Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Linh Hồn Chết - Nikolai Vasilyevich Gogol

Ngay sau khi ra đời, Những linh hồn chết của Gogol đã gây một cơn chấn động lớn trên toàn nước Nga. Rất nhanh chóng, cơn địa chấn này đã lan rộng ra nước ngoài. Theo viện sĩ B.L. Riftin, tập I tác phẩm Những linh hồn chết hoàn thành vào năm 1842, thì năm 1846, khi tái bản lần thứ 2, đã được dịch sang tiếng Đức, năm 1849 được dịch sang tiếng Tiệp. Năm 1854 xuất hiện bản dịch Những linh hồn chết bằng tiếng Anh. Tới năm 1858, cùng với thiên trường ca, tác giả Quan thanh tra đã nổi tiếng khắp châu Âu và phương Tây. Đánh giá về vai trò của Gogol đối với văn học Nga, nhà nghiên cứu I. Zolotuski khẳng định: Gogol là người đầu tiên có công đưa văn học Nga hội nhập với thế giới. Thiên tài của Gogol là một thiên tài nhiều mặt, ít thấy ở một nhà văn. Mới hai mươi sáu tuổi, Gogol đã có những tác phẩm mẫu mực của năm loại văn rất khác nhau, tựa hồ của nhiều nhà văn khác nhau: truyện dân gian quái dị với Những đêm trong thôn gần Đikanka, tiểu thuyết sử thi hùng tráng với Tarax Bunba, truyện châm biếm hài hước với Câu chuyện về sự bất hòa giữa Ivan Ivanovits và Ivan Nikiforovits, tiểu thuyết hiện thực phê phán với Một đôi vợ chồng trang chủ kiểu xưa và Cái áo khoác, hài kịch đả kích xã hội với Quan thanh tra. Với cái thiên tài nhiều mặt, mà mặt nào cũng lớn và đang độ phát triển, dồi dào sinh lực ấy, Gogol bắt tay vào viết tác phẩm chủ yếu của đời mình, lớn hơn tất cả các tác phẩm kia: Những linh hồn chết. Từ lúc ấy, cuộc đời của Gogol còn mười sáu năm nữa, nhưng chỉ còn có một mục đích, một công việc, một sứ mạng: hoàn thành Những linh hồn chết, phấn đấu gian lao, đau khổ khủng hoảng tinh thần, lịch sử mười sáu năm cuối của đời Gogol chính là lịch sử của Những linh hồn chết. Ý định viết tác phẩm lớn ấy đến với Gogol, như trong Sám hối của một tác giả, văn hào viết: “Chính Puskin làm cho tôi quan niệm vấn đề một cách nghiêm túc. Từ lâu Puskin khuyến khích tôi bắt tay viết một tác phẩm lớn; Puskin bảo tôi: “- Tại sao có cái tài đoán ra chân tướng con người để chỉ phác vài nét là lẽ ra như nó sống thật, mà anh lại không bắt tay vào viết một tác phẩm lớn? Như thế thật quả là một tội lỗi!”. Để kết luận, Puskin cho tôi đề tài mà chính anh dự định viết thành một trường ca và, theo lời anh, thì không bao giờ nhường lại cho bất kỳ một ai. Đó là đề tài của Những linh hồn chết”. Puskin từng khuyên Gogol sáng tác Những linh hồn chết thành một thiên “trường ca” - poema - Chữ “poema” đây không phải có nghĩa là một tập thơ, mà là một tiểu thuyết trường thiên có tính chất sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gogol cho in lên bìa chữ “poema” to hơn tên sách. Càng viết và càng nghĩ, Gogol càng thấy cái tầm rộng lớn của tác phẩm; vì vậy mà những cuộc phiêu lưu buồn cười của nhân vật chính Tsitsikôp hợp thành tình tiết của thiên trường ca đã được khoác một ý nghĩa biểu tượng: Tsitsikôp không phải chỉ là một tên bịp bợm đi mua nông phu chết, mà còn là Gogol đi tìm những “linh hồn sống”, nhưng chỉ gặp toàn những “linh hồn chết” - trong tiếng Nga cái từ “đusi” có cả hai nghĩa “những linh hồn” và “những nông phu”. Năm 1843, trong một bức thư Gogol viết rõ ràng: - “Quả thật có thể tin được điều người ta nói là: tất cả đều chết hết rồi, rằng ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho những linh hồn chết”.  Bởi vậy mà nhan đề của thiên trường ca trước dự định là Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp (Pôkhôjdênia Tsitsikôva) với phụ đề là Những linh hồn chết (miôrtvưe đusi) phải đổi lại là Những linh hồn chết với tiêu đề Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp. Mùa hè 1841 phần thứ nhất Những linh hồn chết được hoàn thành. Tháng chín Gogol mang về nước để xuất bản. Ngày 12 tháng 11 bản thảo nộp cho Ủy ban kiểm duyệt Mạc tư khoa và dĩ nhiên là gặp ngay phải vô số khó khăn. Nhờ phu nhân Xmirnôva và mấy bạn vương công thần thế bảo trợ văn học, Những linh hồn chết mới được phép in, chỉ phải chữa lại đoạn nói về đại úy Kôpêikin. Ngày 23 tháng 5 năm 1842, Những linh hồn chết xuất bản lần thứ nhất. Tờ Người đương thời, trong bài phê bình, đã suy tôn tác giả cuốn sách là đệ nhất văn hào Nga; quả là một danh hiệu chính đáng; từ trước Biêlinxki vẫn nói rằng Puskin sớm chết thì Gogol đã thay vào chỗ mà Puskin để lại trong văn học Nga. Với những điều hiểu biết của một nghệ sĩ thiên tài, Gogol đã “vẽ lại cuộc đời với bộ mặt thật của nó”, và cái bộ mặt của xã hội Nga với các tầng lớp thống trị của nó thời ấy là ghê tởm; thì Gogol đã bắt các đại diện của chúng ta, “giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng” của chúng, bắt chúng “đem thân cho thiên hạ mua cười”. Chỉ với Những linh hồn chết, sự nghiệp của Gogol cũng đã xứng đáng đặt ngang hàng với sự nghiệp của một nhà văn lớn khác của thế giới: Xervantex với bộ Đông Kisôt. Thuộc thể tiểu thuyết phê phán và châm biếm phong tục, - thể tiểu thuyết Picaret theo thuật ngữ văn học, do cái từ Tây Ban Nha picarô, chỉ tên bịp bợm, mà ra, - thì Những linh hồn chết của Gogol, Đông Kisôt của Xervantex và Những di văn của câu lạc bộ Pickuych của Dickenx là ba kiệt tác đứng hàng đầu trong văn học thế giới, và so với các tác phẩm cùng thể tài châm biếm ấy thì Những linh hồn chết đậm tính chất chân thực, gần với cuộc đời hơn cả. *** Bốn Bức Thư Của Tác Giả {Bốn bức thư này in trong chương XVII của cuốn Trích thư từ gửi các bạn tôi xuất bản cuối năm 1846; nhưng những thư này chỉ là những lời thanh minh của tác giả, không phải là những thư gửi đi cho ai cả} I. Anh có tỏ ý phẫn nộ vì cái giọng quá quắt của một số lời chỉ trích Những linh hồn chết. Tôi thấy như thế không được đúng: việc đó cũng có mặt tốt: đôi khi cũng cần có người phỉ báng mình. Người nào đã mê say với những cái đẹp rồi thì không thấy được những cái xấu, cho nên cái gì cũng dung thứ cả; ngược lại người nào đã muốn dèm pha thì cố tìm cho ra những cái xấu của anh và nêu rõ cái xấu đó lên đến nỗi buộc lòng anh phải thấy. Người ta ít khi có dịp nghe sự thật lắm; cho nên chỉ cần được một phần nhỏ sự thật thôi, người ta cũng đã có thể dung thứ cái giọng phỉ báng của kẻ lên tiếng nói sự thật. Những lời phê phán của Bungarin Xenlôpxki, Pôlêvôi có nhiều cái đúng, kể cả lời họ khuyên tôi nên học tiếng Nga trước khi có tham vọng viết lách {Những linh hồn chết phần thứ nhất, ra đời năm 1842, bị những nhà phê bình lạc hậu và phản động ghen ghét la ó. Trong tờ Tín sứ Nga, nhà phê bình lãng mạn chủ nghĩa N.A Pôlêvôi cho rằng Những linh hồn chết chỉ là một bức biếm họa, không thể xem là nghệ thuật được và tác giả chưa biết viết văn, còn mắc nhiều lỗi ngữ pháp; Pôlêvôi viết: “- Hãy gác sang một bên những cảm hứng bồng bột của anh mà đi học tiếng Nga đi!”