của ông mang đầy ý nghĩa : nếu họ muốn cho đất nước của mình còn tồn tại, thì họ phải hành động gấp, gấp hơn bao giờ hết và cho các phi công Anh phương tiện, bất cứ phương tiện gì, để hạ oanh tạc cơ của Hitler. Một ủy ban chủ nhân đem trình với ông một kế hoạch ba tháng sắp tới, ông mời họ về luôn, tuyên bố ngay rằng ông không để ý đến một kế hoạch cho ba tháng sắp tới. Họ có thể cho ông bao nhiêu máy bay trong ngày mai đây ? Không bận bịu vì giấy tờ, gạt bỏ tất cả những gì trên lối đi, ông chiếm các khoảng đất thuộc các cơ quan khác của chính phủ để làm xưởng máy, thu nhận những nhà chuyên môn tài giỏi có thể kiếm được, bất chấp các sự liên lạc của họ với chính phủ và quốc tịch của họ ; ông chỉ cần sản xuất máy bay với bất cứ giá nào. Kết quả ra sao ? Trong vòng một năm, Beaverbrook làm tăng con số sản xuất máy bay Hurricane từ 500 lên đến 2.850, máy bay Spitfire từ 430 lên đến 1.500. Ông giao cho không lực Hoàng gia (R.A.F.) 9.000 máy bay được sửa chữa trong một năm và 12.000 động cơ xét lại. Thương thuyết ký hiệp ước với chính phủ Hoa Kỳ, ông đã nhận được thêm 3.000 máy bay mỗi tháng. Ông kêu gọi những bà nội trợ Anh đi quyên hàng tấn nhôm phế thải. Ông mở một chiến dịch lớn hô hào gởi tặng phẩm để có « một phi cơ ghi tên bạn ». Ban đầu các nhóm gởi tiền cho ông, để mua các phi cơ lẻ loi, nhưng rồi chẳng mấy chốc, ông nhận được nhiều tiền để sắm cả bao nhiêu phi đoàn. Cuối chiến dịch này, ông nhận được các chi phiếu từ 25.000 đến 100.000 đô la, cùng một chi phiếu một triệu đô la. Khi Huân tước Beaverbrook bước vào bộ Không quân, vấn đề lớn đối với Anh quốc là tìm đủ số máy bay cho phi công, một năm sau, vấn đề là tìm ra đủ số phi công cho tất cả những máy bay sản xuất. Khi hòa bình trở lại, huân tước Beaverbrook quay về với báo chí của ông, tiếp tục cuộc đấu tranh cho sự thống nhất hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các địa phận của Đế quốc Anh. Ông hết lòng ủng hộ vị trí Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Triều tiên, đến độ sa thải một viên chủ bút đã tỏ ra xem thường việc đó. Từ đấy, ông luôn luôn làm việc theo hướng làm sao cho Anh và Mỹ hiểu biết nhau hơn. Ông cho rằng việc liên lạc tốt đẹp giữa hai nước nầy là một cần thiết hệ trọng cho thời đại chúng ta. Sau gia đình, ông vẫn yên nhất là Đế quốc Anh : lý tưởng của ông là những vấn đề quốc tế phải do sự đoàn kết Anh Mỹ chi phối. Trong đời ông chẳng làm việc gì mà không phục vụ cho Đế quốc Anh. Điều đó cũng thực như việc ông phối hợp các ngân hàng nhỏ ở Halifax để có thể phục vụ thân chủ tốt hơn, việc ông hăng say sản xuất phi cơ trong thời chiến đã qua. Cho đến các đại nhựt báo của ông, trước tiên đối với ông không phải là phương tiện để làm ra tiền. Phần lớn những số tiền do các báo mang lại, ông đều đem tái đầu tư để phát triển báo chí và thúc đẩy phục vụ Đế quốc Anh tốt đẹp hơn.   J. P. KENNEDY Mời các bạn đón đọc 3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công của tác giả Lord Beaverbrook.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm
Tại sao lại có quá nhiều khoảng cách giữa những điều mà các công ty biết là họ nên làm với những việc họ thực sự làm? Tại sao lại có quá nhiều các công ty không thể áp dụng những kinh nghiệm và kiến thức mà họ đã phải rất nỗ lực mới tích lũy được? Khoảng cách từ nói đến làm (The Knowing-Doing Gap) là cuốn sách đầu tiên đối mặt với thách thức biến kiến thức về cách nâng cao hiệu suất hoạt động thành hành động thực sự tạo ra những kết quả có thể định lượng được. Trong cuốn sách này, Jeffrey Pfeffer và Robert Sutton, những tác giả và giảng viên nổi tiếng, đã xác định nguyên nhân của khoảng cách từ-biết-tới-làm và đưa ra cách lấp đầy khoảng cách đó. Thông điệp trong cuốn sách rất rõ ràng - các công ty muốn biến kiến thức thành hành động phải tránh xa "bẫy nói suông"(smart talk trap). Những kế hoạch, phân tích, cuộc họp, buổi trình bày của nhà điều hành để truyền cảm hứng cho công việc không thể thay thế cho hành động. Những công ty mà hành động dựa trên kiến thức sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi, sự cạnh tranh nội bộ, biết được cái gì quan trọng và củng cố vai trò người lãnh đạo, người vốn hiểu rõ công việc của từng nhân viên trong công ty. Các tác giả lấy ví dụ từ hàng tá công ty để chỉ ra tại sao một số có thể vượt qua khoảng cách từ-biết-đến-làm, một số dù cố nhưng không thể và một số khác tránh được ngay từ đầu. Khoảng cách từ nói đến làm chắc chắn là cuốn sách hữu ích đối với những giám đốc điều hành ở mọi nơi trên thế giới hàng ngày đang phải đấu tranh để giúp công ty của họ vừa biết lại vừa làm được những gì họ biết. Đây là một cẩm nang thực tế, hữu ích trong vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp ngày nay. TÁC GIẢ : Jeffrey Pfeffer là một nhà lý luận kinh doanh người Mỹ. Ông là giáo sư chuyên về Hành vi tổ chức tại Trường Cao học Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, và được coi là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay. Robert I. Sutton là giáo sư Khoa học và Kỹ thuật Quản lý tại Đại học Stanford. Sutton đã viết 5 quyển sách trong đó có "The No A** hole Rule: Building a Civilized Workplace and Surviving