Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Linh Hồn Chết - Nikolai Vasilyevich Gogol

Ngay sau khi ra đời, Những linh hồn chết của Gogol đã gây một cơn chấn động lớn trên toàn nước Nga. Rất nhanh chóng, cơn địa chấn này đã lan rộng ra nước ngoài. Theo viện sĩ B.L. Riftin, tập I tác phẩm Những linh hồn chết hoàn thành vào năm 1842, thì năm 1846, khi tái bản lần thứ 2, đã được dịch sang tiếng Đức, năm 1849 được dịch sang tiếng Tiệp. Năm 1854 xuất hiện bản dịch Những linh hồn chết bằng tiếng Anh. Tới năm 1858, cùng với thiên trường ca, tác giả Quan thanh tra đã nổi tiếng khắp châu Âu và phương Tây. Đánh giá về vai trò của Gogol đối với văn học Nga, nhà nghiên cứu I. Zolotuski khẳng định: Gogol là người đầu tiên có công đưa văn học Nga hội nhập với thế giới. Thiên tài của Gogol là một thiên tài nhiều mặt, ít thấy ở một nhà văn. Mới hai mươi sáu tuổi, Gogol đã có những tác phẩm mẫu mực của năm loại văn rất khác nhau, tựa hồ của nhiều nhà văn khác nhau: truyện dân gian quái dị với Những đêm trong thôn gần Đikanka, tiểu thuyết sử thi hùng tráng với Tarax Bunba, truyện châm biếm hài hước với Câu chuyện về sự bất hòa giữa Ivan Ivanovits và Ivan Nikiforovits, tiểu thuyết hiện thực phê phán với Một đôi vợ chồng trang chủ kiểu xưa và Cái áo khoác, hài kịch đả kích xã hội với Quan thanh tra. Với cái thiên tài nhiều mặt, mà mặt nào cũng lớn và đang độ phát triển, dồi dào sinh lực ấy, Gogol bắt tay vào viết tác phẩm chủ yếu của đời mình, lớn hơn tất cả các tác phẩm kia: Những linh hồn chết. Từ lúc ấy, cuộc đời của Gogol còn mười sáu năm nữa, nhưng chỉ còn có một mục đích, một công việc, một sứ mạng: hoàn thành Những linh hồn chết, phấn đấu gian lao, đau khổ khủng hoảng tinh thần, lịch sử mười sáu năm cuối của đời Gogol chính là lịch sử của Những linh hồn chết. Ý định viết tác phẩm lớn ấy đến với Gogol, như trong Sám hối của một tác giả, văn hào viết: “Chính Puskin làm cho tôi quan niệm vấn đề một cách nghiêm túc. Từ lâu Puskin khuyến khích tôi bắt tay viết một tác phẩm lớn; Puskin bảo tôi: “- Tại sao có cái tài đoán ra chân tướng con người để chỉ phác vài nét là lẽ ra như nó sống thật, mà anh lại không bắt tay vào viết một tác phẩm lớn? Như thế thật quả là một tội lỗi!”. Để kết luận, Puskin cho tôi đề tài mà chính anh dự định viết thành một trường ca và, theo lời anh, thì không bao giờ nhường lại cho bất kỳ một ai. Đó là đề tài của Những linh hồn chết”. Puskin từng khuyên Gogol sáng tác Những linh hồn chết thành một thiên “trường ca” - poema - Chữ “poema” đây không phải có nghĩa là một tập thơ, mà là một tiểu thuyết trường thiên có tính chất sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gogol cho in lên bìa chữ “poema” to hơn tên sách. Càng viết và càng nghĩ, Gogol càng thấy cái tầm rộng lớn của tác phẩm; vì vậy mà những cuộc phiêu lưu buồn cười của nhân vật chính Tsitsikôp hợp thành tình tiết của thiên trường ca đã được khoác một ý nghĩa biểu tượng: Tsitsikôp không phải chỉ là một tên bịp bợm đi mua nông phu chết, mà còn là Gogol đi tìm những “linh hồn sống”, nhưng chỉ gặp toàn những “linh hồn chết” - trong tiếng Nga cái từ “đusi” có cả hai nghĩa “những linh hồn” và “những nông phu”. Năm 1843, trong một bức thư Gogol viết rõ ràng: - “Quả thật có thể tin được điều người ta nói là: tất cả đều chết hết rồi, rằng ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho những linh hồn chết”.  Bởi vậy mà nhan đề của thiên trường ca trước dự định là Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp (Pôkhôjdênia Tsitsikôva) với phụ đề là Những linh hồn chết (miôrtvưe đusi) phải đổi lại là Những linh hồn chết với tiêu đề Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp. Mùa hè 1841 phần thứ nhất Những linh hồn chết được hoàn thành. Tháng chín Gogol mang về nước để xuất bản. Ngày 12 tháng 11 bản thảo nộp cho Ủy ban kiểm duyệt Mạc tư khoa và dĩ nhiên là gặp ngay phải vô số khó khăn. Nhờ phu nhân Xmirnôva và mấy bạn vương công thần thế bảo trợ văn học, Những linh hồn chết mới được phép in, chỉ phải chữa lại đoạn nói về đại úy Kôpêikin. Ngày 23 tháng 5 năm 1842, Những linh hồn chết xuất bản lần thứ nhất. Tờ Người đương thời, trong bài phê bình, đã suy tôn tác giả cuốn sách là đệ nhất văn hào Nga; quả là một danh hiệu chính đáng; từ trước Biêlinxki vẫn nói rằng Puskin sớm chết thì Gogol đã thay vào chỗ mà Puskin để lại trong văn học Nga. Với những điều hiểu biết của một nghệ sĩ thiên tài, Gogol đã “vẽ lại cuộc đời với bộ mặt thật của nó”, và cái bộ mặt của xã hội Nga với các tầng lớp thống trị của nó thời ấy là ghê tởm; thì Gogol đã bắt các đại diện của chúng ta, “giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng” của chúng, bắt chúng “đem thân cho thiên hạ mua cười”. Chỉ với Những linh hồn chết, sự nghiệp của Gogol cũng đã xứng đáng đặt ngang hàng với sự nghiệp của một nhà văn lớn khác của thế giới: Xervantex với bộ Đông Kisôt. Thuộc thể tiểu thuyết phê phán và châm biếm phong tục, - thể tiểu thuyết Picaret theo thuật ngữ văn học, do cái từ Tây Ban Nha picarô, chỉ tên bịp bợm, mà ra, - thì Những linh hồn chết của Gogol, Đông Kisôt của Xervantex và Những di văn của câu lạc bộ Pickuych của Dickenx là ba kiệt tác đứng hàng đầu trong văn học thế giới, và so với các tác phẩm cùng thể tài châm biếm ấy thì Những linh hồn chết đậm tính chất chân thực, gần với cuộc đời hơn cả. *** Bốn Bức Thư Của Tác Giả {Bốn bức thư này in trong chương XVII của cuốn Trích thư từ gửi các bạn tôi xuất bản cuối năm 1846; nhưng những thư này chỉ là những lời thanh minh của tác giả, không phải là những thư gửi đi cho ai cả} I. Anh có tỏ ý phẫn nộ vì cái giọng quá quắt của một số lời chỉ trích Những linh hồn chết. Tôi thấy như thế không được đúng: việc đó cũng có mặt tốt: đôi khi cũng cần có người phỉ báng mình. Người nào đã mê say với những cái đẹp rồi thì không thấy được những cái xấu, cho nên cái gì cũng dung thứ cả; ngược lại người nào đã muốn dèm pha thì cố tìm cho ra những cái xấu của anh và nêu rõ cái xấu đó lên đến nỗi buộc lòng anh phải thấy. Người ta ít khi có dịp nghe sự thật lắm; cho nên chỉ cần được một phần nhỏ sự thật thôi, người ta cũng đã có thể dung thứ cái giọng phỉ báng của kẻ lên tiếng nói sự thật. Những lời phê phán của Bungarin Xenlôpxki, Pôlêvôi có nhiều cái đúng, kể cả lời họ khuyên tôi nên học tiếng Nga trước khi có tham vọng viết lách {Những linh hồn chết phần thứ nhất, ra đời năm 1842, bị những nhà phê bình lạc hậu và phản động ghen ghét la ó. Trong tờ Tín sứ Nga, nhà phê bình lãng mạn chủ nghĩa N.A Pôlêvôi cho rằng Những linh hồn chết chỉ là một bức biếm họa, không thể xem là nghệ thuật được và tác giả chưa biết viết văn, còn mắc nhiều lỗi ngữ pháp; Pôlêvôi viết: “- Hãy gác sang một bên những cảm hứng bồng bột của anh mà đi học tiếng Nga đi!”