Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khung Trời Quyến Rũ - Janet Dailey

Tháng 9 - 1942, tình hình ở châu Âu đang nguy ngập. Phe Đồng minh đang thất bại trên tất cả các mặt trận. Lúc này, Jacqueline Cochran đang bận rộn với kế hoạch thành lập một đoàn nữ phi công cho không lực lục quân để các nam phi công rảnh tay dồn hết nỗ lực vào việc chiến đấu. Bằng những sự đam mê được bay và được đóng góp với cuộc chiến, những cô gái xinh đẹp, can đảm và tài giỏi đã gặp nhau. Trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, số người còn lại sau này gặp nhau đã khẳng định: Những năm tháng được sống cùng nhau và được bay trên bầu trời chính là những năm tháng đẹp nhất trong đời họ... *** Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. Các tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang ... *** Cô ta ngồi giữa cái giàn bằng dây kẽm và vải bố, cái váy dài bó ngang lại đầu gối, hai chân duỗi hết về phía trước. Tim cô đậm thình thịch như thi đua với tiếng nổ của động cơ 30 ma lực quay hai chong chóng. Khi sợi dây kẽm nơi chiếc máy bay kiểu anh em nhà Wright chế tạo được mở ra khỏi tảng đá làm trụ neo, chiếc máy bay cất bổng lên cao ngang với nóc nhà năm tầng và trong giây phút vô cùng phấn khởi đấy, Edith Berg quên cả nắm chặt thành ghế. Wilbur Wright ngồi ở chỗ lái bên cạnh cô như thường lệ, áo sơ mi cao cổ hồ cứng, bên trong bộ đồ màu xám và đội một mũ lái xe hơi. Chuyến bay trên đường đua ngựa Hunaudiere ở Le Mans, nước Pháp, thành công mỹ nãm và Edith Berg được ghi lại trong sử sách của ngành hàng không như là một phụ nữ đầu tiên đi máy bay. Toàn bộ chuyện đó như là sự sắp đặt để quảng cáo cho sự đáng tin cậy của chiếc máy bay mới mà Wright đã chế tạo, do ý kiến của chồng cô là Hart U.Berg, đại diện thương mại của anh em Wright. Đấy là vào năm 1908 và Eight Berg nổi tiếng ngay, cô được khen ngợi là can đảm và dám liều. Báo chí khoái trò quảng cáo đó, người Pháp thì lắc đầu và thì thầm với nhau: - Cô gái mỹ ấy thật điên rồ, thế mà chồng cô ta đã để cho cô ta làm. Cô mặc bộ đồ may bằng xa tanh màu hồng, từ cái chụp đầu che mái tóc đen như lông quạ xuống đến cái quần ngắn và hai xà cạp bằng vải, quấn từ đầu gối đến mắt cá chân. Cũng dễ hiểu khi các hội viên toàn là đàn ông của Câu lạc bộ hàng không nước Mỹ, có trụ sở tại Long Island đều há hốc mồm mà nhìn cô Harriet Quimby, hai mươi bảy tuổi, nhất là khi cô yêu cầu được cấp bằng lái máy bay, cho một phụ nữ kia chứ ( Chính quyền chưa chịu lãnh trách nhiệm cấp bằng lái máy bay cho tới năm 1925) Cô ký giả có màu mắt xanh lục của tạp chí Lislies đề nghị cho cô chứng minh tài lái máy bay của cô. Họ rất nghi ngờ nhìn cô Harriet Quimby trèo lên chiếc máy bay đổi cánh vải mỏng và cất cánh, Cô bay qua một cánh đồng khoai tây gần đó rồi quay trở lại phi trường và hạ cánh xuống chỗ cất cánh 2 thước, lập kỷ lục về đáp máy bay chính xác của câu lạc bộ, Đấy là vào ngày 01 tháng 06 năm 1911 và Harrier Quimby là người phụ nữ đầu tiên được cấp bằng lái máy bay, Cô ta bình phẩm với các ký giả: - Lái máy bay có vẻ dễ hơn là