One That Isn't" nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và đã giành giải Quill Award dành cho sách kinh doanh hay nhất năm 2007. *** Biết phải làm gì thôi chưa đủ Tại sao chúng ta đổ bao công sức vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, nghiên cứu kinh doanh, rồi sách vở, bài viết, nhưng lại có quá ít thay đổi trong hành động thực tế của các nhà quản lý và tổ chức? Năm 1996 có hơn 1.700 cuốn sách kinh doanh được xuất bản ở Hoa Kỳ, và con số này ngày càng tăng. Rất nhiều trong số đó chứa đầy những phân tích và công thức giống nhau, chỉ khác về ngôn ngữ và hình ảnh, và đặc biệt, chẳng có gì khác những cuốn sách được xuất bản trước đó. Trên thực tế, vô số ý tưởng tự xưng là mới ra năm nay đều đã xuất hiện trong những cuốn sách được in từ hàng thập kỷ trước. Dù thế, các cuốn sách mới này vẫn được thị trường đón nhận vì những ý tưởng đó vẫn chưa được thực hiện dù được coi là hữu dụng và được nhiều người biết đến. Vì vậy, các tác giả vẫn tiếp tục cố gắng, một phần bằng cách thay đổi mẫu mã kiểu dáng và cập nhật thông tin, để làm thế nào đó khiến các nhà quản lý không chỉ biết, mà còn áp dụng những gì họ nắm được. Và các nhà quản lý tiếp tục mua những cuốn sách đầy rẫy những điều họ đã biết bởi họ hiểu rằng chỉ biết thôi chưa đủ. Họ hy vọng rằng việc mua và đọc thêm một cuốn sách, biết đâu đấy, sẽ chuyển hóa kiến thức đó thành hành động tổ chức. Mỗi năm, các tổ chức đổ hơn 60 tỷ đô-la vào đào tạo, đặc biệt là đào tạo quản lý. Phần nhiều trong các hoạt động đào tạo đó, với những chủ đề như Quản lý Chất lượng Toàn diện (Total Quality Management − TQM), dịch vụ khách hàng, xây dựng lòng trung thành của khách hàng, khả năng lãnh đạo và thay đổi cơ cấu, đều dựa trên những kiến thức và nguyên tắc về cơ bản là vĩnh cửu: không thay đổi và không được thay đổi. Dù vậy, quá trình đào tạo thường lặp đi lặp lại. Nhưng dù chất lượng nội dung, cách truyền đạt, hay tần suất lặp lại đến đâu đi nữa, đào tạo quản lý vẫn không thể thay đổi các thực tiễn tổ chức. Giáo sư Mark Zbaracki của Đại học Chicago đã nghiên cứu quá trình đào tạo Quản lý Chất lượng Toàn diện tại 5 tổ chức có đội ngũ cán bộ cấp cao tin rằng phương pháp TQM có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như là quá trình đào tạo đó đã thay đổi cách con người làm việc. Thế nhưng Zbaracki thấy rằng các phương pháp định lượng TQM không hề được sử dụng trong 4 tổ chức và chỉ được dùng một cách hạn chế ở tổ chức thứ 5. Kết quả này không phải chỉ xảy ra ở TQM, mà chúng tôi đã thấy chuyện tương tự xảy ra liên tục trong quá trình nghiên cứu. Mỗi năm, các tổ chức đang cần lời khuyên tiêu tốn hàng tỷ đô-la vào các dịch vụ tư vấn quản lý – ước tính là 43 tỷ đô-la vào năm 1996. Nhưng lời khuyên hiếm khi được áp dụng. Một nhà cố vấn, khi thuyết trình thuyết phục một ngân hàng lớn của Mỹ giao việc cho mình, đã bật một slide chứa các khuyến nghị từ 4 nghiên cứu được thực hiện 6 năm trước cho ngân hàng này. Cả 4 bộ nghiên cứu đều đi đến cùng một kết luận, điều này không có gì ngạc nhiên vì đều do những con người rất thông minh tuy từ bốn hãng khác nhau nhưng được cung cấp các thông tin về cơ bản là giống nhau thực hiện. Người thuyết trình, người đang bán việc áp dụng và thay đổi hơn là bán dịch vụ phân tích, đã hỏi những nhà điều hành ngồi đó, “Tại sao các vị lại muốn trả tiền để nhận vẫn câu trả lời đó lần thứ năm?” Hãng của ông đã nhận được hợp đồng. Một ví dụ nữa về việc biết-nhưng-không-làm trong thế giới cố vấn quản lý: hai nhà cố vấn của một hãng hàng đầu làm việc cho một công ty điện lớn ở Mỹ Latinh đang đối mặt với quá trình bãi bỏ các quy định. Họ đều rất chán nản khi biết rằng ban quản lý đã có một tài liệu dày 500 trang, từ 4 năm trước, với các kế hoạch và khuyến nghị chi tiết, do một hãng cố vấn khác làm trong hợp đồng trước. Họ báo cáo lại: Tài liệu đã có rất tốt. Nó cung cấp các nghiên cứu đánh giá chi phí tiêu chuẩn từ các công ty dân dụng hiệu quả nhất trên thế giới, các tóm tắt về các hệ thống đào tạo thành công nhất ở các công ty công nghiệp khác, và các lịch trình thực hiện khá chi tiết... Do phân tích của chúng ta cũng dựa trên chính... các thông tin được đưa cho các nhà cố vấn từ bốn năm trước... các khuyến nghị của chúng ta về cơ bản là y hệt. Vấn đề không phải là phân tích, mà là thực hiện. Mặc dù chúng ta có thể xác định được các vùng mới cần cải thiện, nhưng cốt lõi gần như giống hệt tài liệu cũ... Khách hàng đã có từ trước các thông tin chúng ta đang đưa cho họ. Mỗi năm, hàng trăm trường kinh doanh ở Hoa Kỳ đào tạo ra hơn 80.000 thạc sĩ quản trị kinh doanh và thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các chủ đề kinh doanh. Nghiên cứu và giáo dục kinh doanh đang tăng lên cả về phạm vi và tầm quan trọng trên khắp thế giới. Dù thế, việc chuyển hóa quá trình nghiên cứu và đào tạo quản lý này thành thực tiễn hoạt động diễn ra rất chậm chạp và thất thường. Có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên kết giữa việc nhân sự được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh với việc tổ chức hoạt động hiệu quả. Rất nhiều hãng hoạt động tối ưu – như Southwest Airlines, Wal-Mart, The Men’s Wearhouse, ServiceMaster, PSS/World Medical, SAS Institute, AES, Whole Foods Market, và Starbucks – không tuyển người từ những trường kinh doanh hàng đầu và không đặt nặng về vấn đề bằng cấp trong hoạt động nhân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rằng “những điều được dạy trong trường đại học hay trường kinh doanh không thực sự chuẩn bị cho các nhà quản lý tương lai những kiến thức thực tế về quản lý.” Một báo cáo cho thấy 73% các thạc sĩ vừa tốt nghiệp chương trình MBA khi được hỏi đã nói là “các kỹ năng MBA của họ được dùng rất ít hoặc không dùng gì trong công việc quản lý đầu tiên của họ.