. Có người chế giễu chữ poema ở bìa sách và suy diễn ra, gọi cả những sách giáo khoa vật lý học và sách dạy làm vườn là poema. Nhưng những lối phê bình ấy làm cho quần chúng chân chính rất căm phẫn}. Quả nhiên, giá tôi giữ bản thảo trong ngăn kéo thêm một năm nữa, chứ đừng vội vã cho in; thì chính bản thân tôi cũng đã thấy rằng không thể nào đem nó ra mà xuất bản dưới một hình thức kém cỏi như vậy. Tuy những bài thơ châm biếm và những lời chế giễu lúc đầu có làm cho tôi khó chịu thật; nhưng vẫn rất bổ ích cho tôi. Ôi! Những lời dèm pha liên miên ấy, cái giọng phỉ báng và những lời chế giễu cay cú ấy, thật có lợi cho ta không biết bao nhiêu mà kể! Trong thâm tâm ta thường giấu nhiều tự ái ti tiện, nhiều tham vọng xấu xa, đến nỗi ta cần phải luôn luôn bị châm chích, đánh đập bằng đủ mọi thứ khí giới; và phải cảm ơn bàn tay đã đánh ta. Tôi những mong được phê phán nhiều hơn nữa, nhưng lại muốn rằng người phê phán không phải là những người làm văn học, mà là những người có kinh nghiệm về thực tế. Tiếc thay, ngoài những người làm văn học, không có một bộ óc thực tiễn nào lên tiếng cả. Tuy nhiên Những linh hồn chết cũng đã gây nên lắm xôn xao bàn tán, lắm lời đồn đại, đã xúc phạm đến lòng tự ái của khá nhiều người vì lối giễu cợt, vì tính xác thực, vì lối biếm họa. Tuy đầy rẫy những sự lầm lẫn, sai lệch hiển nhiên; nó cũng đả động đến một tình hình mà ai nấy đều được chứng kiến hàng ngày. Tôi lại còn xen vào đấy một số đoạn có tính chất khiêu khích, hy vọng rằng sẽ có người lên tiếng quát mắng tôi và trong cơn phẫn nộ, sẽ vô tình mách cho tôi biết cái sự thực mà tôi đang tìm kiếm. Tại sao chưa có ai lên tiếng cả? Ai ai cũng đều có thể làm việc đó, và có đủ cơ sở để làm việc đó. Người viên chức có thể công khai chứng minh cho tôi thấy rằng câu chuyện tôi kể là không xác thực, bằng cách kể ra vài ba sự kiện có thật đã xảy ra và như vậy là đã đưa ra một lời cải chính hùng hồn hơn bất cứ lời biện luận nào. Vả chăng, cũng bằng cách ấy, người kia cũng lại có thể xác nhận thêm những lời miêu tả của tôi. Việc dẫn sự kiện có sức thuyết phục hơn là những lời lẽ rỗng tuếch và những bài luận văn về văn học. Nhà buôn, trang chủ, nói tóm lại là bất cứ ai biết cầm bút, cũng đều có quyền làm như vậy; dù người ấy chỉ sống quanh quẩn trong nhà hay vẫn thường đi đây đó khắp đất nước Nga. Ngoài ý kiến cá nhân của mình ra, bất cứ người nào, dù giữ chức vụ gì, ở địa vị xã hội nào, nghề nghiệp, học vấn ra sao, cũng đều có dịp quan sát sự việc trên một quan điểm riêng. Với đề tài của Những linh hồn chết, lẽ ra quần chúng độc giả có thể viết nên một cuốn sách hay hơn Những linh hồn chết không biết bao nhiêu mà kể; một cuốn sách có thể dạy nhiều điều, không những cho tôi, mà ngay cho các bạn đọc nữa; bởi vì giấu giếm mà làm gì, chúng ta đều biết nước Nga rất ít. Chao ôi! Tại sao không có ai công khai lên tiếng! Thật có thể tưởng chừng như mọi vật đều đã chết; và ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho Những linh hồn chết! Thế mà người ta lại trách tôi không biết rõ nước Nga! Làm như thể do một phép lạ của Đức chúa Thánh thần tôi nhất thiết phải biết rõ tất cả những sự việc xảy ra ở bất cứ xó xỉnh nào; phải học cho kỳ hết, không cần ai chỉ dẫn cả. Tôi làm thế nào mà học hỏi được! Thử nghĩ một nhà văn như tôi, vì nghề nghiệp phải ngồi ru rú ở nhà, sống cuộc đời khổ hạnh, lại thêm bệnh tật nữa và buộc lòng phải sống xa nước Nga; thì còn học hỏi làm sao được? Tôi không thể học hỏi các nhà văn hay các nhà báo, vì họ cũng sống cô độc và quanh quẩn trong phòng giấy. Nhà văn chỉ có một người thầy: bạn đọc. Thế nhưng những bạn đọc ấy đã từ chối, không chịu dạy dỗ tôi. Tôi biết rằng tôi sẽ phải chịu trước Thượng đế một trách nhiệm ghê gớm vì đã không làm tròn bổn phận; nhưng tôi lại biết rằng những người khác cũng sẽ phải chịu một trách nhiệm như thế. Và đây không phải là những lời nói suông: có Thượng đế chứng giám cho tôi, đây không phải là những lời nói suông. 1843 II. Tôi đã cảm thấy từ trước là những đoạn mạn đàm trữ tình trong thiên trường ca của tôi sẽ bị hiểu sai. Những đoạn ấy thiếu minh xác, ít ăn nhập với tình tiết và phong cách của cuốn truyện, đến nỗi khiến cho những người công kích tôi, cũng như những người bênh vực tôi, đều bị lầm. Người ta đã tưởng lầm rằng tất cả những đoạn nói về nhà văn nói chung, đều nhằm nói về tôi cả; tôi đã lấy làm xấu hổ khi thấy họ giải thích những đoạn ấy để bênh vực tôi. Chẳng qua, cũng đáng kiếp cho tôi! Lẽ ra, dù sao tôi cũng không nên cho xuất bản một tác phẩm tuy cắt khéo, nhưng khâu thì lại vụng, bằng chỉ trắng lên vải đen; như một bộ áo quần mà người thợ may vừa lược chỉ qua để thử. Tôi lấy làm lạ sao người ta ít có lời chê trách tôi về nghệ thuật và nghiệp vụ như vậy. Âu cũng tại những người phê phán tôi quá phẫn nộ, mà cũng tại họ không đủ sức khảo sát cách cấu tạo của một tác phẩm. Lẽ ra phải nêu rõ phần nào có vẻ dài một cách quái gở so với các phần khác; ở chỗ nào nhà văn đã tự phản mình, vì không nhất quán dùng cái giọng mà mình đã chọn từ đầu. Thậm chí cũng không có ai nhận thấy phần thứ hai của cuốn sách không được gọt giũa bằng phần đầu; nó chứa đựng những chỗ hổng lớn; những nét thứ yếu được khai triển quá mức, choán hết chỗ của những nét chính; các chương quá khác nhau, làm cho cuốn sách có tính chất vá víu, khiến người đọc không thấy tinh thần chung của nó. Nói tóm lại, lẽ ra nhà phê bình có thể có những lời phê phán sáng suốt và chính xác hơn, chê trách tôi nhiều hơn và một cách đích đáng hơn không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ ấy. Đây tôi muốn nói đến cái đoạn mạn văn trữ tình đã bị các nhà báo công kích nhiều hơn cả, vì họ thấy nó biểu lộ một sự kiêu ngạo, một lòng tự mãn {Biêlinxki phê bình Những linh hồn chết, phần thứ nhất, ngay khi sách mới xuất bản, trong tạp chí Niên san của Tổ quốc, ca tụng khả năng hiện thực chủ nghĩa và tâm hồn nhiệt thành của tác giả: nhưng cho rằng tác phẩm có những đoạn tỏ lòng yêu nước quá huênh hoang}, một lối khoác lác xưa nay chưa từng thấy ở một nhà văn nào. Đó là đoạn mạn văn ở chương cuối: sau khi tả Tsitsikôp ra đi, tác giả bỏ nhân vật của mình ở giữa đường thiên lý, thay mình vào chỗ đó và ngạc nhiên trước vẻ đơn điệu chán ngắt của sự vật, trước khoảng không gian bao la hoang vắng và tiếng hát ai oán từ dải đất Nga vang lên suốt từ biển này sang biển kia; trong một phút cảm khái, đã lên tiếng hỏi bản thân nước Nga, van xin nước Nga cắt nghĩa mối cảm xúc khó hiểu đang làm lòng mình thắt lại: tại sao cứ có cảm giác như tất cả mọi sinh linh, mọi sự vật trong nước Nga đều như đang nhìn mình đăm đăm và chờ đợi ở mình một cái gì? Người ta đã thấy trong những lời lẽ đó bằng chứng của kiêu ngạo, một sự huênh hoang không tiền khoáng hậu; nhưng thật ra đây không phải là huênh hoang, cũng chẳng phải là kiêu ngạo, mà chỉ là sự diễn đạt một cách vụng về của một tình cảm chân thành. Ngay giờ phút này, tôi vẫn còn cảm thấy ấn tượng đó. Tôi không sao chịu đựng nổi những âm thanh ai oán, não lòng của một bài ca Nga khi nó rung lên trong không gian vô tận của thôn quê ta. Những âm thanh ấy ám ảnh tâm hồn tôi. Thậm chí tôi còn lấy làm lạ sao mỗi một người trong chúng ta lại không biết đến cái cảm giác đó. Ai là người trông thấy những không gian vắng lặng, lạnh lẽo ấy mà không thấy lòng mình se lại; ai là người trong những âm thanh thê thiết của bài dân ca Nga, không nhận thấy những lời trách móc đau xót đối với bản thân mình - tôi nói rõ: đối với bản thân mình - thì người ấy đã làm xong bổn phận của mình một cách trọn vẹn, trừ phi không có một tâm hồn Nga. Sự vật như thế nào, ta hãy cứ nhìn nhận nó như thế. Gần một trăm năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Hoàng đế Piôtr đệ nhất mở mắt ra cho chúng ta, dắt dìu chúng ta bước lên con đường văn hóa Âu châu, và đặt vào tay chúng ta đủ mọi phương tiện hành động: thế nhưng nông thôn của ta vẫn buồn tẻ và hoang vắng như xưa. Quanh ta mọi vật đều có vẻ ghẻ lạnh, thù địch; tưởng chừng chúng ta chưa phải đang ở trong nhà mình, mà chỉ là đang cắm trại trên đường trường; tưởng chừng đối với ta, nước Nga không phải là một nơi trú ẩn ấm áp, thân tình, mà là một ngôi trạm phủ tuyết lạnh ngắt; ở đấy chỉ thấy hiện ra một gã coi trạm lãnh đạm buông thõng một câu trả lời gắt gao: “- Không có ngựa!”