. Có người chế giễu chữ poema ở bìa sách và suy diễn ra, gọi cả những sách giáo khoa vật lý học và sách dạy làm vườn là poema. Nhưng những lối phê bình ấy làm cho quần chúng chân chính rất căm phẫn}. Quả nhiên, giá tôi giữ bản thảo trong ngăn kéo thêm một năm nữa, chứ đừng vội vã cho in; thì chính bản thân tôi cũng đã thấy rằng không thể nào đem nó ra mà xuất bản dưới một hình thức kém cỏi như vậy. Tuy những bài thơ châm biếm và những lời chế giễu lúc đầu có làm cho tôi khó chịu thật; nhưng vẫn rất bổ ích cho tôi. Ôi! Những lời dèm pha liên miên ấy, cái giọng phỉ báng và những lời chế giễu cay cú ấy, thật có lợi cho ta không biết bao nhiêu mà kể! Trong thâm tâm ta thường giấu nhiều tự ái ti tiện, nhiều tham vọng xấu xa, đến nỗi ta cần phải luôn luôn bị châm chích, đánh đập bằng đủ mọi thứ khí giới; và phải cảm ơn bàn tay đã đánh ta. Tôi những mong được phê phán nhiều hơn nữa, nhưng lại muốn rằng người phê phán không phải là những người làm văn học, mà là những người có kinh nghiệm về thực tế. Tiếc thay, ngoài những người làm văn học, không có một bộ óc thực tiễn nào lên tiếng cả. Tuy nhiên Những linh hồn chết cũng đã gây nên lắm xôn xao bàn tán, lắm lời đồn đại, đã xúc phạm đến lòng tự ái của khá nhiều người vì lối giễu cợt, vì tính xác thực, vì lối biếm họa. Tuy đầy rẫy những sự lầm lẫn, sai lệch hiển nhiên; nó cũng đả động đến một tình hình mà ai nấy đều được chứng kiến hàng ngày. Tôi lại còn xen vào đấy một số đoạn có tính chất khiêu khích, hy vọng rằng sẽ có người lên tiếng quát mắng tôi và trong cơn phẫn nộ, sẽ vô tình mách cho tôi biết cái sự thực mà tôi đang tìm kiếm. Tại sao chưa có ai lên tiếng cả? Ai ai cũng đều có thể làm việc đó, và có đủ cơ sở để làm việc đó. Người viên chức có thể công khai chứng minh cho tôi thấy rằng câu chuyện tôi kể là không xác thực, bằng cách kể ra vài ba sự kiện có thật đã xảy ra và như vậy là đã đưa ra một lời cải chính hùng hồn hơn bất cứ lời biện luận nào. Vả chăng, cũng bằng cách ấy, người kia cũng lại có thể xác nhận thêm những lời miêu tả của tôi. Việc dẫn sự kiện có sức thuyết phục hơn là những lời lẽ rỗng tuếch và những bài luận văn về văn học. Nhà buôn, trang chủ, nói tóm lại là bất cứ ai biết cầm bút, cũng đều có quyền làm như vậy; dù người ấy chỉ sống quanh quẩn trong nhà hay vẫn thường đi đây đó khắp đất nước Nga. Ngoài ý kiến cá nhân của mình ra, bất cứ người nào, dù giữ chức vụ gì, ở địa vị xã hội nào, nghề nghiệp, học vấn ra sao, cũng đều có dịp quan sát sự việc trên một quan điểm riêng. Với đề tài của Những linh hồn chết, lẽ ra quần chúng độc giả có thể viết nên một cuốn sách hay hơn Những linh hồn chết không biết bao nhiêu mà kể; một cuốn sách có thể dạy nhiều điều, không những cho tôi, mà ngay cho các bạn đọc nữa; bởi vì giấu giếm mà làm gì, chúng ta đều biết nước Nga rất ít. Chao ôi! Tại sao không có ai công khai lên tiếng! Thật có thể tưởng chừng như mọi vật đều đã chết; và ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho Những linh hồn chết! Thế mà người ta lại trách tôi không biết rõ nước Nga! Làm như thể do một phép lạ của Đức chúa Thánh thần tôi nhất thiết phải biết rõ tất cả những sự việc xảy ra ở bất cứ xó xỉnh nào; phải học cho kỳ hết, không cần ai chỉ dẫn cả. Tôi làm thế nào mà học hỏi được! Thử nghĩ một nhà văn như tôi, vì nghề nghiệp phải ngồi ru rú ở nhà, sống cuộc đời khổ hạnh, lại thêm bệnh tật nữa và buộc lòng phải sống xa nước Nga; thì còn học hỏi làm sao được? Tôi không thể học hỏi các nhà văn hay các nhà báo, vì họ cũng sống cô độc và quanh quẩn trong phòng giấy. Nhà văn chỉ có một người thầy: bạn đọc. Thế nhưng những bạn đọc ấy đã từ chối, không chịu dạy dỗ tôi. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chịu trước Thượng đế một trách nhiệm ghê gớm vì đã không làm tròn bổn phận; nhưng tôi lại biết rằng những người khác cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm như thế. Và đây không phải là những lời nói suông: có Thượng đế chứng giám cho tôi, đây không phải là những lời nói suông. 1843 II. Tôi đã cảm thấy từ trước là những đoạn mạn đàm trữ tình trong thiên trường ca của tôi sẽ bị hiểu sai. Những đoạn ấy thiếu minh xác, ít ăn nhập với tình tiết và phong cách của cuốn truyện, đến nỗi khiến cho những người công kích tôi, cũng như những người bênh vực tôi, đều bị lầm. Người ta đã tưởng lầm rằng tất cả những đoạn nói về nhà văn nói chung, đều nhằm nói về tôi cả; tôi đã lấy làm xấu hổ khi thấy họ giải thích những đoạn ấy để bênh vực tôi. Chẳng qua, cũng đáng kiếp cho tôi! Lẽ ra, dù sao tôi cũng không nên cho xuất bản một tác phẩm tuy cắt khéo, nhưng khâu thì lại vụng, bằng chỉ trắng lên vải đen; như một bộ áo quần mà người thợ may vừa lược chỉ qua để thử. Tôi lấy làm lạ sao người ta ít có lời chê trách tôi về nghệ thuật và nghiệp vụ như vậy. Âu cũng tại những người phê phán tôi quá phẫn nộ, mà cũng tại họ không đủ sức khảo sát cách cấu tạo của một tác phẩm. Lẽ ra phải nêu rõ phần nào có vẻ dài một cách quái gở so với các phần khác; ở chỗ nào nhà văn đã tự phản mình, vì không nhất quán dùng cái giọng mà mình đã chọn từ đầu. Thậm chí cũng không có ai nhận thấy phần thứ hai của cuốn sách không được gọt giũa bằng phần đầu; nó chứa đựng những chỗ hổng lớn; những nét thứ yếu được khai triển quá mức, choán hết chỗ của những nét chính; các chương quá khác nhau, làm cho cuốn sách có tính chất vá víu, khiến người đọc không thấy tinh thần chung của nó. Nói tóm lại, lẽ ra nhà phê bình có thể có những lời phê phán sáng suốt và chính xác hơn, chê trách tôi nhiều hơn và một cách đích đáng hơn không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Đây tôi muốn nói đến cái đoạn mạn văn trữ tình đã bị các nhà báo công kích nhiều hơn cả, vì họ thấy nó biểu lộ một sự kiêu ngạo, một lòng tự mãn {Biêlinxki phê bình Những linh hồn chết, phần thứ nhất, ngay khi sách mới xuất bản, trong tạp chí Niên san của Tổ quốc, ca tụng khả năng hiện thực chủ nghĩa và tâm hồn nhiệt thành của tác giả: nhưng cho rằng tác phẩm có những đoạn tỏ lòng yêu nước quá huênh hoang}, một lối khoác lác xưa nay chưa từng thấy ở một nhà văn nào. Đó là đoạn mạn văn ở chương cuối: sau khi tả Tsitsikôp ra đi, tác giả bỏ nhân vật của mình ở giữa đường thiên lý, thay mình vào chỗ đó và ngạc nhiên trước vẻ đơn điệu chán ngắt của sự vật, trước khoảng không gian bao la hoang vắng và tiếng hát ai oán từ dải đất Nga vang lên suốt từ biển này sang biển kia; trong một phút cảm khái, đã lên tiếng hỏi bản thân nước Nga, van xin nước Nga cắt nghĩa mối cảm xúc khó hiểu đang làm lòng mình thắt lại: tại sao cứ có cảm giác như tất cả mọi sinh linh, mọi sự vật trong nước Nga đều như đang nhìn mình đăm đăm và chờ đợi ở mình một cái gì? Người ta đã thấy trong những lời lẽ đó bằng chứng của kiêu ngạo, một sự huênh hoang không tiền khoáng hậu; nhưng thật ra đây không phải là huênh hoang, cũng chẳng phải là kiêu ngạo, mà chỉ là sự diễn đạt một cách vụng về của một tình cảm chân thành. Ngay giờ phút này, tôi vẫn còn cảm thấy ấn tượng đó. Tôi không sao chịu đựng nổi những âm thanh ai oán, não lòng của một bài ca Nga