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bao nhiêu nỗ lực đổ vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, các nghiên cứu tổ chức và rất nhiều bài viết, sách báo, nhưng lại có quá ít thay đổi trong thực tiễn quản lý như vậy? Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao chút ít thay đổi trong quản lý thực sự xảy ra đó lại gặp quá nhiều khó khăn thế không? Tại sao mà cuối các khóa đào tạo hoặc các cuốn sách, nhiều nhà lãnh đạo nói là đã “sáng ra” và “khôn lên” nhưng vẫn không thay đổi được gì trong tổ chức của họ? Chúng tôi cũng đã tự hỏi điều đó và đã lên đường thực hiện nhiệm vụ thám hiểm một trong những bí ẩn lớn nhất về quản lý tổ chức: Tại sao kiến thức về những việc cần làm thường xuyên không thể dẫn tới hành động hoặc hành vi nhất quán với kiến thức đó? Chúng tôi gọi đây là vấn đề từ-biết-đến-làm (knowing-doing problem): Thách thức đến từ việc biến kiến thức nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thành hành động nhất quán với kiến thức đó. Cuốn sách này đại diện cho những gì chúng tôi học được về các nhân tố tạo nên khoảng cách từ-biết-đến-làm, lý do và cách thức một số tổ chức có thể áp dụng kiến thức của họ thành công hơn số còn lại. Chúng tôi đã mất 4 năm để học hỏi về những điều tạo ra khoảng cách từ-biết-đến-làm và cách thu hẹp khoảng cách đó, cũng như một số cách giúp các tổ chức né tránh được khoảng cách đó ngay từ đầu. Bắt đầu bằng việc lùng sục các văn bản học thuật cũng như đại chúng để tìm kiếm các câu chuyện, các tình huống cụ thể, các nghiên cứu diện rộng của nhiều hãng có thể cung cấp cách nhìn thấu đáo về vấn đề từ-biết-đến-làm. Đã có các bằng chứng cho thấy mọi ngành công nghiệp đều có các tổ chức gặp phải “căn bệnh” này. Nhưng hiếm có câu trả lời thỏa đáng nào về nguyên nhân hay cách chữa nó. Vì thế chúng tôi thực hiện hàng tá các nghiên cứu định tính và định lượng về các vấn đề từ-biết-đến-làm trong các tổ chức, từ các hãng dịch vụ tài chính, thiết kế sản phẩm, tới các tập đoàn sản xuất truyền thống chuyên “cắt gọt kim loại”, các công ty khai thác mỏ, công ty sản xuất điện, và các chuỗi nhà hàng và bán lẻ. Chúng tôi cũng đã dạy ở Đại học Stanford, trong cả trường kinh doanh và kĩ thuật, nơi các sinh viên quản trị của chúng tôi thực hiện khoảng 100 bài tập tình huống của riêng họ về các vấn đề từ-biết-đến-làm và các vấn đề này có thể đã và sẽ được giải quyết thế nào. Chúng tôi đã kiểm tra diện rộng một loạt các phương cách tổ chức để tìm hiểu về khoảng cách từ-biết-đến-làm. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung hơn vào một bộ những phương thức, dù hiếm được thực hiện, nhưng hầu hết các nhà quản lý đều biết đến, được tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức, và đã cho thấy có khả năng tăng cường hiệu suất tổ chức một cách nhất quán: chúng được gọi là phương thức quản lý hiệu suất cao hay cam kết cao độ. Các phương thức này đã được mô tả và ảnh hưởng tích cực của chúng đến hiệu suất hoạt động đã được phân tích trong rất nhiều bài viết và sách vở. Chúng ta sẽ dùng đến bằng chứng này nếu cần để hỗ trợ luận cứ về khoảng cách từ-biết-đến-làm, nhưng sẽ không đưa ra các mô tả chi tiết về từng phương thức hoặc một đánh giá chuyên sâu về bằng chứng cho thấy hiệu quả tích cực của nó đối với hiệu suất hoạt động. Mối quan tâm của chúng ta nằm ở việc nắm rõ được những rào cản của quá trình chuyển hóa kiến thức thành hành động và cách thức một số hãng đã vượt qua các rào cản đó. Các vấn đề từ-biết-đến-làm mà chúng ta đã quan sát được có tính chất phổ thông và hiện hữu trong nhiều chủ đề, từ ứng dụng các kiến thức tiếp thị và các phương thức tốt nhất trong dịch vụ khách hàng tới việc bảo lưu và thực hiện các phương thức sản xuất ưu việt. Chúng tôi đã không tìm thấy được những câu trả lời đơn giản cho thế lưỡng nan từ-biết-đến-làm này. Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề từ-biết-đến-làm, nếu những câu trả lời đơn giản có tồn tại, thì hẳn là chúng đã được thực thi rộng rãi. Và những hãng hiếm hoi có thể chuyển hóa kiến thức thành hành động một cách nhất quán cũng không thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh đáng kể đó như hiện nay. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những nhận thức và chẩn đoán về một số nguồn sinh ra các vấn đề từ-biết-đến-làm, và những ví dụ về các công ty phải chịu hậu quả nặng nề từ vấn đề này, những công ty chưa từng gặp cũng như một số công ty đã có thể khắc phục lỗ hổng từ-biết-đến-làm. Nhưng một trong những nhận thức quan trọng nhất từ nghiên cứu của chúng tôi đó là kiến thức thực sự được vận dụng nhiều khi được rút ra sau khi thực hành thay vì đọc, lắng nghe hay suy ngẫm. Những điều chúng tôi có thể làm được cho bạn trong cuốn sách này rất giới hạn, dù cho chúng tôi đã thu được nhiều nhận thức sâu sắc. Chúng tôi khuyên các bạn nên thực hiện những hành động có suy xét thận trọng thường xuyên hơn. Hãy hạn chế thời gian dự tính và phàn nàn về các vấn đề của tổ chức. Hành động sẽ giúp bạn rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Khi mô tả lỗ hổng từ-biết-đến-làm cho những người khác, chúng tôi thường nhận được chung một lời đáp. Họ sẽ nói rằng lỗ hổng đó bắt nguồn từ những vấn đề cố hữu của cá nhân, do thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc có vấn đề về “tính cách”, và sự tồn tại của nó phản ánh sự không hoàn hảo của một cá nhân. Thật sai lầm! Nếu bạn làm việc ở một nơi mà bạn hoặc các đồng nghiệp của mình không biến kiến thức thành hành động, đó có thể không phải hoàn toàn là lỗi của bạn. Rõ ràng, một số người có thể biến kiến thức thành hành động nhanh hơn, số khác có tư duy nhanh nhạy hơn và có khả năng thích nghi tốt hơn người khác, và rằng tâm lý cá nhân đóng một vai trò nào đó trong vấn đề khoảng cách từ-biết-đến-làm mà chúng tôi đang phân tích. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng chúng không đóng vai trò chính yếu trong câu chuyện. Có những tổ chức có thể chuyển kiến thức thành hành động một cách nhất quán và vẫn làm được vậy dù họ có mở rộng quy mô, tuyển dụng thêm nhân sự hay thâu tóm thêm các công ty khác hay không. Các tổ chức khác, dù sở hữu những nhân viên thông minh, chăm chỉ, nhanh nhạy nhưng lại không thể chuyển hóa kiến thức về hoạt động tổ chức thành hành động thực tiễn. Cứ như là đã tồn tại một “máy hút não” trong những tổ chức đó chuyên hút kiệt trí tuệ và tầm nhìn của các thành viên. Sự khác biệt giữa các tổ chức phần nhiều xuất phát từ hệ thống quản lý và các phương châm hoạt động của họ thay vì sự khác biệt về chất lượng con người. Các công ty lớn thu được hiệu quả đáng kinh ngạc nhờ những người bình thường. Những công ty không-quá-lớn thu hút các nhân tài và đánh mất lợi thế đến từ tài năng, nhận thức và động lực của họ. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương thức quản lý có thể tạo ra hoặc giảm thiểu khoảng cách từ-biết-đến-làm. Thực hiện hay lờ đi: Khoảng cách từ-biết-đến-làm có thực sự tồn tại? Làm sao chúng ta biết kiến thức không phải lúc nào cũng được áp dụng vào thực tiễn và đây là vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức? Và quan trọng hơn, làm thế nào các tổ chức nắm được mức độ mà tại đó họ đã không làm những điều nên làm? Đây là những vấn đề quan trọng nhưng không quá phức tạp. Bằng chứng về khoảng cách từ-biết-đến-làm Có rất nhiều các nghiên cứu bên trong những ngành công nghiệp riêng lẻ cho thấy các đường hướng ưu việt giúp quản lý con người và tổ chức công việc của họ. Dù những đường hướng được cho là ưu việt đó được biết đến tương đối rộng rãi, nhưng việc lan tỏa chúng diễn ra chậm chạp và không trơn tru, còn chuyện thụt lùi là phổ biến. Một nghiên cứu về ngành dệt may đã cho thấy rằng quy trình sản xuất mô-đun (modular production) tập trung vào sản xuất theo nhóm đạt được hiệu quả sản xuất kinh tế cao hơn xét theo nhiều tiêu chí so với hình thức sản xuất trọn gói (bundle) truyền thống sử dụng nhân công làm từng sản phẩm và đào tạo giới hạn. Các ấn bản thương mại, hiệp hội ngành và các công đoàn có liên quan đã lên tiếng ủng hộ quy trình sản xuất mô-đun từ đầu thập niên 1980. Ấy vậy mà đến năm 1992, khoảng 80% các sản phẩm dệt may vẫn được làm theo hình thức trọn gói, và các nhà máy đã từng áp dụng quy trình sản xuất mô-đun cũng quay về với hệ thống trọn gói. Mời bạn đón đọc Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm của tác giả Jeffrey Pfeffer & Robert I. Sutton.
Sức Mạnh Của Điểm Dừng - Terry Hershey
"Tôi ngồi xuống để đọc quyển sách này. Tôi đã phải đọc nó, và chỉ có ngày cuối tuần để thực hiện việc ấy. Đó là nhiệm vụ trong danh sách những việc cần làm của tôi. Trong vòng 10 phút đọc sách, điều gì đó đã xảy ra. Nhiệm vụ đã trở thành trải nghiệm. Tôi nhận thấy mình đã giảm nhiệt độ lại, cảm nhận được hơi ấm của ngọn lửa từ sưởi, cảm thấy thoải mái khi được cuộn mình trong chiếc chăn bông, lắng nghe tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ...Vì vậy bạn hãy tự trao cho mình món quà, đó là tìm đọc cuốn sách này."