. Tại sao lại như thế? Lỗi tại ai? Tại chính phủ hay tại ta? Nhưng chính phủ vẫn hoạt động không ngừng: chứng cớ là những tập quy chế, chỉ thị, sắc lệnh dày cộm, cái số khổng lồ những tòa nhà đã xây, những cuốn sách đã xuất bản; những thiết chế đủ loại, giáo dục có, từ thiện có, bác ái có; không kể những thiết chế mà ở nước ngoài không thấy chính phủ nào lập ra. Từ trên có những câu hỏi đưa xuống, ở dưới có những lời giải đáp đưa lên. Đôi khi ở trên đưa xuống những câu hỏi chứng tỏ sự đại lượng của một vài nhà vua đã dám hy sinh cả quyền lợi bản thân. Thế mà ở dưới đã trả lời ra sao? Tất cả đều tùy ở cách thức, ở nghệ thuật ứng dụng một tư tưởng sao cho nó thành hiện thực và đi hẳn vào đời sống. Một đạo dụ, dù nội dung có hay ho, dù lời lẽ có chính xác bao nhiêu chăng nữa, cũng vẫn chỉ là một tờ giấy không hồn; nếu ở dưới không tỏ ra có ý muốn đem ứng dụng nó theo một cách thức thích đáng, theo cái cách thức mà chỉ có người nào quan niệm sự công bằng dưới ánh sáng của Thượng đế, chứ không phải dưới ánh sáng của con người, mới tìm ra được. Nếu không, tất cả sẽ thành ra có hại. Chứng cớ là những tay gian lận và ăn hối lộ tinh ma của chúng ta vốn biết cách xoay xở với tất cả các quy chế; một đạo dụ mới đối với họ là một nguồn thu hoạch mới, một phương tiện mới để làm cho sự giải quyết công việc rối ren thêm, để thọc thêm một gậy vào bánh xe. Nói tóm lại, nhìn về đâu tôi cũng thấy rằng thủ phạm chính là những kẻ có bổn phận thi hành pháp luật. Có người vì quá ước ao danh vọng và huân chương, mà đâm ra hấp tấp. Lại có người vì muốn tỏ ra nhiệt thành và tận tụy - một thói xấu rất Nga, - mà cứ đâm đầu vào công việc, không chịu khó nghiên cứu, những tưởng mình có thể điều khiển công việc một cách thành thạo; nhưng hễ thất bại một lần là nản chí ngay, và sau đó, - cũng một thói xấu không kém tính chất Nga, - lập tức thờ ơ với công việc. Lại có người, khi lòng tự ái nhỏ nhen của mình bị tổn thương, liền để lọt vào tay một tên trùm bịp bợm cái cương vị mà ở đấy mình đã bắt đầu phấn đấu cho chính nghĩa. Nói tóm lại, trong chúng ta, ít có người biết yêu cái thiện đến mức có thể vì việc thiện mà hy sinh tham vọng, tự ái cùng tất cả những cái nhỏ nhen của một lòng vị kỷ dễ đâm ra cay cú đến mức có thể khép mình vào một luật lệ bất di bất dịch là phụng sự đất nước, chứ không phải phụng sự bản thân mình; luôn luôn nhớ rằng mình ở cương vị là để mưu cầu hạnh phúc cho người khác, chứ không phải cho bản thân. Ngược lại từ ít lâu nay người Nga chúng ta tuồng như có dụng tâm muốn phô trương tính vị kỷ và dễ chạnh lòng của mình ra. Không biết trong chúng ta liệu có những người mà sau khi làm tròn nhiệm vụ mình rồi, có thể đứng trước toàn thể thiên hạ tuyên bố rằng mình không có lỗi gì đối với nước Nga hết; rằng khắp những khoảng đồng không mông quạnh của đất nước này, không có cái gì có thể coi như một lời trách móc đối với mình cả; rằng mọi vật đều hài lòng về mình và không còn mong chờ gì hơn nữa không? Tôi không biết số người có thể làm như vậy có nhiều không. Tôi chỉ biết rằng riêng tôi, tôi đã nghe thấy lời trách móc thầm lặng đó. Giờ đây, nó vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Sự nghiệp văn chương của tôi có hèn kém thật, nhưng lẽ ra dù sao nó cũng có thể giúp tôi là một việc có ích hơn. Tuy lòng tôi xưa nay vẫn ấp ủ khát vọng làm điều thiện và chỉ vì khát vọng đó mà tôi cầm bút; những cái đó phỏng có gì quan trọng đâu! Tôi đã làm tròn nhiệm vụ ấy như thế nào? Chẳng hạn, cuốn sách vừa rồi của tôi, nhan đề Những linh hồn chết, liệu có gây được cái ấn tượng mà lẽ ra nó phải gây nên; nếu nó được viết cho đúng với yêu cầu không? Vì không biết diễn đạt những ý nghĩ của chính mình; tuy đó là những ý nghĩ khá giản đơn, tôi đã làm cho nó bị hiểu sai, và lại hiểu sai theo một hướng có phần tai hại. Lỗi tại ai đây? Tôi có nên viện cớ là đã nghe theo những thị hiếu xốc nổi của những kẻ tài tử ưa chuộng những phong cách hào nhoáng và trống rỗng không? Tôi có nên đổ lỗi cho hoàn cảnh và tuyên bố rằng vì cần kiếm kế sinh nhai mà phải cho in vội, in vàng tác phẩm của mình không? Không. Ai là người đã từng quyết chí làm tròn nhiệm vụ một cách trung thực thì không thể để cho hoàn cảnh chi phối mình được; nếu cần, thà ngửa tay ra ăn xin, chứ quyết không nhượng bộ trước những lời chê trách hời hợt hay những ước lệ giả dối của xã hội được. Người nào đã vì muốn tuân theo những ước lệ giả dối đó mà làm hỏng một tác phẩm có ích cho nước nhà, thì người đó không phải là người yêu nước. Chính vì tôi đã cảm biết được cái tính nhu nhược đáng hổ thẹn của tôi, cái tính hèn nhát đáng khinh của tôi, nỗi bất lực của lòng yêu nước của tôi; cho nên tôi mới nghe thấu được lời trách móc đau xót mà tất cả những sự vật đang ở trong nưóc Nga đã lên tiếng nói với tôi. Nhưng một sức mạnh cao cả đã nâng tôi dậy; không có lỗi lầm nào không bổ cứu được; và tuy lúc đầu tôi đã chán nản trước cảnh tượng những không gian hoang vắng, về sau chính cảnh tượng ấy đã làm cho tôi đầy nhiệt tình: tôi đã thấy khoảng không vô tận ấy là một môi trường hoạt động tuyệt vời. Và tự đáy lòng tôi đã thốt lên lời kêu gọi đất nước Nga: “- Chẳng phải Ngươi vốn có sứ mệnh sinh ra những bậc anh hùng đó sao? Ngươi hiến cho họ biết bao nhiêu là không gian để xây dựng sự nghiệp!” Đó không phải là một câu văn viết cho kêu để lòe người, cũng không phải là một lời huênh hoang. Không: lời kêu gọi đó tôi thốt ra tự đáy lòng, và đến nay lòng tôi vẫn còn rung cảm vì nó. Giờ đây, sống ở nước Nga bất cứ lúc nào người ta cũng có thể trở thành một bậc anh hùng. Mỗi địa vị, mỗi chức vụ đều đòi hỏi bản lĩnh anh hùng. Mỗi người trong chúng ta đã làm ô uế tính chất thiêng liêng của địa vị và chức vụ của mình (tất cả mọi chức vụ đều thiêng liêng), đến nỗi phải có những sự cố gắng anh dũng mới đưa được địa vị và chức vụ trở lại trạng thái cao cả thích đáng. Trực giác tôi đã cảm thấy được sự nghiệp cao quý ấy, sự nghiệp ngày nay chỉ dành cho dân tộc Nga mà thôi; vì chỉ có dân tộc Nga biết được chủ nghĩa anh hùng và thấy trải ra trước mắt mình những khoảng không vô tận như vậy. Chính vì thế mà tôi đã thốt lên lời than kia, lời than mà người ta đã tưởng lầm là một biểu hiện của tính kiêu ngạo, một lời huênh hoang. 