khi nó rung lên trong không gian vô tận của thôn quê ta. Những âm thanh ấy ám ảnh tâm hồn tôi. Thậm chí tôi còn lấy làm lạ sao mỗi một người trong chúng ta lại không biết đến cái cảm giác đó. Ai là người trông thấy những không gian vắng lặng, lạnh lẽo ấy mà không thấy lòng mình se lại; ai là người trong những âm thanh thê thiết của bài dân ca Nga, không nhận thấy những lời trách móc đau xót đối với bản thân mình - tôi nói rõ: đối với bản thân mình - thì người ấy đã làm xong bổn phận của mình một cách trọn vẹn, trừ phi không có một tâm hồn Nga. Sự vật như thế nào, ta hãy cứ nhìn nhận nó như thế. Gần một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng đế Piôtr đệ nhất mở mắt ra cho chúng ta, dắt dìu chúng ta bước lên con đường văn hóa Âu châu, và đặt vào tay chúng ta đủ mọi phương tiện hành động: thế nhưng nông thôn của ta vẫn buồn tẻ và hoang vắng như xưa. Quanh ta mọi vật đều có vẻ ghẻ lạnh, thù địch; tưởng chừng chúng ta chưa phải đang ở trong nhà mình, mà chỉ là đang cắm trại trên đường trường; tưởng chừng đối với ta, nước Nga không phải là một nơi trú ẩn ấm áp, thân tình, mà là một ngôi trạm phủ tuyết lạnh ngắt; ở đấy chỉ thấy hiện ra một gã coi trạm lãnh đạm buông thõng một câu trả lời gắt gao: “- Không có ngựa!”. Tại sao lại như thế? Lỗi tại ai? Tại chính phủ hay tại ta? Nhưng chính phủ vẫn hoạt động không ngừng: chứng cớ là những tập quy chế, chỉ thị, sắc lệnh dày cộm, cái số khổng lồ những tòa nhà đã xây, những cuốn sách đã xuất bản; những thiết chế đủ loại, giáo dục có, từ thiện có, bác ái có; không kể những thiết chế mà ở nước ngoài không thấy chính phủ nào lập ra. Từ trên có những câu hỏi đưa xuống, ở dưới có những lời giải đáp đưa lên. Đôi khi ở trên đưa xuống những câu hỏi chứng tỏ sự đại lượng của một vài nhà vua đã dám hy sinh cả quyền lợi bản thân. Thế mà ở dưới đã trả lời ra sao? Tất cả đều tùy ở cách thức, ở nghệ thuật ứng dụng một tư tưởng sao cho nó thành hiện thực và đi hẳn vào đời sống. Một đạo dụ, dù nội dung có hay ho, dù lời lẽ có chính xác bao nhiêu chăng nữa, cũng vẫn chỉ là một tờ giấy không hồn; nếu ở dưới không tỏ ra có ý muốn đem ứng dụng nó theo một cách thức thích đáng, theo cái cách thức mà chỉ có người nào quan niệm sự công bằng dưới ánh sáng của Thượng đế, chứ không phải dưới ánh sáng của con người, mới tìm ra được. Nếu không, tất cả sẽ thành ra có hại. Chứng cớ là những tay gian lận và ăn hối lộ tinh ma của chúng ta vốn biết cách xoay xở với tất cả các quy chế; một đạo dụ mới đối với họ là một nguồn thu hoạch mới, một phương tiện mới để làm cho sự giải quyết công việc rối ren thêm, để thọc thêm một gậy vào bánh xe. Nói tóm lại, nhìn về đâu tôi cũng thấy rằng thủ phạm chính là những kẻ có bổn phận thi hành pháp luật. Có người vì quá ước ao danh vọng và huân chương, mà đâm ra hấp tấp. Lại có người vì muốn tỏ ra nhiệt thành và tận tụy - một thói xấu rất Nga, - mà cứ đâm đầu vào công việc, không chịu khó nghiên cứu, những tưởng mình có thể điều khiển công việc một cách thành thạo; nhưng hễ thất bại một lần là nản chí ngay, và sau đó, - cũng một thói xấu không kém tính chất Nga, - lập tức thờ ơ với công việc. Lại có người, khi lòng tự ái nhỏ nhen của mình bị tổn thương, liền để lọt vào tay một tên trùm bịp bợm cái cương vị mà ở đấy mình đã bắt đầu phấn đấu cho chính nghĩa. Nói tóm lại, trong chúng ta, ít có người biết yêu cái thiện đến mức có thể vì việc thiện mà hy sinh tham vọng, tự ái cùng tất cả những cái nhỏ nhen của một lòng vị kỷ dễ đâm ra cay cú đến mức có thể khép mình vào một luật lệ bất di bất dịch là phụng sự đất nước, chứ không phải phụng sự bản thân mình; luôn luôn nhớ rằng mình ở cương vị là để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, chứ không phải cho bản thân. Ngược lại từ ít lâu nay người Nga chúng ta tuồng như có dụng tâm muốn phô trương tính vị kỷ và dễ chạnh lòng của mình ra. Không biết trong chúng ta liệu có những người mà sau khi làm tròn nhiệm vụ mình rồi, có thể đứng trước toàn thể thiên hạ tuyên bố rằng mình không có lỗi gì đối với nước Nga hết; rằng khắp những khoảng đồng không mông quạnh của đất nước này, không có cái gì có thể coi như một lời trách móc đối với mình cả; rằng mọi vật đều hài lòng về mình và không còn mong chờ gì hơn nữa không? Tôi không biết số người có thể làm như vậy có nhiều không. Tôi chỉ biết rằng riêng tôi, tôi đã nghe thấy lời trách móc thầm lặng đó. Giờ đây, nó vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Sự nghiệp văn chương của tôi có hèn kém thật, nhưng lẽ ra dù sao nó cũng có thể giúp tôi là một việc có ích hơn. Tuy lòng tôi xưa nay vẫn ấp ủ khát vọng làm điều thiện và chỉ vì khát vọng đó mà tôi cầm bút; những cái đó phỏng có gì quan trọng đâu! Tôi đã làm tròn nhiệm vụ ấy như thế nào? Chẳng hạn, cuốn sách vừa rồi của tôi, nhan đề Những linh hồn chết, liệu có gây được cái ấn tượng mà lẽ ra nó phải gây nên; nếu nó được viết cho đúng với yêu cầu không? Vì không biết diễn đạt những ý nghĩ của chính mình; tuy đó là những ý nghĩ khá giản đơn, tôi đã làm cho nó bị hiểu sai, và lại hiểu sai theo một hướng có phần tai hại. Lỗi tại ai đây? Tôi có nên viện cớ là đã nghe theo những thị hiếu xốc nổi của những kẻ tài tử ưa chuộng những phong cách hào nhoáng và trống rỗng không? Tôi có nên đổ lỗi cho hoàn cảnh và tuyên bố rằng vì cần kiếm kế sinh nhai mà phải cho in vội, in vàng tác phẩm của mình không? Không. Ai là người đã từng quyết chí làm tròn nhiệm vụ một cách trung thực thì không thể để cho hoàn cảnh chi phối mình được; nếu cần, thà ngửa tay ra ăn xin, chứ quyết không nhượng bộ trước những lời chê trách hời hợt hay những ước lệ giả dối của xã hội được. Người nào đã vì muốn tuân theo những ước lệ giả dối đó mà làm hỏng một tác phẩm có ích cho nước nhà, thì người đó không phải là người yêu nước. Chính vì tôi đã cảm biết được cái tính nhu nhược đáng hổ thẹn của tôi, cái tính hèn nhát đáng khinh của tôi, nỗi bất lực của lòng yêu nước của tôi; cho nên tôi mới nghe thấu được lời trách móc đau xót mà tất cả những sự vật đang ở trong nưóc Nga đã lên tiếng nói với tôi. Nhưng một sức mạnh cao cả đã nâng tôi dậy; không có lỗi lầm nào không bổ cứu được; và tuy lúc đầu tôi đã chán nản trước cảnh tượng những không gian hoang vắng, về sau chính cảnh tượng ấy đã làm cho tôi đầy nhiệt tình: tôi đã thấy khoảng không vô tận ấy là một môi trường hoạt động tuyệt vời. Và tự đáy lòng tôi đã thốt lên lời kêu gọi đất nước Nga: “- Chẳng phải Ngươi vốn có sứ mệnh sinh ra những bậc anh hùng đó sao? Ngươi hiến cho họ biết bao nhiêu là không gian để xây dựng sự nghiệp!” Đó không phải là một câu văn viết cho kêu để lòe người, cũng không phải là một lời huênh hoang. Không: lời kêu gọi đó tôi thốt ra tự đáy lòng, và đến nay lòng tôi vẫn còn rung cảm vì nó. Giờ đây, sống ở nước Nga bất cứ lúc nào người ta cũng có thể trở thành một bậc anh hùng. Mỗi địa vị, mỗi chức vụ đều đòi hỏi bản lĩnh anh hùng. Mỗi người trong chúng ta đã làm ô uế tính chất thiêng liêng của địa vị và chức vụ của mình (tất cả mọi chức vụ đều thiêng liêng), đến nỗi phải có những sự cố gắng anh dũng mới đưa được địa vị và chức vụ trở lại trạng thái cao cả thích đáng. Trực giác tôi đã cảm thấy được sự nghiệp cao quý ấy, sự nghiệp ngày nay chỉ dành cho dân tộc Nga mà thôi; vì chỉ có dân tộc Nga biết được chủ nghĩa anh hùng và thấy trải ra trước mắt mình những khoảng không vô tận như vậy. Chính vì thế mà tôi đã thốt lên lời than kia, lời than mà người ta đã tưởng lầm là một biểu hiện của tính kiêu ngạo, một lời huênh hoang. 