- Kathy Cleveland Bull, người dẫn chương trình radio Fromthe Inside Out - - Trong lúc đang trò chuyện, đã bao giờ bạn nhận ra là "Thật sự mình không hiện hữu ở đây"? - Bạn có cảm thấy thoải mái khi làm việc đến kiệt sức? - Có khi nào bạn bị lôi kéo vào quá nhiều hướng đi đến nỗi bạn không còn cảm thấy là chính mình. Nếu bạn đã từng có những cảm giác, ước mong và trăn trở như vậy, The Power Of Pause sẽ là quyển sách thích hợp dành cho bạn. - Làm ít hơn để gặt hái được nhiều hơn - *** Qua tập sách này, chúng ta thấy tác giả chia ra có 2 loại "tạm dừng": Một loại mang tính thụ động, như: "Tôi ngưng lại, tôi bỏ cuộc, tôi làm thinh"...; còn loại kia mang tính chủ động, như: "Tôi chú ý, tôi tỉnh táo, có ý thức trong lúc này, tôi có trách nhiệm với cuộc đời tôi đang sống"... Nhận thức của con người có sức mạnh vô cùng to lớn. Từ mỗi một lựa chọn, ta có thể tạo ra sự khác biệt trên thực tế. Việc lựa chọn "tạm dừng" sẽ mang đến cho ta nhiều lợi ích cần thiết. Khi ta cảm thấy căng thẳng vì bị giục giã, đó là lúc ta đưa ra quyết định phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Còn khi ta nói: "Không, việc này có thể gác sang một bên để giải quyết sau", thì ta sẽ có một quyết định chín chắn hơn. Tác giả tâm đắc với suy nghĩ, những gì mắt ta nhìn thấy, tai ta nghe được trong mỗi khoảnh khắc đều luôn là về chính chúng ta. "Mỗi người chúng ta là đứa con đặc biệt, độc đáo của Đấng Tạo hóa. Khi nhân dạng bản thân tôi bắt nguồn từ nhận thức đó, tôi không còn định nghĩa mình bằng những thứ mình đạt được, những thứ mình tiêu thụ, tôi tiến nhanh đến mức nào, tôi bận rộn ra sao, hay tôi kiếm được bao nhiêu. Tôi sống cuộc sống này chứ không phải cuộc sống nào khác...". Sự trải nghiệm khoảnh khắc "tạm dừng" mỗi ngày hoặc mỗi tuần, là lúc chúng ta tìm thấy hình ảnh mới mẻ về bản thân hoặc khám phá lại chính mình mà lâu nay bị lẩn khuất giữa những ồn ào, huyên náo và tất bật của cuộc sống. K.N *** Không ít cuốn sách nghệ thuật sống luôn mang đến người đọc những lời khuyên về việc phải luôn đi tới, xông xáo để không bỏ lỡ bất cứ cơ hội quý giá nào của cuộc sống. Với cuốn Sức mạnh điểm dừng (tên tiếng Anh: The power of pause), bạn đọc còn nhận được lời khuyên về những điều chúng ta không nên làm và biết cách dừng lại đúng lúc. Và để biết được đâu là điểm dừng phù hợp, người ta cần trang bị cho mình sức mạnh ở nội tâm và tinh thần. Cũng như người Do Thái biết cách rèn "sức mạnh chú ý". Theo cách hiểu của người Do Thái, Sabbath là ngày tạm dừng, ngày nghỉ ngơi, là ngày "ăn mừng" về thời gian chứ không phải về không gian. Trải qua sáu ngày trong không gian làm việc ngột ngạt, áp lực nên Sabbath là ngày cho phép con người điều chỉnh, hướng mình trở về với thực tại. Hay bức ảnh Gandhi ngồi cùng chiếc guồng quay sợi là thể hiện "sức mạnh của sự tập trung". Bức ảnh này thể hiện trọng tâm tư tưởng san bằng mọi khác biệt xã hội của Gandhi. Guồng quay sợi đã luôn nhắc nhở Gandhi về bản thân và những điều thiết thực trong cuộc sống. Khi quay bánh xe, ông kháng cự lại mọi thế lực xung quanh, những thế lực đang cố tình bóp méo những hiểu biết của ông về bản thân mình. Khi ta cảm thấy căng thẳng vì bị giục giã, đó là lúc ta đưa ra quyết định phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Ta bị điều khiển, chi phối bởi nhu cầu phải vội vã để gây ấn tượng, song nó chỉ khiến ta rơi vào trạng thái điên cuồng, quẫn trí. Còn khi ta nói: "Không, việc này có thể gác sang một bên để giải quyết sau", ta biết mình còn có những giá trị khác ngoài những thứ bề ngoài kia. Tác giả cuốn Sức mạnh điểm dừng là Terry Hershey. Ông là người sáng lập Hershey & Associates, đơn vị chuyên tổ chức những buổi hội thảo xoay quanh đề tài xây dựng cuộc sống cân bằng và thiết lập các mối quan hệ lành mạnh. Ông từng phát hành các đầu sách: Beginning Again, Soul Gardening: Cultivating the Good Life... Chi Mai. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Điểm Dừng của tác giả Terry Hershey.
Quên Hôm Qua Sống Cho Ngày Mai - Tian Dayton, Ph. D
Có những lúc ta phải tự mình quyết định rằng mình là ai và mình muốn trở thành người như thế nào. Khoảnh khắc đó xuất hiện khi ta muốn “hồi sinh” cuộc sống của bản thân sau những nếm trải đớn đau và bi phẫn. Đó là khi ta đã chịu đựng rất nhiều vết thương lòng và muốn đứng dậy từ những bài học xương máu ấy để hoàn thiện bản thân và sẵn sàng đối mặt với cuộc sống. Trong những thời khắc như vậy, ta cần phải xác định rõ ràng những quan điểm và hành vi nào mình sẽ giữ làm hành trang đi suốt cuộc đời và những điều gì bản thân nên loại bỏ. Liệu cuộc sống mà chúng ta đang vẽ ra cho chính mình trong giai đoạn phục hồi này có tiến triển suôn sẻ khi ta luôn bị cầm tù trong những bi hận của quá khứ? Nó sẽ khiến ta phải trả giá thế nào, xét về cả sự hạnh phúc và khía cạnh làm người, nếu ta cứ mãi nhìn về những khổ đau từng nếm trải để mà đổ lỗi và oán trách? Chúng ta không thể trong chốc lát mà bước qua nỗi đau và cả lòng oán hận để thanh thản tha thứ nếu chưa trải nghiệm những cảm giác này và giúp bản thân lấy lại những giá trị đã mất. “Quên hôm qua” và “Sống cho ngày mai” là hai bước lớn trong hành trình sống tốt và sống hạnh phúc. Thiếu hai yếu tố này, chúng ta sẽ không bao giờ giải thoát được mình khỏi sự bủa vây của bóng ma quá khứ. Tất chúng ta đều xứng đáng được hưởng một tương lai tốt đẹp. Và bạn không cần phải căm ghét hay hằn học quá khứ nếu đã sẵn sàng vượt qua những ám ảnh đó để sống hạnh phúc. Chỉ có ta mới giải phóng được cho chính mình. Không ai khác có thể làm thay ta điều đó. Quên hôm qua - Sống cho ngày mai là cuốn sách được viết từ những chiêm nghiệm trong cuộc sống hàng ngày, giúp mỗi người tìm về và sống trọn vẹn với những giá trị của bản thân. Đây cũng là cuốn sách được viết từ niềm tin, hy vọng và nghị lực của một con người đã tự vươn lên tìm kiếm sự đổi thay cho cuộc đời mình. *** Quên hôm qua - Sống cho ngày mai giống như một cuốn sổ tay ghi chép những