1843 III. Tôi lấy làm lạ rằng một người am hiểu lòng người như anh mà lại có thể đi hỏi tôi những câu ngớ ngẩn chẳng khác gì những người khác. Phần lớn những câu hỏi ấy đều liên quan đến phần sau này của bộ sách: tò mò như vậy mà làm gì? Chỉ có mỗi một câu hỏi thật là tế nhị và xứng đáng với anh; và tuy cũng chưa dám chắc là có thể trả lời một cách thỏa đáng, tôi vẫn ước ao rằng có những người khác cũng hỏi tôi câu đó. Cụ thể là: tại sao những nhân vật trong các tác phẩm gần đây của tôi, nhất là trong Những linh hồn chết, tuy không phải là những bức chân dung của người thật, lại cũng chẳng có gì hấp dẫn cho lắm, mà sao vẫn có vẻ thân thuộc, gần gũi với chúng ta; tưởng như có thể tìm thấy ở các nhân vật đó những nét riêng của bản thân mình? Mới năm ngoái đây thôi, giá có ai hỏi như vậy, dù người đó là anh đi nữa, thì tôi sẽ lúng túng, khó trả lời. Nhưng bây giờ thì tôi xin thú hết: sở dĩ các nhân vật của tôi gần gũi với lòng người là vì chúng ở lòng người mà ra; tất cả những tác phẩm gần đây của tôi đều là lịch sử của tâm hồn tôi. Để anh hiểu rõ hơn những điều này, tôi xin giãi bày để anh rõ tôi là nhà văn như thế nào. Người ta đã bình luận về tôi khá nhiều: người ta đã xác định một số khía cạnh trong tài năng của tôi, nhưng vẫn chưa nhận ra nét căn bản của nó. Puskin là người duy nhất đã nhận thấy nét đó. Puskin vẫn nói với tôi rằng chưa có nhà văn nào có được đến mức như tôi, cái năng khiếu làm hiện rõ sự nhạt nhẽo của cuộc đời, làm cho sự tầm thường dung tục nổi lên, sắc sảo đến nỗi những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đập ngay vào mắt người ta. Đó chính là cái khả năng thiên bẩm trội nhất của tôi, cái khả năng mà quả nhiên không còn nhà văn nào có. Tôi bẩm sinh đã có khả năng đó, và sau một cơn khủng hoảng tinh thần, nó lại càng phát triển thêm. Và đó chính là điều mà dạo ấy tôi chưa thể thú nhận, dù là với Puskin cũng vậy. Trong Những linh hồn chết, khả năng đó còn thể hiện một cách mạnh mẽ hơn nữa. Sở dĩ Những linh hồn chết đã làm cho nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều tiếng xôn xao như vậy, không phải là vì nó phát hiện những ung nhọt hay những bệnh tật ở bên trong; đó không phải là vì nó bày ra cái cảnh đắc thắng của sự xấu xa và cái cảnh những người vô tội bị áp bức, khiến người ta sửng sốt. Không, các nhân vật của tôi không phải là những kẻ vô lại. Tôi chỉ cần thêm một nét dễ ưa vào một trong các nhân vật đó là bạn đọc sẽ vừa lòng với tất cả các nhân vật khác; nhưng vẻ tầm thường dung tục của toàn thể khiến bạn đọc ghê tởm. Các nhân vật của tôi nối đuôi nhau xuất hiện, nhân vật này lại tầm thường hơn nhân vật kia; và độc giả hoài công đi tìm một đoạn có thể an ủi mình, một nơi có thể dừng lại để thở; gấp sách lại, bạn đọc tưởng như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá đó là những tên gian phi có lắm màu, lắm vẻ đẹp mắt, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho tôi; đằng này lại là những kẻ rất mực tầm thường, nên người ta không dung thứ được. Sự vô nghĩa lý của người Nga đã làm cho bạn đọc hoảng sợ hơn là những thói hư tật xấu của họ. Đáng khen thay nỗi kinh hoàng đó! Đã thấy ghê tởm như vậy trước sự đê tiện, hẳn phải có những đức tính trái ngược với sự đê tiện. Vậy thì cái khả năng trội nhất của tôi chính là ở chỗ đó; và xin nhắc lại rằng cái khả năng ấy lẽ ra không phát triển mạnh như vậy nếu tâm trạng của tôi và quá trình diễn biến tinh thần của tôi không góp sức vào đấy. Trong các bạn đọc của tôi, không có ai biết rằng trong khi cười các nhân vật của tôi, họ cũng cười cả chính bản thân tôi đó. Tôi không có một tật xấu, một đức tính nào đủ mạnh để chế ngự các tật xấu, các đức tính khác; ngược lại, tất cả những tính xấu mỗi cái một tí, đều họp nhau trong con người tôi; tôi chưa từng thấy ai tập họp nhiều tính xấu như thế. Thượng đế đã phú cho tôi một bản tính rất phức tạp. Người đã cho tôi một vài đức tính; đức tính đẹp nhất mà tôi không biết làm thế nào để tạ ơn người, là ước vọng tu thân. Tôi chưa bao giờ thích thú với những thói xấu của mình và cũng may mà Thượng đế chí nhân đã cho tôi phát hiện dần từng thói xấu một chứ không phải đột nhiên khám phá ra tất cả một lúc, trong khi tôi chưa quan niệm được lòng từ bi vô cùng vô tận của Người; nếu không thì chắc chắn tôi đã treo cổ mà chết cho rồi. Trong khi tôi dần dần phát hiện ra những tính xấu của mình, thì một sự xui khiến kỳ diệu của bề trên làm cho tôi tăng thêm ý muốn trút bỏ những tính xấu đó đi; một cơn khủng hoảng tinh thần kỳ dị đã thúc đẩy tôi chuyển những tính xấu đó cho các nhân vật của tôi. Cơn khủng hoảng đó cụ thể ra sao thì anh cũng không nên biết làm gì; ví thử điều đó có chút gì bổ ích cho bất cứ ai, thì tôi đã nói ra từ lâu rồi. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu lấy những tính xấu của tôi thêm vào các tính xấu của nhân vật. Tôi làm như thế này: tôi lấy tính xấu của tôi gán cho một người nào mà cương vị và chức vụ khác tôi, rồi theo dõi tác dụng của nó trong người ấy; tôi cố gắng hình dung người đó là một kẻ thù không đội trời chung của tôi, đã từng lăng nhục tôi một cách tàn tệ; tôi hằn học, chế nhạo, dè bỉu hắn. Giá có ai trông thấy những quái vật mà ngòi bút tôi đã vẽ ra lúc đầu, người đó hẳn phải rùng mình, sởn gáy. Tôi chỉ xin nói với anh rằng khi nghe tôi đọc những chương đầu của Những linh hồn chết dưới dạng thức nguyên sơ, thì Puskin, - tính vốn hay cười xưa nay và bao giờ cũng vui lên khi nghe tôi đọc, - lần này lại cau mặt, mỗi lúc một thêm ủ dột. Khi tôi đọc xong, Puskin thốt lên, giọng thảm đạm: “Trời ơi, nước Nga của chúng ta thật buồn quá!” ... Mời các bạn đón đọc Những Linh Hồn Chết của tác giả Nikolai Vasilyevich Gogol.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trái Tim Không Ngủ Yên
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Trái Tim Không Ngủ Yên của tác giả MyBinary: Bạn đang đọc truyện Trái Tim Không Ngủ Yên của tác giả MyBinary. Do sắp đến giờ hẹn nên Hạ Vy lấy tạm bút xoá trong túi xách, vẽ mấy đường nhằm “an ủi” chiếc xe kia rồi rời đi. Cô không hề biết rằng tất cả hành động của mình đều được camera ghi lại. Thật không ngờ Thiên Minh lại rơi vào lưới tình sau khi nhìn rõ thủ phạm “vẽ hỏng” siêu xe. Anh không tốn nhiều thời gian để tìm được Hạ Vy do sổ tay cô đánh rơi tại “hiện trường” ghi khá đủ thông tin. Tuy nhiên, Thiên Minh đủ tỉnh táo để nhận ra rằng nếu đường đột xuất hiện rồi theo đuổi con gái nhà người ta sẽ khiến ai kia hoảng sợ. Anh âm thầm dõi theo thành công của Hạ Vy tại HPJ, không những thế còn giúp được cô thoát khỏi rắc rối. Nếu yêu thích truyện ngôn tình nữ cường, bạn có thể đọc thêm Y Thủ Che Thiên hay Dụ Dỗ Đại Luật Sư. *** Tóm tắt Trái Tim Không Ngủ Yên là một câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng, lãng mạn giữa Hạ Vy, một cô gái trẻ tài năng, xinh đẹp và Thiên Minh, một chàng trai giàu có, quyền lực. Hạ Vy là một nhân viên thiết kế tài năng của công ty HPJ. Cô là một cô gái độc lập, mạnh mẽ và luôn nỗ lực hết mình trong công việc. Một ngày nọ, khi đang đi dạo trên đường, Hạ Vy vô tình va phải một chiếc siêu xe đắt tiền. Do sắp đến giờ hẹn nên cô lấy tạm bút xoá trong túi xách, vẽ mấy đường nhằm “an ủi” chiếc xe kia rồi rời đi. Cô không hề biết rằng tất cả hành động của mình đều được camera ghi lại. Thiên