1843 III. Tôi lấy làm lạ rằng một người am hiểu lòng người như anh mà lại có thể đi hỏi tôi những câu ngớ ngẩn chẳng khác gì những người khác. Phần lớn những câu hỏi ấy đều liên quan đến phần sau này của bộ sách: tò mò như vậy mà làm gì? Chỉ có mỗi một câu hỏi thật là tế nhị và xứng đáng với anh; và tuy cũng chưa dám chắc là có thể trả lời một cách thỏa đáng, tôi vẫn ước ao rằng có những người khác cũng hỏi tôi câu đó. Cụ thể là: tại sao những nhân vật trong các tác phẩm gần đây của tôi, nhất là trong Những linh hồn chết, tuy không phải là những bức chân dung của người thật, lại cũng chẳng có gì hấp dẫn cho lắm, mà sao vẫn có vẻ thân thuộc, gần gũi với chúng ta; tưởng như có thể tìm thấy ở các nhân vật đó những nét riêng của bản thân mình? Mới năm ngoái đây thôi, giá có ai hỏi như vậy, dù người đó là anh đi nữa, thì tôi sẽ lúng túng, khó trả lời. Nhưng bây giờ thì tôi xin thú hết: sở dĩ các nhân vật của tôi gần gũi với lòng người là vì chúng ở lòng người mà ra; tất cả những tác phẩm gần đây của tôi đều là lịch sử của tâm hồn tôi. Để anh hiểu rõ hơn những điều này, tôi xin giãi bày để anh rõ tôi là nhà văn như thế nào. Người ta đã bình luận về tôi khá nhiều: người ta đã xác định một số khía cạnh trong tài năng của tôi, nhưng vẫn chưa nhận ra nét căn bản của nó. Puskin là người duy nhất đã nhận thấy nét đó. Puskin vẫn nói với tôi rằng chưa có nhà văn nào có được đến mức như tôi, cái năng khiếu làm hiện rõ sự nhạt nhẽo của cuộc đời, làm cho sự tầm thường dung tục nổi lên, sắc sảo đến nỗi những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đập ngay vào mắt người ta. Đó chính là cái khả năng thiên bẩm trội nhất của tôi, cái khả năng mà quả nhiên không còn nhà văn nào có. Tôi bẩm sinh đã có khả năng đó, và sau một cơn khủng hoảng tinh thần, nó lại càng phát triển thêm. Và đó chính là điều mà dạo ấy tôi chưa thể thú nhận, dù là với Puskin cũng vậy. Trong Những linh hồn chết, khả năng đó còn thể hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa. Sở dĩ Những linh hồn chết đã làm cho nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều tiếng xôn xao như vậy, không phải là vì nó phát hiện những ung nhọt hay những bệnh tật ở bên trong; đó không phải là vì nó bày ra cái cảnh đắc thắng của sự xấu xa và cái cảnh những người vô tội bị áp bức, khiến người ta sửng sốt. Không, các nhân vật của tôi không phải là những kẻ vô lại. Tôi chỉ cần thêm một nét dễ ưa vào một trong các nhân vật đó là bạn đọc sẽ vừa lòng với tất cả các nhân vật khác; nhưng vẻ tầm thường dung tục của toàn thể khiến bạn đọc ghê tởm. Các nhân vật của tôi nối đuôi nhau xuất hiện, nhân vật này lại tầm thường hơn nhân vật kia; và độc giả hoài công đi tìm một đoạn có thể an ủi mình, một nơi có thể dừng lại để thở; gấp sách lại, bạn đọc tưởng như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá đó là những tên gian phi có lắm màu, lắm vẻ đẹp mắt, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho tôi; đằng này lại là những kẻ rất mực tầm thường, nên người ta không dung thứ được. Sự vô nghĩa lý của người Nga đã làm cho bạn đọc hoảng sợ hơn là những thói hư tật xấu của họ. Đáng khen thay nỗi kinh hoàng đó! Đã thấy ghê tởm như vậy trước sự đê tiện, hẳn phải có những đức tính trái ngược với sự đê tiện. Vậy thì cái khả năng trội nhất của tôi chính là ở chỗ đó; và xin nhắc lại rằng cái khả năng ấy lẽ ra không phát triển mạnh như vậy nếu tâm trạng của tôi và quá trình diễn biến tinh thần của tôi không góp sức vào đấy. Trong các bạn đọc của tôi, không có ai biết rằng trong khi cười các nhân vật của tôi, họ cũng cười cả chính bản thân tôi đó. Tôi không có một tật xấu, một đức tính nào đủ mạnh để chế ngự các tật xấu, các đức tính khác; ngược lại, tất cả những tính xấu mỗi cái một tí, đều họp nhau trong con người tôi; tôi chưa từng thấy ai tập họp nhiều tính xấu như thế. Thượng đế đã phú cho tôi một bản tính rất phức tạp. Người đã cho tôi một vài đức tính; đức tính đẹp nhất mà tôi không biết làm thế nào để tạ ơn người, là ước vọng tu thân. Tôi chưa bao giờ thích thú với những thói xấu của mình và cũng may mà Thượng đế chí nhân đã cho tôi phát hiện dần từng thói xấu một chứ không phải đột nhiên khám phá ra tất cả một lúc, trong khi tôi chưa quan niệm được lòng từ bi vô cùng vô tận của Người; nếu không thì chắc chắn tôi đã treo cổ mà chết cho rồi. Trong khi tôi dần dần phát hiện ra những tính xấu của mình, thì một sự xui khiến kỳ diệu của bề trên làm cho tôi tăng thêm ý muốn trút bỏ những tính xấu đó đi; một cơn khủng hoảng tinh thần kỳ dị đã thúc đẩy tôi chuyển những tính xấu đó cho các nhân vật của tôi. Cơn khủng hoảng đó cụ thể ra sao thì anh cũng không nên biết làm gì; ví thử điều đó có chút gì bổ ích cho bất cứ ai, thì tôi đã nói ra từ lâu rồi. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu lấy những tính xấu của tôi thêm vào các tính xấu của nhân vật. Tôi làm như thế này: tôi lấy tính xấu của tôi gán cho một người nào mà cương vị và chức vụ khác tôi, rồi theo dõi tác dụng của nó trong người ấy; tôi cố gắng hình dung người đó là một kẻ thù không đội trời chung của tôi, đã từng lăng nhục tôi một cách tàn tệ; tôi hằn học, chế nhạo, dè bỉu hắn. Giá có ai trông thấy những quái vật mà ngòi bút tôi đã vẽ ra lúc đầu, người đó hẳn phải rùng mình, sởn gáy. Tôi chỉ xin nói với anh rằng khi nghe tôi đọc những chương đầu của Những linh hồn chết dưới dạng thức nguyên sơ, thì Puskin, - tính vốn hay cười xưa nay và bao giờ cũng vui lên khi nghe tôi đọc, - lần này lại cau mặt, mỗi lúc một thêm ủ dột. Khi tôi đọc xong, Puskin thốt lên, giọng thảm đạm: “Trời ơi, nước Nga của chúng ta thật buồn quá!” ... Mời các bạn đón đọc Những Linh Hồn Chết của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc
Ngô Bảo Vương, vốn được ướm vào vị trí thừa kế là cô chủ lớn của Beauty Salon WOB nổi tiếng trong giới làm đẹp cả nước do bố mẹ tạo dựng lên. Nhưng bi kịch không may xảy ra khiến cô không được bố thừa nhận và phải ra sống riêng. Ngược lại cô em gái tên Tú Uyên lại rất được bố yêu chiều. Mẹ vốn là nhà tạo mẫu tóc xuất sắc nên Bảo Vương sớm làm quen với chiếc kéo cắt tóc từ khi còn rất nhỏ. Mơ ước của cô là được trở thành Hair stylist thực thụ, mang đến phép màu cho những ai mong muốn được xinh đẹp. Trịnh Ngân - hai mươi hai tuổi, một tài năng trẻ trong giới hair stylist, đoạt nhiều giải thưởng từ các cuộc thi trong nước. Cô là hình tượng của những bạn trẻ có đam mê với ngành tạo mẫu tóc. Hiện, Trịnh Ngân đang làm việc cho salon WOB. Trong cuộc đụng độ không mong muốn, Trịnh Ngân đã làm một hành động vô cùng xúc phạm đến Bảo Vương. Quá tức giận và không chịu thua, Bảo Vương quyết định thi tuyển vào WOB. Và tại đây, cô đã gặp: Một Trần Thoại thiên tài cắt tóc. Một hot boy Nicolas Nguyễn trong giới hair stylist. Một An Hằng với bàn tay “phép thuật” make up. Một Hồng Thuận chuyên gia làm nail. Một Đài Trang am tường hương liệu.Sáu con người với tài năng và tính cách khác nhau nhưng lại có chung một mơ ước… Tất cả bắt đầu cho câu chuyện về một người tài hoa bạc mệnh. Đọc truyện Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc bạn sẽ thấy khâm phục nghị lực của Ngô Bảo Vương. Dù bị phân biệt đối xử với cô em gái nhưng không vì thế mà cô bi quan về cuộc đời. Đặc biệt là cô được thừa hưởng dòng máu stylelist huyền thoại là mẹ cô. Sống ít tiếp xúc với bên ngoài nhưng con người cô là con người cá tính mạnh mẽ mang nét phá cách của giới trẻ. Cuộc đời cô tuy không dài – lúc vinh quang nhất thì tai hoạ lại đổ xuống nhưng bằng sự khéo léo của mình, tác giả đã làm xoa dịu nỗi lòng độc giả và truyền tải thông điệp ý nghĩa tới mỗi người. *** Võ Anh Thơ sinh năm 1991, hiện sinh sống và viết văn tại TP.HCM. Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ năm học cấp 2, tới nay là tác giả của nhiều tiểu thuyết như: Hạ tuyết, Mang thai tuổi 17, Nữ hoàng tạo mẫu tóc, Gái xấu công sở, Người mẹ được gửi từ thiên đường, Lời hứa thủy chung... cùng một số tập truyện vừa, truyện ngắn in chung khác. Tác phẩm: Hạ Tuyết Nhật Ký Mang Thai Tuổi 17 Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc Lời Hứa Thủy Chung Gái Xấu Công Sở Người Mẹ Được Gửi Từ Thiên Đường Làm Dâu Nhà Ma Để Được Yêu Nam Phụ, Nguyện Không Làm Nữ Chính (1970) Chú Hãy Ngủ Với Tôi Gặp Anh Là Điều Đẹp Nhất Của Thanh Xuân - Stay With You 2003 Thanh Mai Không Lấy Trúc Mã (1802) Tâm Ý Thành Từ Bi Khúc Trừng Phạt (Punishment) Bướm Báo Thù (Điệp Tử) Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love Đời Bình An (1972) ... *** Một đêm mưa tầm tã. Làn nước trắng xoá lạnh ngắt tuôn ồ ạt xuống mọi thứ không chút thương tiếc. Trên con đường quốc lộ, chiếc xe hơi Toyota màu xám lao đi với vận tốc khá nhanh. Dường như cô gái trẻ điều khiển chiếc xe hơi này đang chạy đua với thời gian để tìm kiếm thứ gì rất quan trọng, bởi ánh mắt cô đầy lo lắng lẫn mong mỏi khi liên tục hướng ra bên ngoài kính xe bị bao phủ bởi màn mưa xối xả. Mặc dù không thấy gì nhưng cô vẫn nhìn, hy vọng có thể bắt gặp hình dáng nhỏ bé thân quen. Nhưng chỉ có mưa và đêm tối bao phủ. Ra khỏi quốc lộ, tấp xe vào một bên đường, cô thở ra gục đầu xuống vô lăng. Có tiếng ngáy khe khẽ vang lên bên cạnh. Cô ngẩng mặt, nhìn qua. Đứa con gái nhỏ đang nhắm mắt ngủ ngon lành. Kéo nhẹ áo khoác đắp lên người nó xong cô gái trẻ tiếp tục cuộc kiếm tìm. Cô lái chiếc xe ra đường... May thay, đến một khúc ngoặt, cô mừng rỡ khi phản chiếu trong đáy mắt là bóng dáng nhỏ bé ướt nhem đang lê từng bước nặng nhọc qua từng ngôi nhà say giấc. Cô hạ kính xe xuống, toan cất tiếng gọi thì đột nhiên, con mèo hoang to lớn phóng ra ngay đầu xe làm cô giật mình đạp thắng đồng thời bẻ tay lái. Cú thắng gấp khiến bánh xe bị trượt và cả chiếc xe nghiêng sang bên, đổ rầm. Tai nạn bất ngờ diễn ra. Những bóng xe thưa thớt lưu thông trên đường mau chóng ngừng lại. Âm thanh ồn ào huyên náo xen lẫn trong tiếng mưa nặng hạt. Cách đó không xa, bóng dáng nhỏ bé ban nãy nhìn về phía đám đông ồn ào. Đôi mắt đang mệt mỏi mở to bần thần bởi nhận ra chiếc xe hơi màu xám thân quen... Xe cấp cứu chạy đến. Người ta đưa được đứa con gái ra khỏi xe, vết thương ngay vai cô bé không ngừng chảy máu.Còn người mẹ, chính là cô gái trẻ, do cú va đập mạnh ở đầu đã chết ngay trong xe. Tai nạn thương tâm đó vô tình cướp đi một tài năng xuất chúng trong giới làm đẹp – "Queen of Hair stylist" Jessica Phạm. __________________________________________________ End Flashback. Ngô Bảo Vương mở bừng mắt. Một khoảng tối đổ ập xuống cái nhìn bần thần và sợ hãi. Cơ thể ướt đẫm mồ hôi, chốc chốc lại run lên từng hồi, cô thở gấp gáp như bị lấy mất oxy xung quanh. Phải mất mấy phút sau, cô mới biết mình đang nằm trong phòng chứ không phải tại nơi diễn ra tai nạn kinh hoàng mười năm trước. Đôi mắt dịu lại, giờ đây lại ánh lên niềm tiếc thương vô hạn, có cảm tưởng chẳng thứ gì tát cạn được nỗi đau buồn đó. Chậm rãi ngồi dậy, Bảo Vương lau mồ hôi bịn rịn trên trán, đưa mắt nhìn đồng hồ treo tường. Mới hơn 4h30 sáng. Co hai chân lên, gục mặt xuống đầu gối, cô cần tịnh tâm lại. Bảo Vương từng là một cô chủ nhỏ trong ngôi biệt thự rộng lớn. Bố cô là giám đốc Beauty Salon nổi tiếng trong giới làm đẹp cả nước WOB – World Of Beautification – Thế giới làm đẹp. Mẹ cô, hair stylist xuất sắc, là người gây dựng lên WOB danh tiếng. Và còn Tú Uyên, em gái nhỏ hơn cô một tuổi rất đáng yêu. Tuổi thơ của Bảo Vương mang những gam màu hạnh phúc. Nhưng tất cả biến mất vào cái ngày định mệnh tàn khốc: khi Tú Uyên phải mang vết sẹo ngay vai không bao giờ biến mất và người mẹ yêu dấu ra đi mãi mãi, Bảo Vương bị bố đưa đi rời khỏi ngôi biệt thự, đến ở trong ngôi nhà nhỏ tách biệt. Quản gia Kim theo lệnh ông chủ, đến đây chăm sóc cô. Theo năm tháng, Bảo Vương dần quen với cuộc sống mới. Cứ cách một tuần, Tú Uyên đến thăm chị. Thỉnh thoảng, Bảo Vương về lại nhà thăm bố nhưng nhận lại chỉ là đôi mắt lạnh lùng và thái độ lãnh đạm từ ông. Cứ như thế, cô không còn muốn trở về nữa. Sự vắng bóng của Bảo Vương trong ngôi biệt thự rộng lớn qua nhiều năm khiến mọi người dường như quên mất vị giám đốc WOB ấy từng có một cô con gái khác ngoài Tú Uyên. Dẫu quản gia Kim luôn nhận tiền chu cấp mỗi tháng từ ông chủ nhưng Bảo Vương vẫn đi làm thêm. Trước đây, mẹ Bảo Vương – Jessica Phạm, từng sống tại ngôi nhà này và cũng được quản gia Kim nuôi dưỡng. Ông vốn là bạn lâu năm của ông bà ngoại Bảo Vương. Vì thế, trong ngôi nhà nhỏ cô đang sống có rất nhiều đồ nghề của hair stylist. Nhờ vậy, cô có thể tiếp tục rèn luyện kỹ năng, sống với ước mơ trở thành một hair stylist thực thụ như mẹ. Được mẹ chỉ dạy kỹ càng khi còn nhỏ cùng năng khiếu trời cho và sự nỗ lực không ngừng, giờ đây Bảo Vương đã là một hair stylist nghiệp dư với trình độ kỹ thuật rất tốt. Trở về thực tại, sau khi đã bình tâm lại, Bảo Vương khoác áo vào, rời khỏi phòng ngủ. Những lúc như vậy, chỉ có một nơi mới khiến cô quên đi các cảm xúc tồi tệ đang bóp nghẹt chính mình. Đi qua dãy hành lang dài vắng vẻ trong ngôi nhà gỗ nhỏ, trông bóng dáng Bảo Vương thật lặng lẽ. Gương mặt trầm buồn, nỗi u uất cứ bướng bỉnh bám mãi trên từng sợi tóc ngắn màu nâu đen. Vết thương lòng trong quá khứ đã đánh cắp những cảm xúc vui vẻ hạnh phúc của cô. Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc của tác giả Võ Anh Thơ.