bỏ phiếu Đến năm 1920, quyền bỏ phiếu của phụ nữ mới được hiến pháp thông qua Cô ta ngồi xếp bằng ở khung cửa ở thân máy bay, trong khi chiếc máy bay Fokker ba động cơ màu đỏ rực, hai cánh màu vàng, nổi trên hai chiếc phao ngoài khơi hải cảng Derry ở xứ Wales. Mái tóc cẳt ngắn của cô mang màu cỏ úa trên đụn cát của đồi Sát quỷ ( Kill Devil Hill) nơi diễn ra chuyến bay đầu tiên có động cơ của anh em Wright. Đại uý Hilton Railey chèo ca nô đến cập sát chiếc máy bay có tên là: Hữu nghị và kêu to lên về phía cô: - Là người phụ nữ đầu tiên bay qua Đại Tây Dương, cô cảm thấy thế nào? Cô có phấn khởi không? - Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời. Amelia Earhart đám nhưng cô không biết cô đã bay qua Đại tây dương - Bill Stultz là hoa tiêu của chuyến bay ấy - tôi chỉ là hành lý đêm theo. Một ngày nào đó tôi sẽ bay thử một mình. Đấy là vào ngày 18 thág 6 năm 1982 Bốn năm sau vào ngày 21/05/1932. Amelia Earhart hạ chiếc Vega của hãng Lockheed chế tạo có động cơ 500 mã lực, màu sơn đỏ, xuống một đồng cỏ ngoài nông trại bên ngoài London Derry thuộc xứ sở Ailen. Kiệt sức cô bò lê ra khỏi buồng lài và nói với những người nông dân đang nhìn sững: Tôi bay từ Mỹ qua Lúc đó là 5 năm sau khi Lindbergh bay qua Đại Tây Dương Ngày 12 tháng 1 năm 1935 Amelia Earhard lập thêm 1 thành tích đầu tiên trong lịch sử hàng không là phi công đầu tiên của phái nữ cũng như nam bay được từ Hawai đến đất liền của nước Mỹ và đáp được chiếc Vega của cô xuống phi trường Oakland ở Califorlia. Tiếp theo là chuyến bay đầu tiên không nghỉ bến Mexico, rồi từ Mexico City đến New York. Khi làm cố vấn nghề nghiệp cho phụ nữ ở trườg đại học Purdue tại Indaina, cô đã khuyên một nhóm nữ sinh viên: - Ngày nay một người con gái phải hoàn toàn tin vào chính mình như một cá nhân. Ngay từ đầu cô ta phải làm công việc hay hơn người đàn ông để được coi trọng bằng anh ta. Có ta phải ý thức về các loại kỳ thi, cả về luật pháp và truyền thống, mà phụ nữ là nạn nhân trong thế giới kinh doanh Amelia gặp vào sự kỳ thị phụ nữ vào năm 1929 khi có được hãng" Chuyển vận hàng không xuyên đại lục"sau đó trở thành: Hàng không xuyên thế giới, mời làm tư vấn cho hãng cùng với lindberg. Trong khi anh này lái máy bay khắm nước để kiểm tra đường bay nói chuyện với phụ nữ và thuyết trình ở các câu lạc bộ của phụ nữ về sự an toàn và thích thú khi bay Trong cuộc đua máy bay xuyên lục địa có tên là Bendix trong tháng 5 năm 1935, amelia may mắn được gặp Jacqueline Cochran mà cuộc đời không thua gì tiểu thuyết của Dickens. Mồ côi cha mẹ, ngày sinh và tên của cha mẹ đều không biết, cô này sống với cha mẹ nuôi ở một thị trấn làm gỗ ở miền Bắc Florida. Cuộc đời khổ nhọc, và cô bé Jacqueline thường đi chân đất. Khi cô lên tám gia đình rời đến Comlumbus để làm việc trong một nhà máy dệt vải và Jacque cũng làm việc ca đem dài 12 giờ. Sau một năm cô bé được chỉ huy mười lăm đứa trẻ trong phòng kiểm tra vải dệt Thôi làm ở xưởng dệt, cô vào làm một tiệm uốn tóc. Bấy giờ lên 13 Jacque là một trong những cô thợ uốn tóc học được kỹ thuật làm cong vĩnh viễn. Cô bắt đầu đi các nơi để biểu diễn kỹ thuật ấy ỏ các tiệm uốn tóc ở Florida cho đến khi một khách hàng thuyết phục cô đăng ký vào một trường y tá dù cô ta chỉ học chữ có hai năm. ... Mời các bạn đón đọc Khung Trời Quyến Rũ của tác giả Janet Dailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mạch Buồn