Minh, chủ nhân chiếc siêu xe, là một doanh nhân thành đạt. Anh là một người đàn ông lạnh lùng, ít nói và luôn giữ bí mật về cuộc sống riêng tư của mình. Khi nhìn thấy hình ảnh Hạ Vy vẽ bậy lên chiếc xe của mình, Thiên Minh đã vô cùng tức giận. Anh quyết định tìm ra kẻ dám làm hỏng tài sản của mình để trừng trị. Tuy nhiên, khi gặp Hạ Vy, Thiên Minh lại bị cô thu hút bởi sự xinh đẹp, tài năng và cá tính mạnh mẽ của cô. Anh âm thầm theo dõi Hạ Vy và dần dần nảy sinh tình cảm với cô. Hạ Vy cũng bị Thiên Minh thu hút nhưng cô không muốn thừa nhận điều đó. Cô luôn cố gắng giữ khoảng cách với Thiên Minh vì cô biết rằng anh là một người đàn ông phức tạp và có quá khứ đau buồn. Dưới sự theo đuổi kiên trì của Thiên Minh, Hạ Vy dần dần mở lòng với anh. Hai người yêu nhau say đắm và vượt qua nhiều thử thách để đến được với nhau. Đánh giá Trái Tim Không Ngủ Yên là một câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Tác giả MyBinary đã xây dựng thành công những nhân vật chính có tính cách và cá tính riêng biệt. Hạ Vy là một cô gái mạnh mẽ, độc lập nhưng cũng rất dễ bị tổn thương. Thiên Minh là một người đàn ông lạnh lùng, ít nói nhưng lại rất ấm áp và yêu thương người mình yêu. Câu chuyện tình yêu của Hạ Vy và Thiên Minh là một câu chuyện về sự thấu hiểu, sẻ chia và yêu thương. Nó sẽ khiến bạn cảm thấy rung động và tin vào tình yêu đích thực. Ưu điểm: Cốt truyện nhẹ nhàng, lãng mạn nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Nhân vật chính có tính cách và cá tính riêng biệt. Câu chuyện tình yêu của Hạ Vy và Thiên Minh là một câu chuyện đẹp và đáng ngưỡng mộ. Nhược điểm: Một số tình tiết trong truyện còn hơi cường điệu. Kết luận: Trái Tim Không Ngủ Yên là một câu chuyện tình yêu đáng đọc dành cho những ai yêu thích thể loại ngôn tình. *** Tiến Đạt đập tay xuống bàn quát lớn. “Hạ Vy. Cô dám nói bản thiết kế mới nhất của Như Ngọc là bắt chước cô sao?” “Tôi lại cho rằng cô mới là người không trung thực đấy.” Hạ Vy nhìn người trước mặt khẽ thở dài. Cô mới vào làm tại HPJ chưa được bao lâu mà đã vướng phải rắc rối rồi. Rõ ràng hai bản vẽ giống nhau tới hơn chín mươi phần trăm, có khác cũng chỉ là loại đá được sử dụng mà thôi. Mới hôm trước, chính Như Ngọc còn than thở với cô rằng chị ta chưa có ý tưởng cho dịp lễ Tình nhân sắp tới. Chỉ ít ngày sau khi nói chuyện cùng Hạ Vy, mẫu vòng tay cho cặp tình nhân do Như Ngọc thiết kế đã ra đời. Không những thế Hạ Vy còn nhớ lúc nói chuyện cùng Như Ngọc, cô đang hoàn thiện những nét vẽ cuối cùng. Thật không ngờ cô có việc phải xin nghỉ phép để về quê mấy ngày, khi quay lại bản thiết kế của cô đã trở thành đạo phẩm. Tiến Đạt thấy Hạ Vy im lặng liền tiếp lời: “Như Ngọc là người được đào tạo bài bản ở nước ngoài. Đâu giống như cô, tốt nghiệp trường làng mà cũng dám so sánh.” “Nếu cô nói mình vẽ theo mẫu của Như Ngọc thì tôi còn tin được. Đừng ở đó mà bày ra cái bộ mặt như đưa đám nữa.” Vân Anh mang cà phê vào cho trưởng phòng Tiến Đạt rồi lén nháy mắt ra hiệu cho Hạ Vy rút lui. Vừa ra bên ngoài, Vân Anh lập tức thì thầm vào tai Hạ Vy. “Cậu mới tới nên không biết. Như Ngọc chính là bồ nhí của trưởng phòng đó.” Hạ Vy há hốc miệng. Chẳng lẽ vì bênh vực cho nhân tình mà Tiến Đạt sẵn sàng đổi trắng thay đen sao? Hạ Vy nói với Vân Anh: “Thiết kế này mình đã từng vẽ vào sổ từ khi còn là sinh viên. Chỉ tiếc là mình đã đánh mất nó.” Vân Anh vỗ nhẹ vào vai Hạ Vy để an ủi cô: “Chúng ta đâu có bằng chứng gì đúng không?” “Tớ nghĩ chúng ta chỉ cần cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao rồi lãnh lương hàng tháng mà thôi. Đừng tranh hơn thua với người khác nữa.” Hạ Vy không nói gì, cô quay lại bàn làm việc thì bắt gặp vẻ mặt đầy thách thức của Như Ngọc. “Ngu ngốc.” Như Ngọc nhếch môi cười. Hạ Vy mới vào công ty nên không biết Như Ngọc có người chống lưng. Kẻ yếu thế như Hạ Vy thì có thể làm gì Như Ngọc kia chứ? Nếu không học được cách ngậm miệng lại có lẽ Hạ Vy sẽ bị tống cổ khỏi HPJ trong nay mai mà thôi. … Hạ Vy cho rằng dù Như Ngọc có nhìn thấy bản vẽ của cô nhưng chỉ thoáng qua như vậy cũng không thể nhớ được chính xác từng chi tiết. Có khả năng cao là cô ta đã mở máy tính của Hạ Vy khi cô không có ở công ty. Sau giờ làm, Hạ Vy tới phòng bảo vệ của toà nhà nhờ kiểm tra lại camera thì bị từ chối. Còn chưa biết phải làm sao thì một giọng nói vang lên từ phía sau Hạ Vy. “Camera trong phòng làm việc của em bị hỏng. Trùng hợp là những ngày em xin nghỉ phép dữ liệu đều mất hết.” Cả Hạ Vy và những người ở đó đều giật mình khi nhận ra Hải Phong - tổng giám đốc của HPJ. Hạ Vy ấp úng: “Chào… chào sếp.” Hải Phong bật cười: “Tôi nghĩ em sẽ muốn nghe tin tốt lành này đấy Hạ Vy.” Hạ Vy ngạc nhiên hỏi: “Tin tốt lành gì ạ?” Hải Phong tủm tỉm cười, đưa một chiếc đĩa CD vào tay Hạ Vy. “Em nói nhân viên an ninh mở thử lên xem.” Hạ Vy lập tức gật đầu, đưa đĩa CD cho một nhân viên gần đó. “Phiền anh mở giúp tôi.” Hình ảnh hiện lên trên màn hình khiến cho những người ở đó há hốc miệng. Hải Phong nói camera bị hỏng nên mất dữ liệu kia mà. Tại sao lại có đoạn phim này kia chứ? Hải Phong giải thích với Hạ Vy: “Nếu không phải Thiên Minh tới tìm tôi rồi vô tình quay được đoạn phim này có lẽ tôi đã thưởng cho Như Ngọc vì thiết kế mới nhất rồi.” “Công ty chúng ta cần những bản thiết kế xuất sắc nhưng không ai được phép làm ăn gian dối.” “Thiên Minh đã cho tôi xem một cuốn sổ mà cậu ấy vô tình có được. Nếu em không phiền thì thiết kế vòng tay đá Sapphire xanh trong đó rất hợp để ra mắt vào dịp 8/3.” Mặc dù không biết Thiên Minh mà Hải Phong nhắc tới là ai nhưng Hạ Vy thầm cảm ơn vì đã có người đứng ra giúp cô. Hơn nữa, quyển sổ đã bị mất trước kia cũng có cơ hội tìm lại được. Hạ Vy nhìn Hải Phong không chớp mắt, cô nói: “Tổng giám đốc… anh… anh đã thấy quyển sổ của em sao?” “Anh có thể cho em xin lại được không?” Đúng lúc này, một giọng nói ấm áp vang: “Em muốn lấy lại quyển sổ đó thì trả tiền sửa xe cho tôi đi.” Hải Phong bật cười, ra hiệu cho Thiên Minh và Hạ Vy đi theo mình. “Lên tầng thượng toà nhà nói chuyện. Cà phê ở đó ngon nhất thành phố này đấy.” Hạ Vy còn chưa kịp nói gì thì Thiên Minh đã đi về phía thang máy. “Nhanh một chút. Tôi không có nhiều thời gian đâu.” Ngay sau khi ba người bọn họ rời đi, đám nhân viên trong phòng trực không thể nhịn được mà mở miệng bàn tán. “Nghe đồn Như Ngọc là bồ nhí của Tiến Đạt nên mới có thể lộng hành như vậy. Thật không ngờ Hạ Vy còn cao tay hơn. Có thể được đích thân tổng giám đốc Hải Phong và Thiên Minh coi trọng như vậy xem ra bản lĩnh của cô ta cũng lớn lắm.” “Anh không nói cũng không ai dám bảo anh câm đâu. Chuyện riêng của họ đâu tới lượt người như chúng ta bàn luận chứ.” “Nhưng nói đi cũng phải nói lại, thiết kế bông tai Hoa Tuyết của Hạ Vy chính là sản phẩm bán chạy nhất mùa Giáng sinh vừa rồi. Người tài như vậy được coi trọng cũng rất xứng đáng mà.” Đám đông vô tư bàn luận, không hề biết Mỹ Dung - em gái của Hải Phong đã nghe được tất cả. Cô vội vàng đi về phía thang máy ở gần đó để xem cô gái vừa được nhắc tới mặt mũi ra sao mà lại được cả Thiên Minh và Hải Phong ưu ái như vậy..   Mời các bạn mượn đọc sách Trái Tim Không Ngủ Yên của tác giả MyBinary.