chiêm nghiệm về đời mà tác giả chắt lọc được. Khác với hạt giống tâm hồn đi vào lòng người đọc một cách nhẹ nhàng qua những câu chuyện nho nhỏ về cuộc sống, cuộc đời, Quên hôm nay - sống cho ngày mai lại trực tiếp viết về từng cung bậc cảm xúc, từng vấn đề hay từng hoàn cảnh trong cuộc sống rồi từ đó để cho chúng ta một lời khuyên. Chính vì vậy nội dung kiến thức cuốn sách truyền tải thật sự rất nhiều (85 phần) nhưng chỉ được ghi chép lại trong 151 trang giấy. Vậy nên nếu đọc một lèo hết cuốn sách tưởng chừng như rất mỏng này có thể bị ngộ độc. Nói về cách viết / diễn đạt một cách trực tiếp, theo tôi nó dễ làm cho độc giả cảm thấy khô khan, chán nản, mất cảm hứng muốn đọc, thêm vào đó là nội dung sách không đặc sắc, cuốn hút lắm, nên điểm diễn đạt của cuốn sách tôi đánh giá không cao. Về hình thức, bìa cuốn sách không thể nói là đẹp, nói nặng nề hơn thì là hơi đơn giản quá, có phần hơi xấu, thô. Điểm cộng là chất giấy vàng dịu, đọc lâu không mỏi mắt, cầm cũng rất mỏng và nhẹ. Màu chữ in bên trong màu xanh nhưng có phần hơi không nổi bật trên nền giấy. Đầu mỗi phần in tiêu đề to, rõ ràng, kết mỗi phần đều có những dòng trích dẫn được đóng khung nhìn rất nồi bật, rõ ràng. Đây là cuốn sách mà những bạn chuyên văn nên mua để làm giàu vốn từ, vốn câu, suy nghĩ sâu sắc hơn. *** Người ta thường nói, con người sống là để tìm ra ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng tôi không nghĩ như vậy. Tôi cho rằng điều chúng ta mong mỏi kiếm tìm chính là một cuộc sống mà ở đó những va vấp và kinh nghiệm chúng ta tích lũy được sẽ là những thanh âm hòa nhịp với phần sâu lắng ẩn chứa nơi tâm hồn. Chúng ta đang quá tất bật với việc giành lấy những giá trị bề nổi mà quên mất rằng chính những giá trị tiềm ẩn bên trong mới là yếu tố làm nên ý nghĩa cuộc sống. Điều bí ẩn kỳ diệu nhất của cuộc sống chính là vượt lên những bí ẩn của suy nghĩ. Joseph Campbell. Tian Dayton là thạc sĩ ngành tâm lý giáo dục, tiến sĩ tâm lý trị liệu và là một nhà đào tạo uy tín trong lĩnh vực biến cố tâm lý. Bà là giám đốc Học viện Đào tạo ngành Biến cố Tâm lý New York, phụ trách các nhóm đào tạo về biến cố tâm lý, đo lường tâm lý xã hội và liệu pháp kinh nghiệm nhóm. Tiến sĩ Dayton là thành viên và cũng là người đoạt giải thưởng nghiên cứu sinh của Hiệp hội Hoa Kỳ về Biến cố tâm lý& Liệu pháp tâm lý nhóm (ASGPP). Bà đã viết hàng loạt bài báo có tiếng vang và là khách mời đặc biệt trên các kênh NBC, CNN, MSNBC, Montel, Rikki Lake, John Walsh, Geraldo. Thuở ấu thơ, bà sống trong gia đình không hạnh phúc vì người cha nghiện rượu, luôn là nỗi kinh sợ của mẹ và các anh chị em bà. Cuộc sống gia đình bị đảo lộn, bà mất niềm tin vào tương lai. Thậm chísau khi cha bà đã bỏ rượu, nỗi ám ảnh này vẫn còn đeo đẳng các thành viên trong gia đình và họ không thể xây dựng được mối quan hệ hoàn toàn tin tưởng và thoải mái với nhau. Chính nỗi đau thời niên thiếu này đã ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân gia đình sau đó của bà. Nó như một căn bệnh ung thư về tâm lý và cảm xúc, gặm mòn nhữngmối quan hệ mến yêu nhất của bà và khiến cho tình hình ngày càng thêm tồi tệ. Thật ra, nỗi đau này dường như được ẩn giấu rất sâu - tuymỗi lúc càng trở nên nghiêm trọng - và chỉ thể hiện ra ngoài qua những phản ứng thái quá không kiềm chế được trong các cơn giận dữ và tuyệt vọng. Nó trở thành một thứ cocktail pha trộn kỳ quặc giữa cảm xúc, sự hiểu lầm và cảm giác cô lập. Nhận biết điều này, bà đã dành thời gian chuyên tâm chữa trị cho cảm xúc và tâm lý của mình, vì tất cả cuộc đời bà phụ thuộc vào nó, vào những điều nó gây ra cho bản thân và cả những người thân yêu của bà. Ngày nay, với cuộc hôn nhân hạnh phúc sau 33 năm, hai đứa con đáng yêu và một nghề nghiệp tuyệt vời, bà có thể cho rằng mình đã thành công trong việc chữa trị nỗi đau cho chính mình và rất nhiều người khác, giúp họ tìm ra câu trả lời cho nhữngmâu thuẫn đã vươngmang từ quá khứ và tìm thấy một định hướng tốt đẹp cho tương lai.   Mời các bạn đón đọc Quên Hôm Qua Sống Cho Ngày Mai của tác giả Tian Dayton, Ph. D.
Buổi Sáng Diệu Kỳ - Hal Elrod
⇒ Câu chuyện của tôi, và tại sao câu chuyện của bạn lại quan trọng? Vào ngày 3/12/1999 – cuộc sống khá tốt. Không, thực sự thì nó quả là tuyệt vời. Năm ấy tôi 20 tuổi và học xong năm đầu đại học. Tôi đã dùng 18 tháng cuối để trở thành người đại diện bán hàng cho công ty tiếp thị trị giá 200 triệu đô-la, tôi đã phá vỡ kỷ lục của công ty và nhận được số tiền mà tôi chưa bao giờ tưởng tượng mình có thể kiếm được ở độ tuổi ấy. Tôi và bạn gái có một mối tình đẹp và có được sự ủng hộ của gia đình, thằng bạn thân của tôi là một đứa sẵn sàng trả lời mọi thắc mắc của tôi. Tôi thực sự cảm thấy hạnh phúc. Bạn có thể nói tôi là người hạnh phúc nhất thế gian. Dù vậy, tôi lại không hề hay biết đó cũng chính là cái đêm mà thế giới của tôi sụp đổ. 23:32/ Lái xe với tốc độ 100km/h trên đại lộ Southbound Hwy 99 Chúng tôi chào bạn bè và rời nhà hàng. Giờ chỉ còn hai chúng tôi. Bạn gái của tôi, đã thấm mệt sau những sự kiện của buổi tối hôm đó, đang nằm mơ màng ngủ ở hàng ghế sau. Tôi thì ngược lại, hoàn toàn tỉnh táo – đôi mắt dán chặt vào con đường phía trước, huơ huơ ngón tay trong