Đây là những câu chuyện thuyết phục nhất về con người và chiến tranh. Là tâm trạng của những người lính đã chiến đấu và bỏ mạng tại Anzio. Nhiệm vụ của họ là chiếm đồi Alban để tiến đến Rome cách đó bốn mươi dặm. Suốt hơn bốn tháng trời, họ chống chọi với bom đạn, bùn lầy và mùa đông giá rét để giữ mạng sống. Họ đã để lại một vết máu dài cùng nỗi thống khổ khôn tả trên bình nguyên Latium. Không có anh hùng, không có chiến thắng chỉ có bộ mặt chiến tranh khổng lồ, điên rồ và tàn khốc. Đây không chỉ là Abzio mà là bất cứ chiến trường nào nơi con người phải đối mặt với cái chết... *** MỘT SỐ LỜI BÌNH CHO MẠCH BUỒN “Một cuốn sách đáng chú ý, cho chúng ta thấy rõ hơn bộ mặt khổng lồ và điên rồ của chiến tranh.” J.B. Priesley “Một trong những cuốn sách về chiến tranh gây xúc động nhất, vừa chân thực vừa giàu chất thơ.” Times Literary Supplement “Một kiệt tác… Xét một số khía cạnh cuốn sách này hay hơn cả cuốn Phía Tây không có gì lạ…” Irish Times “Tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào về chiến tranh hay hơn cuốn sách này, một cuốn sách giàu tính nhân văn, hàm chứa sự thật đau thương đến nỗi khiến tôi lặng người…” Time Out *** Trước khi anh đặt chân đến cảng cá nhỏ bên bờ biển Tyrrhenian, trời đã ngả về cuối chiều. Ánh hoàng hôn vàng đượm bắt đầu chuyển thành màu xám. Dải đồi Alban đã choàng lên mình tấm khăn sương của đêm. Trên đỉnh đồi cao nhất một đống lửa lớn cháy lấp lánh. Một con bò đực trắng đã bị giết để tế thần. Đích thân Caesar chứng kiến lễ tế này. Thần Jupiter đã được dỗ yên. Tất cả những người đàn ông giờ đã có thể bước đi bên nhau trong hòa bình. Người lữ hành nhìn thấy nước trước khi anh thấy bóng dáng của thị trấn. Antium nằm khuất sau một nếp gấp của bình nguyên Latium. Nhưng người lữ hành biết chỗ nào con đường bất ngờ dốc xuống biển. Chính nơi đây anh đã biết được câu chuyện về nữ thần Fortuna và chính nơi đây nhiều năm trước anh đã tiếp tục cuộc hành hương của mình. Anh bước đi dọc bờ biển, tiếng móng guốc của những con lừa vọng trên mặt đường trải sỏi, những con mòng biển sà xuống sát đầu anh bật lên những tiếng thét. Anh rẽ vào một cái sân hẹp. Anh quỳ xuống, cầu thánh thần phù hộ cho mình trở lại Antium bình an vô sự. Sáng hôm sau, vừa tới đền thờ thần Fortuna, người lữ hành sửng sốt khi nghe một người đàn ông nói rằng Caear đã bị ám sát. Trong vài phút anh ngây người nhìn chằm chằm xuống con tàu bằng thủy tinh chứa những đồ cúng bé xíu của mình, con tàu trượt khỏi tay anh rơi xuống đất vỡ tan tành. Rồi anh bước vào điện thờ thần Fortuna, vị thần nắm giữ trong tay mọi hiểu biết về tương lai. *** Một cuốn sách về chiến tranh được in khá đẹp với những lời ca ngợi rất “kêu” trên bìa lót, một trong số đó đã có ấn tượng đến mức tôi quyết định