Chú Chó Nhìn Thấy Gì? - Lật Tẩy Những Góc Khuất Trong Cuộc Sống Xã Hội
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Chú Chó Nhìn Thấy Gì? - Lật Tẩy Những Góc Khuất Trong Cuộc Sống Xã Hội của tác giả  Malcolm Gladwell.: Có cùng cấu trúc và giọng văn cân nhắc chỉn chu, song bạn sẽ thấy 19 bài viết trong cuốn sách Chú Chó Nhìn Thấy Gì đề cập đến những khía cạnh hoàn toàn khác nhau của cuộc sống từ việc: "Mù tạt giờ đây xuất hiện với cả tá chủng loại. Vì đây ketchup vẫn nguyên xi y dạng?" "Những điều về sức khỏe phụ nữ mà cha đẻ của thuốc ngừa thai không hề biết" "Cuộc sống của một người có đáng bị hủy hoại chỉ vì lời buộc tội đạo văn?"... Mỗi bài viết điều có khả năng thu hút bạn, khiến bạn phải ngẫm nghĩ, hay đem lại cho bạn ý niệm lờ mờ nào đó về trí não của kẻ khác". Malcolm Gladwell cho rằng, chúng ta nghĩ thế nào không phải là vấn đề chủ yếu. Cái hấp dẫn đó là cách chúng ta nhìn các sự kiện, sự việc thế nào, qua con mắt của người khác, từ trong đầu của một ai đó khác. Chú chó nhìn thấy gì là tổng hợp những bài viết mà Malcolm Gladwell tâm đắc nhất trong tờ The New Yorker, nơi ông đã là một cây viết từ năm 1996. Cuốn sách chia làm ba phần: Phần thứ nhất: viết về những kẻ bị ám ảnh và những người mà Gladwell vẫn ưa gọi là các thiên tài ẩn thân, như Ron Popeil – người đã rao bán chiếc máy Chop -O- Matic; Shirley Polykoff – người hỏi một câu trứ danh “Là nàng hay không phải là nàng? Chỉ có thợ làm tóc của nàng mới đoan chắc”. Phần thứ hai được dành toàn bộ cho những học thuyết, những cách thức tổ chức kinh nghiệm. Chúng ta nên suy nghĩ ra sao về những người vô gia cư hay những scandal tài chính hay những thảm họa như vụ nổ tàu Challenger? Phần thứ ba suy ngẫm về cách phán đoán của chúng ta về người khác. Làm cách nào chúng ta biết được liệu ai đó xấu xa, lanh lẹ hay rất giỏi làm việc gì đó? Xuất bản lần đầu tiên vào ngày 20/10/2009, rất nhanh chóng, Chú chó nhìn thấy gì ngay lập tức trở thành cuốn sách hay nhất, ăn khách nhất ở Mỹ về cả ba chủ đề: báo chí, tiểu luận và tâm lý học lâm sàng. Cuốn sách đưa Malcolm Gladwell trở thành một trong những người khám phá nổi bật nhất về những điều kỳ lạ ẩn giấu trong cuộc sống xã hội. *** TÁC GIẢ: MALCOLM GLADWELL Malcolm Gladwell sinh năm 1963 ở Anh, tốt nghiệp khoa sử Đại học Toronto – Canada. Từ 1987-1996 làm phóng viên thể thao và kinh tế, trưởng chi nhánh New York cho tờ Washington Post. Từ năm 1996 là phóng viên chính thức của Tạp chí The New Yorker. Từ những kỹ năng có được của một nhà báo xuất sắc, Malcolm Gladwell đã trở thành một trong những tác giả hàng đầu về đề tài khoa học xã hội với rất nhiều cuốn best-seller trên toàn thế giới. Sách và bài viết của Gladwell thường tiếp cận và giải quyết vào những mối liên hệ đầy bất ngờ, ẩn sau những sự việc trong xã hội và các nghiên cứu khoa học xã hội. Ông cũng thường xuyên đào sâu, mở rộng ý nghĩa, ứng dụng của các nghiên cứu lí thuyết, học thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội học, tâm lý học, và tâm lý học xã hội. Gladwell được trao cho Huân chương Canada - Huân chương cao quý thứ hai của Canada vào ngày 30 tháng 6 năm 2011. *** Tóm tắt Chú chó nhìn thấy gì là một tập hợp 19 bài viết của tác giả Malcolm Gladwell, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2009. Các bài viết trong cuốn sách đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau trong cuộc sống xã hội, từ kinh doanh, khoa học, đến tâm lý học. Review Malcolm Gladwell là một nhà báo và tác giả nổi tiếng với phong cách viết hấp dẫn và khả năng khám phá những điều thú vị ẩn giấu trong cuộc sống. Trong Chú chó nhìn thấy gì, Gladwell đã thể hiện xuất sắc những điểm mạnh này của mình. Các bài viết trong cuốn sách được viết một cách lôi cuốn và hấp dẫn, với những dẫn chứng và phân tích sắc sảo. Gladwell đã sử dụng những câu chuyện và nghiên cứu thực tế để giúp người đọc hiểu rõ hơn về những chủ đề mà ông đề cập. Một số bài viết nổi bật trong cuốn sách bao gồm: "Mù tạt giờ đây xuất hiện với cả tá chủng loại. Vì đây ketchup vẫn nguyên xi y dạng?" - Bài viết này tìm hiểu về sự phát triển của ngành công nghiệp mù tạt và lý do tại sao ketchup vẫn giữ nguyên hình thức ban đầu. "Những điều về sức khỏe phụ nữ mà cha đẻ của thuốc ngừa thai không hề biết" - Bài viết này kể về câu chuyện của nhà khoa học Gregory Pincus, người đã phát minh ra thuốc ngừa thai. Gladwell cho thấy rằng Pincus đã bỏ qua một số yếu tố quan trọng về sức khỏe phụ nữ khi phát triển thuốc ngừa thai. "Cuộc sống của một người có đáng bị hủy hoại chỉ vì lời buộc tội đạo văn?" - Bài viết này tìm hiểu về vụ kiện đạo văn của nhà khoa học Lawrence Summers. Gladwell cho thấy rằng Summers đã bị đối xử bất công trong vụ kiện này. Đánh giá Chú chó nhìn thấy gì là một cuốn sách hấp dẫn và bổ ích. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những góc nhìn mới mẻ về thế giới xung quanh. Điểm cộng: Phong cách viết hấp dẫn và lôi cuốn Các bài viết được viết một cách chi tiết và đầy đủ thông tin Cung cấp cho người đọc những góc nhìn mới mẻ về thế giới xung quanh Điểm trừ: Một số bài viết có thể hơi dài dòng Kết luận Chú chó nhìn thấy gì là một cuốn sách đáng đọc dành cho những ai quan tâm đến thế giới xung quanh. *** Khi còn là một đứa trẻ, tôi vẫn thường lẻn vào phòng làm việc của cha và “nghía” qua những giấy tờ bày trên bàn ông. Cha là một nhà toán học. Cha viết trên giấy kẻ ô những hàng dài gọn ghẽ đầy con số và ký hiệu bằng bút chì. Tôi ngồi vắt vẻo bên rìa ghế của cha và nhìn vào mỗi trang giấy với vẻ ngỡ ngàng và kinh ngạc. Thật thần bí làm sao, trước hết là bởi  − cha được trả tiền cho những thứ mà vào lúc bấy giờ có vẻ như chỉ là một đống lộn xộn không hơn. Nhưng quan trọng hơn, tôi không tài nào thoát ra khỏi thực tế là con người mình luôn yêu thương thắm thiết nhường kia lại đang tỉ mẩn làm việc gì đó hàng ngày, ngay bên trong đầu óc của ông, mà tôi vẫn chưa thể hiểu được. Đây thực ra là một phiên bản của những điều mà về sau tôi mới biết được, một điều mà các nhà tâm lý học vẫn gọi là vấn đề trí não của kẻ khác. Những đứa trẻ mới tròn một tuổi ngỡ rằng nếu chúng mê bánh snack Cá vàng, thế thì ắt hẳn cả cha yêu lẫn mẹ yêu cũng đều ưa bánh Cá vàng hết cả. Bọn nhóc chưa thể thấu triệt được rằng những gì có trong đầu óc chúng không giống như những gì tồn tại trong trí não của tất cả những người khác. Chẳng chóng thì chầy, bọn trẻ cũng sẽ bắt đầu hiểu ra rằng cha mẹ không nhất thiết phải yêu thích bánh Cá vàng như chúng, và khoảnh khắc ấy chính là một trong những dấu mốc nhận thức vĩ đại nhất trong quá trình phát triển của nhân loại. Vậy vì đâu một đứa trẻ hai tuổi lại gây nhiều nỗi kinh hoàng đến thế? Là bởi chúng đang kiểm nghiệm một cách có hệ thống một nhận thức thú vị và mới lạ, rằng thứ gì đó mang lại niềm vui thích cho chúng có thể lại chẳng khiến người khác vui thích. Ngay cả khi đã phổng phao khôn lớn, chúng ta cũng không bao giờ đánh mất suy nghĩ hay ho đó. Khi gặp một người làm nghề bác sĩ ở một cuộc hội họp đông đảo, điều đầu tiên chúng ta muốn biết là gì? Không phải là “Anh làm công việc gì ấy nhỉ?” Vì, chúng ta đều biết sơ sơ là bác sĩ thì làm gì rồi. Thay vào đó, chúng ta muốn biết được nếu từ sáng đến tối cứ ở riết bên cạnh những người ốm bệnh thì sẽ ra sao. Chúng ta muốn biết xem trở thành bác sĩ thì sẽ như thế nào, bởi chúng ta chắc như đinh đóng cột là điều đó chẳng hề giống với việc ngồi suốt ngày trước máy vi tính, giảng dạy ở trường học hoặc buôn bán ô tô. Những câu hỏi kiểu đó chẳng hề ngốc nghếch hay hiển nhiên chút nào. Sự hiếu kỳ về đời sống nội tại bên trong những công việc ngày-qua-ngày của người khác là một trong những điều căn bản nhất của những nguồn thúc đẩy con người, và cũng chính là nguyên cớ dẫn tới những ghi chép mà bạn đang cầm trên tay đây. Tất cả các phần trong cuốn Chú chó nhìn thấy gì đều được lấy từ tờ The New Yorker, tờ báo tôi đã cộng tác và viết bài từ năm 1996. Trong rất nhiều bài viết mà tôi đã chấp bút trong suốt thời gian đó, những phần này khiến tôi tâm đắc nhất. Tôi nhóm chúng lại thành ba phần. Phần thứ nhất nói về những kẻ bị ám ảnh và những người tôi vẫn ưa gọi là các thiên tài ”nhỏ lẻ” − không phải Einstein, Winston Churchill, Nelson Mandela hay những kiến trúc sư siêu quần bạt chúng của thế giới, mà là những nhân vật như Ron Popeil, người đã rao bán chiếc Chop-O-Matic, và Shirley Polykoff, người đã đặt một câu hỏi trứ danh: “Liệu nàng có nhuộm hay là không? Chỉ thợ làm tóc của nàng biết được.”