không trung như thể đang cầm chiếc gậy của nhạc trưởng và lặng lẽ chỉ huy dàn nhạc của mình chơi những giai điệu của Tchaikovsky. Tôi khó mà ngủ nổi khi tâm trạng hưng phấn trong sự kiện lúc tối vẫn chưa thể lắng xuống. Tôi tăng tốc chiếc Ford Mustang màu trắng mới toanh của mình lên đến 100km/h, tôi chỉ vừa kết thúc bài phát biểu xuất sắc nhất của mình hai tiếng trước. Mọi người đều đứng dậy vỗ tay tán thưởng, điều đó khiến tôi hãnh diện vô cùng. Thực tế là, tôi đã muốn hét lên thật lớn cho thỏa nỗi vui sướng với bất kỳ ai, nhưng bạn gái tôi đang ngủ nên sẽ chẳng nghe được gì. Tôi đã định gọi cho bố mẹ, nhưng giờ đã khá muộn, họ có thể đã đi ngủ rồi. Tuy nhiên, tôi không hề hay biết đó cũng là cơ hội cuối cùng để nói chuyện với họ – hoặc với bất kỳ ai – trong thời gian khá dài. Một sự thật khó tưởng tượng Tôi không nhớ là đã thấy đèn pha của chiếc xe bán tải hiệu Chevrolet chiếu thẳng về phía mình. Trong giây phút định mệnh éo le đó, chiếc bán tải Chevy đang phóng với vận tốc 120km/h đâm thẳng vào chiếc Ford Mustang nhỏ bé của tôi. Khoảnh khắc tiếp đó mọi thứ dường như chuyển động chậm dần, giai điệu của Tchaikovsky từ dàn giao hưởng như làm nền cho một cảnh quay hãi hùng. Hai khung xe kim loại va vào nhau và biến dạng, tạo ra thứ âm thanh chói tai. Túi khí của chiếc Mustang tự động bung ra đỡ lấy tôi. Đầu óc tôi, khi ấy vẫn còn đang mải miết với vận tốc 100km/h, đã bị va đập về phía trước, và nhiều tế bào não quan trọng tạo nên thùy trán trước của tôi đã bị phá hủy nghiêm trọng. Do sự tác động đó, phía đuôi chiếc Mustang của tôi bị đẩy vào làn đường bên phải, khiến chiếc ô tô phía sau đâm phải cánh cửa bên tay lái của tôi. Chiếc Saturn khoảng 16 năm tuổi đâm sầm vào xe tôi với tốc độ 100km/h. Cánh cửa bên trái găm vào người tôi, một phần khung xe găm vào đầu và gần như cắt đứt tai trái của tôi. Xương hốc mắt trái của tôi gần như bị dập vụn. Cánh tay trái của tôi bị gãy, dây thần kinh hướng tâm bị đứt, khuỷu tay bị vỡ và chiếc xương bị gãy đó lại xuyên qua da sau bắp tay. Xương chậu của tôi bị dính chặt vào phần trước của chiếc Saturn và bị gãy làm ba. Cuối cùng, xương đùi của tôi – phần xương lớn nhất cơ thể – bị gãy làm đôi và đâm xuyên qua da, xé toạc chiếc quần đen của tôi. Máu vương khắp nơi. Cơ thể tôi gần như chẳng còn phần nào nguyên vẹn cả. Não của tôi đã bị hủy hoại vĩnh viễn. Không thể chịu đựng nổi những cơn đau thể xác, cơ thể tôi sụp xuống, huyết áp giảm và mọi thứ quanh tôi bỗng chốc đều tối đen như thể tôi đang rơi vào trạng thái hôn mê. Bạn chỉ có thể sống… hai lần? Điều xảy ra tiếp theo sẽ khiến nhiều người kinh ngạc – như một phép màu. Xe cứu thương đã tới và họ phải dùng kìm bấm, và những người lính cứu hỏa đã phải tách cơ thể đẫm máu của tôi ra khỏi đống sắt vụn đó. Khi được cứu ra khỏi đó thì tôi đã mất máu quá nhiều. Tim tôi ngừng đập. Theo chẩn đoán lâm sàng, tôi đã chết! *** Ngay lúc này, dù bạn đang ở đâu trong cuộc đời – trên đỉnh vinh quang danh vọng hay đang lạc lối, đấu tranh để tìm ra con đường của mình – chí ít cũng có một điều tôi biết chắc chúng ta đều giống nhau (thực ra có nhiều hơn một điều, nhưng đây là điều tôi chắc chắn nhất): Chúng ta muốn cải thiện cuộc sống, cũng như cải thiện chính bản thân mình. Điều này không ám chỉ chúng ta hay cuộc sống của chúng ta đang đi sai hướng ở đâu đó, nhưng vì chúng ta là con người, nên ngay từ khi sinh ra chúng ta được trời phú cho khát vọng và nguồn động lực để không ngừng trưởng thành và hoàn thiện. Tôi tin rằng điều đó luôn tồn tại trong mỗi cá nhân. Tuy vậy, phần lớn chúng ta lại thức dậy mỗi ngày mà chẳng có chút thay đổi tích cực nào. Với tư cách một tác giả, nhà diễn thuyết và người huấn luyện cuộc sống/kinh doanh thành công, công việc của tôi là giúp mọi người nâng mọi lĩnh vực trong cuộc đời họ lên một tầm cao mới của thành công và đủ đầy một cách nhanh nhất có thể. Với tư cách một sinh viên chuyên ngành về tiềm năng con người và phát triển cá nhân, tôi có thể quả quyết rằng cuốn sách Buổi sáng diệu kỳ là một phương thức thực tiễn, định hướng kết quả hiệu quả nhất mà tôi từng biết để cải thiện bất kỳ – hoặc mọi lĩnh vực trong cuộc sống của bạn, và nó có thể cải thiện nhanh hơn rất nhiều so với những gì bạn nghĩ. Với những người thành đạt và những người thực thi hàng đầu, cuốn sách này chắc chắn có thể trở thành một thứ thay đổi cuộc chơi, cho phép bạn vươn đến những tầm cao mới và đưa bản thân cũng như công việc của bạn tiến xa hơn trong tương lai. Ngoài ra, nó còn có thể giúp nâng cao thu nhập của bạn hoặc phát triển công việc kinh doanh, bán hàng hay doanh số của bạn, đưa bạn đến với những cách thức mới lạ để trải nghiệm sâu sắc hơn về sự cân bằng và đủ đầy trong những lĩnh vực của đời sống mà có thể bạn đã vô tình bỏ quên. Nó cũng giúp tạo ra những cải thiện rõ rệt đối với sức khỏe, hạnh phúc, các mối quan hệ, tài chính, tâm linh hay bất kỳ lĩnh vực nào mà bạn quan tâm nhất. Với những người đang rơi vào nghịch cảnh hoặc đang phải đấu tranh trong một thời gian dài – dù về mặt nội tâm, cảm xúc, thể xác, tài chính, mối quan hệ hay bất cứ điều gì – Buổi sáng diệu kỳ sẽ giúp bất cứ ai vượt qua những thử thách tưởng chừng không thể vượt qua, nó