đọc thử : “Xét một số khía cạnh cuốn sách này hay hơn cả cuốn Phía Tây không có gì lạ…” – Irish Times. Tôi không phải là kiểu người chọn sách dựa trên những lời khen in bìa như thế, đôi khi còn ác cảm nữa kia. Nhưng lần này lại khác, bởi trong lời nhận xét ấy có nêu đối tượng so sánh cụ thể là kiệt tác của Remarque. Bình thường người ta có thể tung hô thoải mái song khi đã đặt lên bàn cân một cái tên lừng lẫy như vậy hẳn nhiên phải có ít nhiều cơ sở. . Mạch buồn là một tiểu thuyết chiến tranh, thuật lại cuộc chiến của quân Đồng minh tại Anzio, chiếm Rome, vào chiến tranh thế giới lần thứ II. Bản thân William Woodruff đã trực tiếp tham gia chiến dịch này, ông còn là một nhà sử học vì vậy cuốn sách này hết sức trung thực về mặt tư liệu. Cần nói rằng, nhà văn đã chọn cho mình một lối viết khá lạ, khi không chọn ra  tuyến nhân vật nào cho tác phẩm. Mạch buồn là một tiểu thuyết không có nhân vật cụ thể mà thay đổi liên tục theo dòng sự kiện, khi là một anh hạ sĩ, khi là một lính Đức, lúc lại là một đứa trẻ bản xứ… Nhân vật duy nhất cố định xuyên suốt tất thảy là chiến tranh. Đã có không ít sách viết về chiến tranh, nhưng William Woodruff đã đạt được một thành công khác biệt bởi chiến tranh trong sách của ông không hề bị giới hạn trong không gian. Góc quan sát trong truyện liên tục thay đổi, thậm chí nhiều lúc còn không có một dấu hiệu chuyển góc nhìn rõ ràng, những quang cảnh chiến đấu, mất mát, bom đạn… đổ tràn trên trang giấy từ rất nhiều góc độ tại cùng một mốc thời gian. Chính thủ pháp này đã khiến Mạch buồn có một cái nhìn toàn diện, khách quan hiếm có của một sử liệu ở một tác phẩm văn học. Cũng có ý kiến cho rằng tác giả đã ca ngợi chủ nghĩa anh hùng tập thể chứ không phải xây dựng hình tượng anh hùng cá nhân tương tự một số tiểu thuyết khác. Tôi không đồng ý lắm. Trong cuốn sách này, tôi đã không hề thấy chất anh hùng. Dường như anh hùng là một khái niệm quá màu mè, hoa mỹ khi dùng để nói đến một tác phẩm giàu chất hiện thực đến kinh ngạc như vậy. Chiến tranh trong Mạch buồn không có kẻ chiến thắng, không có niềm vinh quang, chẳng có thất bại và có lẽ cũng không có cả sự đau khổ. Nó là một thứ gì đó vượt qua mọi giới hạn của nhận thức thông thường, đưa tất cả về những giá trị cơ bản nhất : sống – chết. William Woodruff, cũng như Remarque, không viết về cuộc chiến dưới cái nhìn của một người đứng về một bên chiến tuyến, ông viết nó dưới tư cách của một con người bình thường, phản ánh nên một hiện thực khốc liệt, soi rọi nhiều số phận nhỏ bé đã bị vinh quang của lịch sử lấp nhòa. Có lẽ chính cái nhìn khách quan mà vẫn thấm đẫm tính người ấy đã đưa Mạch buồn trở thành một điểm sáng trong dòng chảy tiểu thuyết cùng loại. Đọc xong Mạch buồn, tôi chợt hiểu rằng, một cuốn tiểu thuyết chiến tranh xuất sắc cũng chính là một tác phẩm phản chiến gây ấn tượng nhất.  Trong chiến tranh, không có kẻ nào thực sự chiến thắng. Đó là điều văn học có thể chỉ ra cho ta thấy, còn lịch sử thì không. chiemphong Mời các bạn mượn đọc sách Mạch Buồn của tác giả William Woodruff & Nguyễn Bích Lan (dịch).