. Toàn bộ phần thứ hai được dành cho những học thuyết, những cách thức tổ chức kinh nghiệm. Chúng ta nên suy nghĩ thế nào về những người vô gia cư, những xì-căng-đan tài chính hoặc những thảm họa như vụ nổ tàu Challenger? Phần thứ ba lại dành để suy ngẫm về những tiên đoán của chúng ta về người khác. Làm cách nào chúng ta biết được liệu ai đó xấu xa, lanh lẹ hay rất giỏi làm việc gì đó? Như bạn sẽ thấy, tôi nghi ngờ về việc chúng ta có thể đưa ra mỗi đánh giá kiểu này chính xác tới độ nào. Và vượt trên tất thảy những điều nhỏ lẻ này, việc chúng ta nghĩ thế nào không phải là vấn đề chủ yếu. Thay vào đó, tôi thấy hứng thú hơn với việc miêu tả những suy ngẫm của một ai đó về người vô gia cư hay tương cà  hay các xì-căng-đan tài chính. Tôi không biết phải rút ra kết luận gì về vụ nổ tàu Challenger. Với tôi, đó chỉ là một đám lộn xộn tạp nham − những cột số má cùng ký hiệu không thể lý giải nổi được in gọn ghẽ trên giấy kẻ ô. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào những vấn đề ấy qua con mắt của ai đó, từ trong đầu của một người khác thì sao nhỉ? Ví như, bạn sẽ tình cờ đọc đến một bài viết mà trong đó tôi cố gắng nhận ra sự khác biệt giữa “đờ người” và “hoảng loạn”. Bài báo đó được khơi gợi từ vụ nổ máy bay chết người của John F. Kennedy hồi tháng bảy năm 1999. Anh là một phi công thiếu kinh nghiệm trong điều kiện thời tiết xấu, người đã “mất định hướng không gian” (như các phi công vẫn thường hay nói) và bổ nhào xuống theo đường xoáy trôn ốc. Để hiểu được những gì anh đã trải qua, tôi nhờ một viên phi công đưa tôi lên cao bằng chiếc phi cơ tương tự như chiếc Kennedy đã bay, trong cùng điều kiện thời tiết như vậy và bảo anh ta bổ nhào theo hình xoáy trôn ốc. Đó không phải một mánh lới khuếch khoác. Mà là đòi hỏi bức thiết. Tôi muốn hiểu được tai nạn máy bay kiểu đó sẽ như thế nào, bởi nếu bạn muốn lý giải được vụ nổ đó, thì chỉ đơn giản biết Kennedy đã làm gì là chưa đủ. Bài viết “Vấn đề hình ảnh” đề cập đến việc làm thế nào để hiểu được những hình ảnh từ vệ tinh, ví như những bức ảnh mà nội các của Bush nghĩ là họ có được về vũ khí hủy diệt hàng loạt của Saddam Hussein. Tôi bắt tay vào chủ đề đó vì đã dành cả buổi chiều cùng một bác sĩ X-quang quan sát những phim nhũ ảnh, và ngay giữa lúc đó − hoàn toàn bất ngờ − ông bỗng nói rằng ông tưởng tượng những vấn đề mà những người như ông gặp phải khi đọc phim X-quang chụp vú hẳn rất giống với những vấn đề mà nhân viên Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) vấp phải khi xem các bức ảnh chụp từ vệ tinh. Tôi muốn biết điều gì đã diễn ra trong đầu ông bác sĩ, còn ông thì lại hiếu kỳ rằng điều gì diễn ra trong trí não của các đặc vụ CIA. Tôi vẫn nhớ, vào khoảnh khắc ấy, tôi đã cảm thấy choáng váng vô cùng. Sau đó, có hẳn một bài viết mà tựa đề được lấy làm tên cho cuốn sách này. Đó là bài viết về tiểu sử sơ lược của Cesar Millan − một nhân vật được mệnh danh là người thuần hóa khuyển. Millan có thể xoa dịu những con vật cuồng nộ và hung hăng nhất chỉ bằng những cái ve vuốt của bàn tay. Điều gì diễn ra trong đầu Cesar khi anh làm việc đó? Đó chính là thứ khơi gợi cảm hứng cho tôi viết bài báo này. Nhưng sau khi tôi đã thực hiện được một nửa bài viết, tôi nhận ra có một câu hỏi thậm chí còn hay hơn: Khi Millan trình diễn ngón phép thuật của mình, điều gì xảy ra trong trí não của chính con chó? Đó là điều chúng ta thực sự muốn biết − con chó đã thấy gì? Mời các bạn mượn đọc sách Chú Chó Nhìn Thấy Gì? - Lật Tẩy Những Góc Khuất Trong Cuộc Sống Xã Hội của tác giả  Malcolm Gladwell.
Lời Hứa Lúc Bình Minh
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Lời Hứa Lúc Bình Minh của tác giả Romain Gary & Nguyễn Duy Bình (dịch): Lời hứa lúc bình minh là câu chuyện dài kể về tuổi thơ và phần lớn cuộc đời của Romain Gary, về sự kết hợp uyển chuyển giữa sự kiện với chất văn, để cuối cùng đúc kết một sự thật “tình mẫu tử ngọt ngào chính là thiên đường vỗ về nỗi bất hạnh của thân phận con người, là bến đỗ cho bất kỳ ai mệt mỏi muốn dừng chân“...  Lời hứa lúc bình minh như một khúc ca tôn vinh tình mẫu tử thiêng liêng mà Romain Gary dành cho mẹ của mình, một cựu diễn viên Do Thái, người luôn mang trong lòng tình yêu và niềm ngưỡng mộ không lý giải nổi đối với nước Pháp. Dù đã rời xa vòng tay mẹ, dù mẹ nay đã không còn nhưng sự bao la dạt dào của tình cảm người mẹ dành cho con trai và những gì bà sẵn sàng làm cho con vẫn còn đọng mãi. Khi tình yêu quá trọn vẹn và niềm tin không gì lay chuyển gắn chặt với buổi bình minh của cuộc đời, về sau người ta không thể không hoài công tìm kiếm nó trong những mối tình khác, những niềm tin khác... Người mẹ đã gieo vào lòng đứa con cảm nhận đầu tiên về cái tuyệt đối, để về sau cậu mãi mãi đi tìm những điều tuyệt đối để đền đáp lại… *** Romain Gary đã sống một cuộc đời đầy sôi động và vinh quang, đoạt hai giải Goncourt, có hai cuộc hôn nhân với hai người đàn bà nổi tiếng, nhưng người ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với ông là người mẹ với tình yêu vô điều kiện và niềm tin kỳ lạ của bà. Lời hứa lúc bình minh cho thấy điều đó. Lời hứa lúc bình minh được coi là một tác phẩm giả tự truyện, trong đó hư cấu và hiện thực không thể tách rời. Những dữ kiện chính về cuộc đời và đặc biệt là thời thơ ấu của Romain Gary đều có thật, đồng thời cả hai mẹ con được biến thành hai nhân vật tiểu thuyết. Trong đó, cậu con trai là nhân vật chính trong cuộc phiêu lưu đầy đam mê của người mẹ với những hồi ức vừa hài hước, vừa tràn đầy chua xót và kiêu hãnh. Điều mà người con trai nhớ rất rõ về thời thơ ấu là mặc dù luôn luôn nghèo, cậu chưa bao giờ phải thiếu thốn điều gì. Người mẹ, một diễn viên kịch hết thời, thường áp dụng những phương cách kiếm sống hiếm ai nghĩ tới. Mở nhà may mũ, bà bắt đầu bằng cách quảng cáo "để mua vui, cựu giám đốc một nhà may mặc lớn ở Paris nhận may mũ tại gia cho một số khách hàng có hạn chế và có chọn lọc". Đó là một lời quảng cáo lừa bịp, nhưng bà đã thực hiện nó một cách hăng say đến mức có thể tưởng tượng đó là sự thật. Cuộc sống khó khăn đến đâu bà cũng thích nghi được, bởi trí tưởng tượng không bao giờ vơi cạn. Người con trai là niềm tin huy hoàng nhất của mẹ. Thất bại trong việc tìm kiếm ở cậu con các loại tài năng nghệ thuật, cuối cùng họ quyết định: cậu sẽ trở thành nhà văn lớn. Đối với người mẹ, con trai bà chỉ có thể thành công, nếu thế giới không nhận thấy điều đó thì có nghĩa là cả thế giới đã sai. Lời hứa lúc bình minh có thể là bài ca tôn vinh tình mẫu tử, nhưng ẩn sâu trong đó vẫn có thể thấy sự hoài nghi và nuối tiếc. Tình cờ Romain Gary có tài năng văn học lớn, nhưng liệu ông có thành công như thế nếu không có niềm tin của người mẹ? Khi tình yêu quá trọn vẹn và niềm tin không gì lay chuyển gắn chặt với buổi bình minh của cuộc đời, về sau người ta không thể không hoài công tìm kiếm nó trong những mối tình khác, những niềm tin khác... Người mẹ đã gieo vào lòng đứa con cảm nhận đầu tiên về cái tuyệt đối, để về sau cậu mãi mãi đi tìm những điều tuyệt đối để đền đáp lại. Romain Gary đã hồi tưởng về niềm say mê trò tung hứng của mình: "Đó là phương tiện diễn đạt nghệ thuật có ý thức đầu tiên của tôi, linh cảm đầu tiên của tôi về một sự hoàn hảo có thể có và tôi hăng hái lao vào". Một bậc thầy ảo thuật vĩ đại có thể tung hứng được tám quả bóng nhưng không bao giờ đạt đến chín quả. Cậu bé Romain mãi mãi chỉ tung hứng được năm quả bóng. Cậu tập luyện điên cuồng đến hết mức để cuối cùng nhận ra rằng: không có quả bóng thứ sáu. "Bi kịch thật sự của Faust không phải là