Lời Hứa Thủy Chung
Trong cuộc sống ai trong chúng ta chắc cũng đã từng một lần thất hứa, nhưng dù có như thế cũng không bằng một lần thất hứa trong tình yêu, một lời hứa quan trọng nào đó có thể thay đổi một con người và bạn đã làm điều đó chưa? nếu đã từng thì xin mời bạn đến với tác phẩm Lời Hứa Thủy Chung để chiêm nghiệm về những gì lời hứa mang lại. Lời Hứa Thủy Chung là món quà ý nghĩa nhất dành tặng: Những ai bị bỏ rơi mà không tin tưởng vào tình yêu. Những ai trên đường tìm kiếm một nửa của trái tim mình. Những ai đã và đang yêu trên khắp thế gian này. "Tình yêu, nếu ví như một đóa hoa xinh đẹp thì lời hứa thủy chung chính là cội rễ, thứ mà chẳng loài hoa nào sống một khi thiếu mất đi!" Hội không thủy chung sẽ giúp những người phụ nữ thất tình không phải đau khổ nữa, bằng cách dạy họ cách sống không chung thủy - Đó là tuyên bố của Lâm Kỳ Phong, người làm chủ của cái hội tồi tàn ấy. Lâm Kỳ Phong vì ám ảnh về cái chết trong sự đợi chờ mòn mỏi của mẹ do bị cha phản bội mà căm ghét sự thủy chung, lập ra "Hội không chung thủy".  Anh "biến" những cô gái có vẻ ngoài bình thường thành quý cô để họ "thả mồi câu" các anh chàng quý tộc và sau đó là... Diệp Lệ Chi, cô nàng cận hiền lành đã quyết tâm đến hội không thủy chung để học sau khi bị bỏ rơi hai lần. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra??? Họ gặp nhau, và tình cảm nảy sinh sau những lần "chí chóe", những giờ học bi hài, đặc biệt là khi có sự xuất hiện của nhân vật thứ ba - Nguyên Quang Dương - cũng chính là người em cùng cha khác mẹ với Kỳ Phong. Quang Dương yêu Lệ Chi và anh chàng vô tình trở thành "đối tượng" để Lệ Chi thực hành bài học "yêu rồi đá" của cô. Nhưng khi nhận ra tình cảm chân thành của Quang Dương dành cho mình và biết không nên kéo dài "trò chơi" lâu hơn nữa, Lệ Chi đã chủ động nói lời chia tay. Cô cũng biết trái tim mình thực sự đã hướng về ai. Nhưng liệu sau những tổn thương mà hai người đã gây ra cho Quang Dương, Lệ Chi và Kỳ Phong có thể đến với nhau? Hạnh phúc có đến với họ khi cuối cùng, sau tất cả những thăng trầm của cuộc sống, cả hai đều trân trọng mang trong mình "lời hứa thủy chung"? *** Võ Anh Thơ sinh năm 1991, hiện sinh sống và viết văn tại TP.HCM. Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ năm học cấp 2, tới nay là tác giả của nhiều tiểu thuyết như: Hạ tuyết, Mang thai tuổi 17, Nữ hoàng tạo mẫu tóc, Gái xấu công sở, Người mẹ được gửi từ thiên đường, Lời hứa thủy chung... cùng một số tập truyện vừa, truyện ngắn in chung khác. Tác phẩm: Hạ Tuyết Nhật Ký Mang Thai Tuổi 17 Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc Lời Hứa Thủy Chung Gái Xấu Công Sở Người Mẹ Được Gửi Từ Thiên Đường Làm Dâu Nhà Ma Để Được Yêu Nam Phụ, Nguyện Không Làm Nữ Chính (1970) Chú Hãy Ngủ Với Tôi Gặp Anh Là Điều Đẹp Nhất Của Thanh Xuân - Stay With You 2003 Thanh Mai Không Lấy Trúc Mã (1802) Tâm Ý Thành Từ Bi Khúc Trừng Phạt (Punishment) Bướm Báo Thù (Điệp Tử) Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love Đời Bình An (1972) ... *** Một buổi sáng đẹp trời, gió tản bộ khắp phố Hoa Đạo. Không gian tươi mát vô cùng và chẳng có dấu hiệu nào cho thấy hôm nay là ngày xấu. Thế nhưng có chuyện buồn đang xảy ra trong quán cà phê cuối con đường. Chuyện của những cô gái trẻ. Dường như hôm nay là một ngày không vui đối với họ... Xấp khăn giấy dần vơi đi, bàn tay ai đó cứ liên tục xé chúng không ngừng. Khăn giấy được xử dụng để lau nước mắt, chùi nước mũi chảy ròng. Người đó là một cô gái với cặp kính cận và hai bím tóc dài, chỉ là cô gái bình thường. Đối diện bên kia thêm ba cô khác, các cô này xem ra có vẻ am hiểu chuyện đời hơn: cách ăn mặc làm tóc cả trang điểm khá diêm dúa. Họ chẳng nói gì chỉ mãi nhìn cô kia khóc. Cuối cùng một trong ba cô, người mặc váy ngắn bó sát màu đỏ chói, lên tiếng: "Lệ Chi, cậu đã khóc hơn nửa tiếng rồi đấy! Chúng tớ đến đây không phải để nghe cậu khóc mãi như vậy! " Diệp Lệ Chi, cô gái đang khóc, đôi mắt sưng vù nhìn lên, mếu máo nói trong tiếng nấc: "Hồ Trúc, Diễm Hương, Lan Mai, xin lỗi nhưng tớ buồn quá tớ không biết phải làm gì chỉ muốn khóc thôi." – Vừa dứt lời, nó úp tờ khăn giấy lên mặt tiếp tục khóc. "Chúng tớ biết bây giờ cậu rất buồn nhưng cậu khóc vì gã ấy có xứng đáng không? Gã tồi thật! " – Hồ Trúc tỏ vẻ an ủi nhưng nhìn nét mặt thì giống như chẳng quan tâm lắm vì chuyện này xảy ra thường í mà. Diệp Lệ Chi, một cô gái hiền lành, tốt bụng hay giúp đỡ người khác và thường bị người ta xem là khờ khạo(!). Lệ Chi đã trải qua cuộc tình đầu tiên với anh bạn cùng lớp, cả hai trông có vẻ hợp. Thế rồi cuối cùng hắn bỏ rơi Lệ Chi chỉ vì... cô gái quá chung tình! Thử hỏi có lý do nào lại vô duyên đến thế không? Tiếp theo, một anh chàng có vẻ bụi, hơi giống dân chơi tí đã hào hiệp giang tay ra đỡ lấy Lệ Chi. Nó vô cùng cảm động vì trong lúc đau khổ nhất lại có người an ủi mình. Thế Lệ Chi đồng ý quen với anh ta. Sau một thời gian tìm hiều cô gái đã ngã lòng vào chàng trai tốt bụng.Vậy mà cuối cùng, mới sáng nay thôi, hắn đã bảo: "Chúng ta không hợp nhau, em quá ư thủy chung, điều đó đã lỗi thời rồi! Mẫu bạn gái của anh là phải lăng nhăng một tí, phải khiến anh hờn ghen pha chút đau khổ như thế mới gọi là mùi vị tình yêu!" – Đang cao hứng thì hắn liền quay qua nhìn Lệ Chi, mặt đầy thất vọng – "Còn em lúc nào cũng chỉ nghĩ có mình anh thôi, lúc nào cũng nghe lời răm rắp chán lắm! Phải cho anh chút ghen tuông hờn giận. Ghen ấy, hiểu không?" Mời các bạn đón đọc Lời Hứa Thủy Chung của tác giả Võ Anh Thơ.