tạo ra những bước đột phá lớn chỉ trong một thời gian ngắn. Dù bạn muốn tạo ra những cải thiện rõ rệt trong chỉ một vài phạm vi hay đã sẵn sàng cho một cuộc “thay máu” để thay đổi toàn bộ cuộc sống của mình – những gì bạn trải qua sẽ sớm chỉ là những ký ức – bạn thật sáng suốt khi lựa chọn cuốn sách này. Bạn đang chuẩn bị bắt đầu một hành trình kỳ diệu chỉ bằng việc sử dụng những phương thức đơn giản, nhưng sẽ là một cuộc cải cách lớn. Chính nó sẽ đảm bảo cuộc sống của bạn được biến đổi hoàn toàn ở mọi lĩnh vực, mọi phạm vi… trước 8 giờ sáng. Tôi biết, tôi biết chứ – lời hứa này có vẻ quá to tát. Nhưng Buổi sáng diệu kỳ đã đem lại những kết quả rõ rệt cho 10.000 người trên toàn thế giới (trong đó có cả tôi), và nó chắc chắn có thể đưa bạn đến bất cứ nơi nào bạn muốn. Thật là một vinh hạnh lớn lao khi được chia sẻ điều này với bạn, và tôi đã làm mọi thứ trong khả năng của mình để đảm bảo rằng cuốn sách này sẽ thực sự trở thành một sự đầu tư về thời gian, năng lượng và sự chú tâm của bạn để thay đổi cuộc sống. Chân thành cảm ơn những độc giả của tôi vì đã cho phép tôi được trở thành một phần cuộc sống của các bạn; cuộc hành trình diệu kỳ và lý thú của chúng ta sẽ được bắt đầu ngay bây giờ. Gửi tới các bạn tình yêu và lòng biết ơn! - Hal *** Tôi tin rằng một ý tưởng cũng có thể thay đổi cách chúng ta suy nghĩ, cảm nhận và cách chúng ta sống. Những câu trích dẫn kích thích tư duy là một trong những cách thức yêu thích của tôi để có được những ý tưởng thay đổi cuộc sống một cách mạnh mẽ và thách thức BẠN trở thành con người tốt hơn con người trước đây của bạn. Dưới đây là một vài trích dẫn nổi tiếng yêu thích của tôi. Nếu có bất kỳ câu nào bạn cảm thấy hợp lý, bạn có thể xem xét việc thêm chúng vào những lời khẳng định của bạn và chia sẻ chúng lên Facebook hoặc Twitter, để chúng làm màn hình nền máy tính, in lên áo phông, hoặc thậm chí có thể biến chúng thành hình xăm trên cơ thể bạn chẳng hạn. Với tình yêu và lòng biết ơn. -Hal “Hãy yêu cuộc sống hiện tại của bạn trong khi tạo ra một cuộc sống mà bạn hằng mơ ước. Đừng nghĩ bạn phải chờ tới sau này để bắt đầu làm việc trước đây.” “Nơi bạn ở chính là kết quả của việc bạn đã là ai, nhưng nơi bạn đến phụ thuộc hoàn toàn vào con người mà bạn lựa chọn để trở thành.” “Hãy từ bỏ ý nghĩ trở nên hoàn hảo để trở thành người đáng tin cậy. Hãy là chính bạn. Hãy yêu bản thân. Những người khác rồi cũng sẽ làm như vậy.” “Thay thế những đánh giá của bạn bằng sự đồng cảm, cải thiện những lời phàn nàn của bạn bằng lòng biết ơn và hoán đổi nỗi sợ của bạn cho tình yêu.” “Biết ơn mọi thứ bạn có, chấp nhận mọi điều bạn không có và chủ động tạo ra những thứ bạn muốn.” “Cuộc sống không phải là mong muốn bạn ở nơi nào hoặc bạn là ai đó. Cuộc sống là bạn tận hưởng nơi bạn ở, yêu con người của bạn và không ngừng cải thiện cả hai.” “Đừng cố gây ấn tượng với mọi người. Chỉ cần bạn tập trung vào vấn đề bạn có thể thêm được giá trị vào cuộc sống của họ bằng cách nào.” “Khoảnh khắc bạn chấp nhận chịu trách nhiệm về MỌI THỨ trong cuộc sống của mình chính là khoảnh khắc bạn chạm vào sức mạnh của mình để thay đổi MỌI THỨ trong cuộc sống của bạn.” “Mỗi người trong chúng ta luôn có sẵn những điều chúng ta cần để trở thành người hạnh phúc nhất mà chúng ta có thể; điều đơn giản là tùy thuộc chúng ta có nhớ được điều đó mọi lúc hay không.” “Không có gì để sợ hãi, bởi bạn không thể thất bại. Chỉ có HỌC HỎI, TRƯỞNG THÀNH và trở nên TỐT HƠN con người của bạn trước đây.” “Dù bạn ở đâu trong cuộc sống của mình ngay lúc này, đó đều chỉ là tạm thời. Bạn từng đến khoảnh khắc này để học những gì bạn phải học, do đó bạn có thể trở thành con người bạn cần nhằm tạo nên mọi thứ bạn từng muốn trong cuộc đời.” “Ngay cả khi cuộc đời nghiệt ngã hoặc đầy thử thách – đặc biệt khi nó vừa nghiệt ngã vừa thử thách – hiện tại luôn là cơ hội dành cho chúng ta để học hỏi, trưởng thành và trở nên tốt hơn con người của chúng ta trong quá khứ.” “Bạn đang trở thành con người như thế nào còn quan trọng hơn nhiều so với bạn đang làm gì. Tuy nhiên, những gì bạn đang làm lại đang xác định con người mà bạn sẽ trở thành.” “Toàn bộ cuộc đời của bạn sẽ thay đổi vào ngày bạn quyết định bản thân sẽ thôi chấp nhận sự tầm thường. Khi bạn quyết định rằng ngày hôm nay chính là ngày quan trọng nhất trong cuộc đời, và hiện tại có ý nghĩa hơn mọi khoảnh khắc khác bởi nó chính là con người bạn đang trở thành mỗi ngày dựa trên những lựa chọn và hành động của bạn, điều đó xác định con người bạn đang trở thành cho phần đời còn lại của bạn.” “Những con người bình thường để cảm xúc điều khiển hành động của họ, trong khi những người thành đạt lại để những cam kết điều khiển hành động của họ.” “Hãy đi những bước táo bạo về phía giấc mơ của bạn mỗi ngày, đừng dừng lại, và không gì có thể ngăn cản được bạn.” Đời người có hai cách để sống. Theo cách này, chẳng có điều kỳ diệu nào xảy ra; còn với cách kia, mọi thứ trên đời đều kỳ diệu. — ALBERT EINSTEIN Điều kỳ diệu xảy ra không ngược với tự nhiên mà chỉ ngược với cái ta biết trong tự nhiên. — ST. AUGUSTINE Cuộc sống luôn bắt đầu vào mỗi sớm mai. — JOEL OSTEEN Mời các bạn đón đọc Buổi Sáng Diệu Kỳ của tác giả Hal Elrod.