ông ta đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Mà bi kịch thật sự là không có quỷ dữ để có thể mua linh hồn của bạn. Không có người mua. Chẳng ai đến giúp bạn bắt được quả bóng cuối cùng dù bạn ra giá thế nào". Mỗi người có giới hạn của mình... Không hề nhẹ nhàng khi phải sống với quá nhiều ước mơ của người khác. Rốt cuộc, Romain Gary đã kết liễu cuộc đời bằng một viên đạn súng lục. Ông có thật sự hạnh phúc với những vinh quang của mình không? Hay là, trong một giấc mơ nào đó, ông đã thầm ước mình không phải là người nhận được lời hứa huy hoàng vào lúc bình minh... Chỉ đơn giản là một cuộc sống khác, một khả năng khác mà trong đó cái tuyệt đối không được biểu hiện bằng tình yêu của người mẹ. Minh Phước (Nguồn: Báo Tuổi trẻ) *** Tóm tắt Lời hứa lúc bình minh là câu chuyện về tuổi thơ và phần lớn cuộc đời của Romain Gary, một nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Câu chuyện kể về tình yêu vô điều kiện và niềm tin kỳ lạ của người mẹ đối với con trai. Review Lời hứa lúc bình minh là một tác phẩm giả tự truyện, trong đó hư cấu và hiện thực không thể tách rời. Những dữ kiện chính về cuộc đời và đặc biệt là thời thơ ấu của Romain Gary đều có thật, đồng thời cả hai mẹ con được biến thành hai nhân vật tiểu thuyết. Câu chuyện bắt đầu với lời hứa của người mẹ với con trai: "Con sẽ trở thành nhà văn lớn nhất thế giới". Người mẹ là một người phụ nữ đầy tham vọng và quyết tâm, bà luôn tin tưởng vào con trai và sẵn sàng làm mọi thứ để giúp cậu thành công. Dưới sự nuôi dạy của người mẹ, Romain Gary đã có một tuổi thơ đầy tự tin và lạc quan. Mặc dù cuộc sống của gia đình rất nghèo khó, nhưng cậu bé chưa bao giờ phải thiếu thốn tình yêu thương và sự chăm sóc. Khi lớn lên, Romain Gary đã trở thành một nhà văn thành công. Ông đã giành được giải thưởng Goncourt danh giá hai lần, một lần với cuốn tiểu thuyết đầu tay "Tiếng khóc của sói" và một lần với cuốn tiểu thuyết "The Ski Bum". Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, Romain Gary cũng phải đối mặt với những áp lực và căng thẳng lớn. Ông luôn cảm thấy mình phải sống theo sự kỳ vọng của người mẹ, và điều này đã khiến ông cảm thấy mệt mỏi và bất an. Cuối cùng, Romain Gary đã tự sát ở tuổi 66. Cái chết của ông là một bi kịch, nhưng nó cũng là một lời nhắc nhở về sức mạnh của tình mẫu tử. Đánh giá Lời hứa lúc bình minh là một tác phẩm xuất sắc, với lối viết chân thực và cảm động. Tác phẩm đã khắc họa thành công tình mẫu tử thiêng liêng và những tác động của nó đến cuộc đời của một con người. Điểm cộng: Lối viết chân thực và cảm động Khắc họa thành công tình mẫu tử thiêng liêng Đề cập đến những vấn đề sâu sắc về bản chất của con người Điểm trừ: Có một số đoạn hơi lê thê và thiếu hấp dẫn Kết luận: Lời hứa lúc bình minh là một tác phẩm đáng đọc cho những ai yêu thích văn học và muốn tìm hiểu về tình mẫu tử. Mời các bạn mượn đọc sách Lời Hứa Lúc Bình Minh của tác giả Romain Gary & Nguyễn Duy Bình (dịch).
Mộng Đổi Đời
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Mộng Đổi Đời của tác giả Đông Tây & Nguyên Trần (dịch): Khát vọng đổi đời như một hạt giống được gieo mầm, truyền từ đời này sang đời khác. Đôi khi hạt giống nơi đất cằn cũng tự phát triển mập mạp, nhưng phần lớn nhanh chóng bị èo uột giữa chừng bởi những điều kiện khách quan. Vấn đề là cần tìm cho nó một mảnh đất tốt để gửi gắm. Uông Trường Xích thi đại học dư hơn 20 điểm chuẩn nhưng không được tuyển đỗ khiến Uông Hòe cha anh rất bất bình. Với mong muốn giúp con thoát khỏi kiếp nông dân nghèo giống mình, Uông Hòe quyết tâm đòi công lý cho con với kết quả… bị tàn phế phải ngồi xe lăn suốt đời. Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải ôm giấc mộng đổi đời mà bố truyền lại, lên thành phố lăn lộn kiếm sống. Cuộc sống thành thị tàn nhẫn đã rút hết hơi sức của anh, khiến anh mất vợ, mất con, mất bạn bè, mất cả niềm tin vào công lý và con người. Để hoàn thành tâm nguyện của người cha, và để Uông Đại Chí-đứa cháu độc nhất của dòng họ Uông không đi lại con đường mòn như cha ông nó đã từng đi, Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải đưa ra một quyết định đắt giá… *** Tác giả: Đông Tây, tên thật là Điền Đại Lâm, sinh năm 1966 tại Quảng Tây. Là nhà văn-nhà biên kịch đương đại nổi tiếng Trung Quốc. Hiện là Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học tỉnh Quảng Tây khóa 8. Hội viên Hội nhà văn Trung Quốc. Giảng dạy tại Trường Đại học dân tộc Quảng Tây. Các giải thưởng: Giải văn học Lỗ Tấn lần thứ 1 (tiểu thuyết Cuộc sống không có ngôn ngữ). Bộ phim Người tình trên trời được cải biên từ tiểu thuyết của ông đã đoạt giải Cống hiến nghệ thuật xuất sắc nhất tại LHPQT Tokyo lần thứ 15 (10/2002). Các tác phẩm chính: Mộng đổi đời, Hối hận, Vành tai sáng loáng, Cuộc sống không có ngôn ngữ, Bố chúng tôi, Bạn không biết cô ấy đẹp, Cứu mạng, Tại sao tôi không có Tiểu Mật, Trận đấu đau đớn, Tuyển tập Đông Tây… Là nhà văn đại biểu cho “thế hệ tân sinh”. Nhiều tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim truyền hình và được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Thái, Việt Nam, Hy Lạp, Hàn, Nhật, Đức, Pháp… Mộng đổi đời đã lần lượt đoạt giải Tiểu thuyết gia 2005 của Giải truyền thông Hoa ngữ lần thứ 4 bình chọn, giải Sách hay thể loại văn hóa văn nghệ năm 2005 do thời báo Tin tức Bắc Kinh (Beijing News) bình chọn. Mộng đổi đời đã được chuyển thể thành phim truyền hình 44 tập mang tên Yêu con trọn đời, phát sóng trên giờ vàng Đài truyền hình Hồ Bắc (Trung Quốc). “Đọc xong Mộng đổi đời, tôi muốn tìm một từ nào đó để nói rõ cảm nhận đối với ngôn ngữ trong sách nhưng phát hiện thấy không hề dễ. Nói nó là ngôn ngữ cuộc sống nhưng cũng không thiếu cách diễn đạt ngôn ngữ sách vở. Nói nó là ngôn ngữ sách vở thì lại thiếu hụt những quy định về ngôn ngữ sách vở. Tôi nhớ đến tiếng lách tách khi dẫm lên vỏ hạt dưa trong rạp chiếu phim ở Đông Hưng 20 năm về trước. Lách tách, chính là nó. Đông Tây đã dùng cách này để miêu tả thật sinh động việc áp bức và phản kháng, cũng như những mặt xấu và cái đẹp.” -Nhà văn Dư Hoa (tác giả các tác phẩm Phải sống, Huynh đệ…) *** Tóm tắt: Uông Trường Xích là một thanh niên nông dân nghèo, thi đại học dư hơn 20 điểm chuẩn nhưng không được tuyển đỗ. Cha anh, Uông Hòe, quyết tâm đòi công lý cho con nhưng đã bị tàn phế. Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải lên thành phố tìm kiếm cơ hội đổi đời. Cuộc sống thành thị tàn nhẫn đã vùi dập Uông Trường Xích. Anh mất vợ, mất con, mất bạn bè, mất cả niềm tin vào công lý và con người. Để hoàn thành tâm nguyện của cha, và để Uông Đại Chí, đứa cháu độc nhất của dòng họ Uông, không đi lại con đường mòn như cha ông nó đã từng đi, Uông Trường Xích bất đắc dĩ phải đưa ra một quyết định đắt giá. Review: Mộng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội của tác giả Đông Tây. Cuốn sách đã giành được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Tiểu thuyết gia 2005 của Giải truyền thông Hoa ngữ lần thứ 4 bình chọn, giải Sách hay thể loại văn hóa văn nghệ năm 2005 do thời báo Tin tức Bắc Kinh (Beijing News) bình chọn. Cuốn sách kể về câu chuyện của Uông Trường Xích, một thanh niên nông dân nghèo với khát vọng đổi đời. Chàng trai ấy đã phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách để đạt được ước mơ của mình. Cốt truyện của Mộng đổi đời được xây dựng chặt chẽ, logic. Các nhân vật trong truyện được khắc họa sinh động, chân thực. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Mộng đổi đời là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về khát vọng đổi đời. Đánh giá: Ưu điểm: Cốt truyện chặt chẽ, logic Nhân vật được khắc họa sinh động, chân thực Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc Nhược điểm: Một số tình tiết có phần hơi phi lý Kết luận: Mộng đổi đời là một cuốn tiểu thuyết hiện thực xã hội đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người, về khát vọng đổi đời.   Mời các bạn mượn đọc sách Mộng Đổi Đời của tác giả Đông Tây & Nguyên Trần (dịch).