Gái Xấu Công Sở
Truyện dài của Võ Anh Thơ dành cho những chàng trai, cô gái muốn tìm kiếm một tình yêu nhẹ nhàng, bình dị và chứa đựng thông điệp tưởng chừng như giản đơn nhưng rất khó nhận ra. Câu chuyện bắt đầu bằng giọng kể hài hước dí dỏm nhưng ẩn chút cay đắng lẫn mỉa mai. Phạm Nguyễn vốn là một cô gái không nổi bật về ngoại hình. Ngay cả cái tên của cô cũng lạ kỳ khi được ghép bởi họ cha và mẹ. Sau khi tốt nghiệp đại học, Phạm Nguyễn đã bị bảy công ty từ chối. Cuối cùng, thần may mắn cũng mỉm cười và để cô trúng tuyển vào công ty Bình Tân ở vị trí nhân viên kinh doanh. Đây chính là bước ngoặt khiến Phạm Nguyễn nhận ra thế nào là sự phân biệt đối xử giữa gái xấu và gái đẹp... Giống như bao cô gái khác, Phạm Nguyễn cũng muốn trải qua một mối tình chân thành, đẹp đẽ. Và bởi thế, cô cảm thấy bản thân thật may mắn khi gặp được anh chàng hoàn hảo tốt bụng Đinh Huy, hot boy phòng Marketing. Từ việc thấy anh quan tâm, giúp đỡ mình những lúc khó khăn đến khi chứng kiến anh làm “lơ”, lạnh lùng với hoa khôi mới vào là Huỳnh Trân, đủ để khiến Nguyễn dành trọn con tim cho chàng trai này. Và họ trở thành người yêu của nhau. Nhưng rồi mối tình đầu tưởng chừng như cổ tích tươi đẹp ấy đã bị bóp nát không thương tiếc bằng bàn tay của hai kẻ độc ác xảo quyệt. Chuyện tình của Phạm Nguyễn và Đinh Huy kết thúc trong đau đớn, nước mắt và cả sự dối trá. Cô rời khỏi công ty, mang theo vết thương lòng đầu đời cùng bài học đắt giá: “Trên đời này, điều gì diễn ra quá tốt đẹp thì đều chứa đựng cạm bẫy…”. Ba năm sau, câu chuyện của cô gái xấu xí tiếp tục khi Phạm Nguyễn tình cờ gặp lại Lâm Đạt, trưởng phòng Kinh doanh, sếp trực tiếp của cô lúc còn ở công ty cũ. Cứ ngỡ chỉ là cuộc gặp gỡ giữa hai người bằng hữu xưa, nào ngờ đây lại mở ra mối lương duyên mới hạnh phúc hơn cho họ. Nếu như bạn thích một tác phẩm yêu thù cam go, lâm ly nước mắt hay trái ngang éo le thì có lẽ Gái xấu công sở không phải là sự chọn lựa tốt. Bởi, đây là câu chuyện về tình yêu hết sức chân thành, cảm động của cô gái xấu xí Phạm Nguyễn với chàng trai của cuộc đời mình, Lâm Đạt. Cách anh quan tâm, yêu thương, chăm sóc bạn gái khiến mọi cô gái đều ngưỡng mộ. Những điều mà tình yêu họ trải qua đều nhỏ nhặt và giản đơn đến kì lạ, được thể hiện dưới những câu từ hài hước một tí, dí dỏm một tí. Từ những xao xuyến thuở ban đầu, đến cái cách Phạm Nguyễn lẫn Lâm Đạt âm thầm quan sát đối phương, giúp họ bắt đầu thấu hiểu nhau, rồi lại quan tâm, chia sẻ những khi vui buồn, cô đơn. Chính vì họ từng bước, từng bước đi vào cuộc đời đối phương theo cách nhẹ nhàng, êm đềm mà chân thành như thế đã khiến chuyện tình của họ trở nên đặc biệt. Giống như một bản tình ca chậm rãi, da diết! Dù vậy, chuyện tình của Phạm Nguyễn và Lâm Đạt không chỉ có hạnh phúc, vui vẻ. Cũng như những tình yêu đôi lứa khác, họ trải qua hờn giận, trách cứ, sợ hãi lẫn chia xa. Thậm chí có lúc tưởng chừng đã phải buông tay đối phương. Thế nhưng trải qua những thăng trầm, biến động, sau cùng họ vẫn chọn cách trở về bên nhau. Vì họ thật sự nhận ra: “Tôi không biết yêu một người là như thế nào nhưng cái cảm giác không nỡ buông tay một người thì tôi nghĩ, mình hiểu rất rõ. Tôi sẽ chỉ tự hỏi rằng, ai là người mình không muốn rời xa nhất. Và lúc đó tôi sẽ nhận ra mình thực sự yêu ai. Bởi vốn dĩ, bản chất của tình yêu là không muốn buông bỏ”. Vâng, là như vậy đấy! Giản đơn thôi, nếu yêu thật lòng thì sẽ không dễ dàng buông bỏ.  Gia Huy *** Võ Anh Thơ sinh năm 1991, hiện sinh sống và viết văn tại TP.HCM. Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ năm học cấp 2, tới nay là tác giả của nhiều tiểu thuyết như: Hạ tuyết, Mang thai tuổi 17, Nữ hoàng tạo mẫu tóc, Gái xấu công sở, Người mẹ được gửi từ thiên đường, Lời hứa thủy chung... cùng một số tập truyện vừa, truyện ngắn in chung khác. Tác phẩm: Hạ Tuyết Nhật Ký Mang Thai Tuổi 17 Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc Lời Hứa Thủy Chung Gái Xấu Công Sở Người Mẹ Được Gửi Từ Thiên Đường Làm Dâu Nhà Ma Để Được Yêu Nam Phụ, Nguyện Không Làm Nữ Chính (1970) Chú Hãy Ngủ Với Tôi Gặp Anh Là Điều Đẹp Nhất Của Thanh Xuân - Stay With You 2003 Thanh Mai Không Lấy Trúc Mã (1802) Tâm Ý Thành Từ Bi Khúc Trừng Phạt (Punishment) Bướm Báo Thù (Điệp Tử) Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love Đời Bình An (1972) ... *** Trưởng phòng nhân sự của công ty Bình Tân nhìn qua tập hồ sơ xin việc của tôi, nữ sinh viên mới tốt nghiệp ra trường, khá lâu. Với cái tên Phạm Nguyễn, tôi biết là nó rất lạ và gây chút ấn tượng với người khác. Vài phút sau, anh ta hạ tờ giấy xuống, bấy giờ mới ngước nhìn tôi. Ban nãy khi anh ta xem bảng lý lịch của tôi, nét mặt hài lòng bao nhiêu thì bây giờ trông nó có vẻ thất vọng bấy nhiêu. Tôi biết rõ lý do tại sao vì cái này giống hệt mấy lần trước tôi đi xin việc. Tôi - một cô gái có "nhan sắc" dưới mức bình thường một tẹo. Vốn, tôi là người có điểm bài Test online khá cao nên được mời đến đây phỏng vấn. Trình độ cũng như bằng cấp thì rất đạt, duy có một thứ khiến tôi lo lắng lúc đến đây chính là "cái bản mặt này". Nhân viên kinh doanh đòi hỏi phải có ngoại hình khá, đặc biệt là nữ, bởi phần lớn họ sẽ gặp gỡ khách hàng. Nếu đó là một cô gái đẹp, tất nhiên việc trao đổi sẽ thuận lợi, còn ngược lại thì sẽ gặp chút khó khăn. Trưởng phòng nhân sự cứ nhìn chằm chằm, tôi dù rất sốt ruột, vẫn hỏi từ tốn: - Có vấn đề gì không ổn trong hồ sơ xin việc của em ạ? - Em cao bao nhiêu? - Vị trưởng phòng trẻ liền lên tiếng nhưng không phải trả lời tôi mà là hỏi một câu hỏi khác. - Dạ, 1m57. - Không thông minh còn có thể đào tạo, chứ chân ngắn thì khó kéo dài lắm. Hiểu anh ta có ý châm chọc mình, nên tuy bề ngoài cười cười kiểu như hùa theo lời nói đùa đó nhưng kỳ thực lòng tôi không ngừng rủa xả. Tôi thách anh biến một đứa ngu si trở nên thông minh đấy! Lúc đi học, tôi thấy thầy cô vô cùng mệt mỏi với mấy đứa chậm hiểu rồi, nói như anh thì công việc giảng dạy sướng lắm nhỉ? Còn chân ngắn mà muốn dài thì dễ ợt! Ngoài kia hàng tá đứa đi kéo chân đó thôi. Không thì tôi mang giày cao mười phân là xong chứ gì! Nói thấy ghét! Dẫu là người thẳng tính, nhưng tôi biết bản thân phải giữ im lặng. Nếu tôi nói những lời lẽ này ra thì có nghĩa là chấp nhận việc bị đá đít ra khỏi công ty ngay tức khắc. Tôi không muốn bị từ chối lần nữa sau khi đã xin việc cả thảy bảy nơi. - Rồi, bây giờ chúng ta bắt đầu buổi phỏng vấn. Tôi ngồi ngay ngắn, lắng nghe câu hỏi. Buổi phỏng vấn kéo dài một tiếng thì kết thúc. Anh ta nhìn tôi, bảo: - Những câu trả lời của em rất tốt, giờ em có thể ra về, khoảng hai ngày sau anh sẽ gọi điện báo em biết kết quả. Cảm ơn em. Quan sát anh ta xếp hồ sơ của mình lại, tôi định nói gì đó nhưng lại thôi. Thiết nghĩ, giờ có nói thêm điều gì cũng vậy. Thế là tôi đành chậm rãi đứng dậy, cúi đầu chào. Khi quay đi, mặt tôi nửa thất vọng nửa chán chường. Lúc bước ra đến cửa, tôi thấy ngay một cô gái khác cũng nộp đơn xin ứng tuyển, đi vào. Tôi sẽ không quá chú ý nếu người đó bình thường. Phải, đấy là một cô gái xinh đẹp, tướng cao ráo, ăn mặc rất thời trang. Vừa thấy tôi, cô ấy mỉm cười chào rồi tiến nhanh đến bàn Trưởng phòng nhân sự. Rất nhanh, tôi nghe anh ta hỏi, nhẹ nhàng làm sao: - Chào em, em tên gì? - Chào anh, em tên Huỳnh Trân. Đây là hồ sơ xin ứng tuyển của em. Chỉ cần trông nụ cười trên môi anh ta khi đón lấy hồ sơ là tôi đoán được hơn 90% cô gái tên Huỳnh Trân ấy sẽ được chọn. Đơn giản, gái đẹp lúc nào chả được ưu ái. Dắt chiếc xe tay ga Attila ra khỏi công ty, tôi ngồi lên yên, rồ ga chạy vọt đi. Trên đường trở về nhà, tôi thở dài liên tục cho cái phận hẩm hiu của mình và nghĩ, nếu công ty Bình Tân từ chối thì phải làm gì đây. Tôi là cô gái kém nhan sắc nên xin việc làm khó khăn, nhất là lại xin vào vị trí nhân viên kinh doanh. Dù tốt nghiệp loại khá ngành Quản trị kinh doanh cộng thêm ngoại ngữ Anh, ấy vậy tôi cũng bị 7 công ty từ chối nhận vào làm. Vậy mới nói, gái xấu đi đâu cũng chịu thiệt thòi. *** Dẫn xe vào trong sân, tôi bước vô nhà. Nhác thấy mặt con gái út, mẹ tôi ngồi trên ghế sofa xem phim, liền quay qua hỏi ngay: - Sao rồi hả con? Có được nhận không? - Vẫn chưa biết ạ, phải chờ hai ngày nữa mới có kết quả. Nghe giọng tôi ỉu xìu, chị hai Phạm Mỹ, trườn mặt lên khỏi thành ghế, bảo: - Nhưng em cũng có thể đoán được mấy phần mình được nhận hay không chứ. Nhìn nét mặt người ta là biết thôi. Bỏ giày xuống, tôi vác cái túi xách lên vai, đi ngang qua và nhạt giọng: - Nếu chị nói em nhìn nét mặt người ta để đoán thì em nghĩ mình rớt rồi đấy! Đúng lúc chị ba của tôi, Phạm Hương, vừa nhai khoai tây chiên vừa châm chọc: - Chị bảo rồi, mặt em khó xin việc lắm. Chỗ này có nguy cơ bị tạch cho xem. Tôi chưa kịp đáp trả thì cha tôi từ trên lầu đi xuống, phàn nàn: - Hương, sao lại nói em như vậy? Con Nguyễn chưa xin được việc là do thời điểm chưa tới thôi, liên quan gì mặt mũi. Mời các bạn đón đọc Gái Xấu Công Sở của tác giả Võ Anh Thơ.