Duyên Phận Bất Ngờ
Những tháng ngày tăm tối sau cái chết của vua Richard Tim Sư Tử, các vùng đất rơi vào hỗn loạn dưới sự cai trị của một ông vua người Anh thèm khát quyền lực. Duyên Phận Bất Ngờ xoay quanh nhân vật chính Gillian. Khi cô lên 4 tuổi, gia đình cô gặp phải biến cố lớn: Gillian ngây thơ vẫn còn là một đứa trẻ, khi cô chứng kiến Bá tước Alford tàn nhẫn và đầy tham vọng giết hại cha mình để tìm lại chiếc hộp trang sức quý giá cho vua John, hai chị em cô bị lạc mất nhau. 14 năm sau, cô sống cùng bác họ của mình - Lãnh chúa Morgan và người hầu gái đã chăm sóc cho cô từ nhỏ tại lãnh địa của ông. Nhưng những tên lãnh chúa đã gây ra nỗi đau cho gia đình cô năm nào lại một lần nữa xuất hiện và đe dọa đến cuộc sống của cô và những người xung quanh cô. Để cứu bác mình, cô phải đến lãnh địa Macpherson tìm lại chị và tung tích chiếc hộp châu báu đã thất lạc của vua John. Trên đường đến đây, cô tình cờ cứu giúp cậu bé Alec khỏi tay bọn bắt cóc, và chạm trán Lãnh chúa Buchanan Brodick, người bảo vệ cậu bé. Cô và vị lãnh chúa trẻ tuổi nhanh chóng nảy sinh tình cảm. Nhưng cô không thể ở lại lãnh địa của anh. Cô phải nhanh chóng tìm được chị gái và chiếc hộp để quay về cứu bác mình. Khi cô không tìm thấy chiếc hộp và quyết định trở về nước Anh mà không thông báo cho anh, cô lại một lần nữa rơi vào tay của Nam tước Alford. Cuối cùng, liệu Gillian có thể thoát khỏi nguy hiểm và trở về bên Buchanan Brodick được không? Thông tin tác giả: Julie Garwood sinh năm 1946 tại thành phố Kanas, Missouri và là con thứ sáu trong một gia đình gốc Ireland. Mary Elizabeth – người bạn cũng là người thầy tại một lớp học đọc vào mùa hè năm bà mười một tuổi đã giúp Julie mở cánh cửa vào thế giới văn chương và trở nên say mê với nó. *** Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. Julie Garwood thường xuyên lọt vào danh sách các tác giả ăn khách nhất do New York Times, Wall Street Journal, và Publisher Weekly bình chọn. Hiện nay, những tác phẩm của bà đã phát hành được hơn ba mươi lăm triệu bản trên khắp thế giới. Bà là một trong những tác giả người Mỹ nổi tiếng nhaatsthees giới về tiểu thuyết cổ điển lãng mạn, bên cạnh những tên tuổi lớn như Linda Howard và Johanna Lindsey. Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle Người Đàn Ông Lý Tưởng Shadow Music Khát Vọng Nổi Loạn Âm Điệu Bóng Đêm Vì Những Đóa Hồng - Julie Garwood Phép Màu Tình Yêu Duyên Phận Bất Ngờ ... Mời các bạn mượn đọc sách Duyên Phận Bất Ngờ của tác giả Julie Garwood & Nguyễn Thị Lệ Thi (dịch).