Lãnh Địa Ánh Sáng
LÃNH ĐỊA ÁNH SÁNG là câu chuyện về cuộc sống của một người phụ nữ vừa ly thân với chồng, đang trong thời gian chuẩn bị để ra toà ly hôn. Đây là quãng thời gian vô cùng khó khăn của cô. Sau khi quyết định ly thân, cô chuyển ra sống cùng con gái ba tuổi ở 1 căn hộ thuê ngoài. Đó là một căn hộ có cửa sổ trổ ra tứ phía, tràn ngập ánh sáng. Tình cờ sao, đây dường như là thế giới dành riêng cho 2 mẹ con cô, khi cô đang muốn tránh mặt chồng, tránh mặt mẹ đẻ và sắp xếp lại cuộc sống để bước vào hành trình làm mẹ đơn thân đầy cô đơn, tủi thân, vất vả... của người phụ nữ vẫn còn yêu chồng và bị anh ta bỏ rơi. Lãnh địa ánh sáng, với cách kể và lối viết vừa chân thực vừa lãng mạn, Yuko Tsushima đã đưa người đọc bước vào thế giới đầy riêng tư của nhân vật trong giai đoạn cuộc sống mới đầy khó khăn nhưng cũng đầy khát khao. Không gian đó như nép mình bên cạnh thị trấn nhộn nhịp để ngắm nhìn cuộc sống, vừa đủ là "bí thất" đầy riêng tư của hai mẹ con, cũng vừa đủ để không bỏ xa sự nhộn nhịp bên ngoài. Những giấc mơ, những mộng tưởng, sự trỗi dậy của trực giác và cả những ý nghĩ kỳ quặc của người mẹ… hay là sự thay đổi từ nội lực của người phụ nữ từ lúc chỉ biết dựa vào chồng nay phải tự mình làm trụ cột của gia đình. Một câu chuyện chân thực đủ buồn nhưng cũng rất đẹp và lấp lánh, là lời khẳng định rằng trong hôn nhân, phụ nữ cũng có quyền từ bỏ nếu gặp phải người đàn ông không thể đem lại hạnh phúc cho mình và những đảm bảo để cậy tin. Lãnh địa ánh sáng ra đời năm 1979, là tác phẩm giành giải Gương mặt văn học Noma lần thứ nhất nhưng tính thời sự của vấn đề đặt ra trong tác phẩm vẫn còn nhiều tác động đến ngày nay, về những đổ vỡ trong hôn nhân và cuộc sống của phụ nữ đơn thân nuôi con sau khi chia tay chồng. *** Đó là một căn hộ có cửa sổ trổ ra tứ phía. Tôi đã sống cùng con gái bé bỏng của mình suốt một năm trên tầng cao nhất ở một tòa nhà cũ bốn tầng. Một mình hai mẹ con tôi chiếm lĩnh cả tầng, cộng thêm sân thượng. Tầng trệt là cửa hàng điện máy, tầng hai và ba - mỗi tầng được ngăn đôi cho thuê làm văn phòng. Trong tòa nhà ấy, từ một công ty vỏn vẹn hai nhân viên là cặp vợ chồng chuyên nhận đặt hàng lộng khung hay gắn lên khiên mấy cái gia huy bằng vàng đến văn phòng kế toán và lớp dạy đan len, mỗi nơi sử dụng một phòng. Duy chỉ có căn phòng quay mặt ra đường cái trên tầng ba là bị bỏ trống suốt thời gian tôi sống ở đó. Cứ đêm xuống, lúc con gái đã ngủ say, tôi lặng lẽ bước vào căn phòng đó, khi thì mở hé cửa sổ ra để tận hưởng một quang cảnh khác với quang cảnh nhìn từ tầng bốn, lúc lại đi tới đi lui trong không gian trống trải ấy. Cảm giác như, đó là bí thất dành riêng cho tôi, không ai hay biết. Nghe nói, trước khi tôi dọn đến tòa nhà này thì tầng bốn là nơi ở của chủ nhà. Thảo nào, từ chuyện chỉ có tầng bốn mới có lối thông lên sân thượng, rồi chuyện quản lý tháp nước với ăng-ten máy truyền hình trên đó coi như được ủy thác cho tôi - được cái là phòng tắm trên sân thượng rộng rãi hơn hẳn - cho tới chuyện đêm đêm, khi mọi người trong các văn phòng đã về hết, tôi phải xuống tận tầng trệt để đóng cửa cuốn ở chân cầu thang, đều là những chuyện đương nhiên phải làm của chủ nhà. Hồi cả tòa nhà được rao bán, một nữ doanh nhân có tiếng ở trong vùng, mang họ Fujino, đã mua lại rồi đặt tên là Tòa nhà Fujino số 3 và người dọn đến ở đầu tiên chính là tôi. Nghe nói, người chủ mới này vốn sở hữu toàn các cao ốc thương mại thì đây là căn đầu tiên cho thuê để ở, thêm phần tòa nhà bị xuống cấp, lại không được xây theo kiểu các chung cư thông thường nên bà ấy đâm ra lo sợ không có ai thuê, đành đưa ra giá thuê rẻ để thăm dò. Tình cờ sao, đối với tôi, đó lại là một may mắn hiếm có. Kể cả chuyện họ của chồng tôi trùng với tên của tòa nhà cũng là ngẫu nhiên. Vì thế mà người ta hay nhầm tưởng tôi là chủ nhà. Leo hết cầu thang vừa dốc vừa hẹp, cảm giác hơi thẳng đứng, sẽ tới một cánh cửa nhôm mà đối diện nó là một cửa khác bằng sắt, dẫn ra cầu thang thoát hiểm. Chính vì lối đi nhỏ như thế nên cứ mỗi lần muốn mở cửa vào nhà mình, tôi lại phải bước lùi một bậc thang hoặc bước hẳn sang phía thang thoát hiểm để có chỗ đứng. Gọi là cầu thang thoát hiểm vậy thôi chứ nó cũng chỉ là một cái thang sắt dựng vuông góc với mặt đất. Gặp lúc nguy cấp, chẳng thà tôi ôm con lăn xuống cầu thang bộ trong tòa nhà còn hơn, may ra giữ được mạng. Tuy vậy, dù có mở cửa vào bất kỳ thời gian nào trong ngày, cả căn hộ vẫn ngập tràn ánh sáng. Ngay cửa ra vào là khu vực bếp - phòng ăn được lát sàn bằng gỗ đỏ nên ấn tượng về độ sáng của căn hộ càng mạnh hơn. Đôi mắt trước đó đã quen với bóng tối nơi cầu thang khi tới đây khó mà không nheo lại. - Ui, ấm quá! Đẹp quá! Khi lần đầu tiên được đắm mình trong ánh sáng của căn hộ, cô con gái của tôi lúc đó sắp ba tuổi đã reo lên như vậy. - Đúng là ấm thật! Ông mặt trời kỳ diệu quá nhỉ? Nghe tôi nói vậy, con bé vừa chạy quanh phòng bếp vừa lên giọng: - Chứ sao! Giờ mẹ mới biết à? Bỗng dưng, ngay lúc đó, tôi có cảm giác muốn tự thưởng cho mình vì đã bảo vệ được con bé khỏi những biến đổi của môi trường nhờ lượng ánh sáng này. Mời bạn đón đọc Lãnh Địa Ánh Sáng của tác giả Yuko Tsushima & Thư Trúc (dịch).