Bí Mật Sâu Kín Nhất
Nối tiếp Chỉ thời gian có thể cất lời và Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất là tập thứ ba trong bộ Biên niên Clifton của Jeffrey Archer. Trong phần 3 – Bí mật sâu kín nhất, mỗi nhân vật chính sẽ xuất hiện với những vai trò mới với những biến cố và thử thách mới. Harry sẽ trở thành một tiểu thuyết gia, Emma cố gắng điều hành công việc kinh doanh của riêng cô, còn Giles bắt đầu tham gia hệ thống chính trị và chạy đua vào nghị viện. Những nhân vật chính sẽ bắt đầu một chương mới của cuộc đời, nhưng liệu rằng con đường của họ sẽ thuận lợi hay nhiều chông gai? Liệu những sóng gió có quật ngã sức sống của họ? Đây không còn là câu chuyện chỉ liên quan đến Harry Clifton. Mối ràng buộc giữa hai nhà Clifton và Barrington ngày càng sâu sắc hơn. Các bí mật xoay quanh thân thế của các nhân vật và những kế hoạch của họ khiến cho số phận các thành viên hai gia đình thay đổi nhanh chóng. Cho đến phút cuối cùng, bí mật sâu kín nhất vẫn chưa được tiết lộ. Liệu còn nhân vật nào sẽ khép lại câu chuyện của mình sau khi bí mật được phơi bày? *** #Review_độc_giả BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT – JEFFREY ARCHER Cuối phần 2 – Tội lỗi của người cha, mình đã nghĩ tác giả có thể kết thúc truyện rồi vì đa số các mâu thuẫn chính đã được giải quyết; Harry và mọi người đều có kết thúc đẹp, kẻ ác thì đã trả giá. Nên mình có đôi chút lo lắng về phần 3, vì nếu cố tình kéo dài truyện thì nhiều khi các phần sau sẽ khiên cưỡng và nhàm chán như rất nhiều tác phẩm trước đây đã gặp phải.  Tuy nhiên, Archer đã không làm mình thất vọng, những nhân vật phản diện vẫn trực chờ cơ hội báo thù Harry, Giles cũng như Emma. Tất nhiên là cậu con trai Sebastian cũng bị cuốn vào; mạch truyện càng về sau càng chuyển dần qua chàng trai mới lớn này. Những thử thách và số phận của cậu hứa hẹn sẽ còn hấp dẫn hơn cả cuộc đời người cha - Harry. Người con gái nuôi của Harry và Emma mà thực chất là con của Hugo cũng hứa hẹn sẽ tạo nên những rắc rối lớn cho sau này, nhưng chắc chúng ta phải đợi tới phần 4 để theo dõi. Tuy nhiên, mình cũng hơi thất vọng một chút về Harry, một người đã trải qua nhiều năm bão táp chiến trường trong Thế chiến thứ 2 mà không thể hiện được nhiều bản lĩnh của mình, có lẽ tác giả muốn dành sân khấu cho lớp trẻ nhiều hơn chăng?? Chỉ có một tình tiết mình khá thích, nếu ai đọc của Archer nhiều thì sẽ nhận thấy các nhân vật chính của ông đều đầy tài năng nhưng không chung thủy, họ dễ bị ngã vào vòng tay của nhưng người mới, tình huống tương tự cũng được Acher xây dựng cho Harry và Emma, kết quả ra sao thì mình sẽ để cho mọi người tự khám phá để tránh spoil. Cá nhân mình thích kết phần 3 hơn kết phần 2 rất nhiều, vì nó hứa hẹn phần 4 sẽ rất đáng mong đợi. Mình đánh giá BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT khoảng 8,5 điểm. Hy vọng chúng ta sẽ sớm được đón nhận phần 4 của series truyện này. Review: Đào Đức Tâm *** Big Ben đổ chuông bốn tiếng. Mặc dù đã kiệt sức bởi những gì diễn ra tối hôm đó, nhưng vẫn còn đủ chất kích thích được bơm đi khắp cơ thể khiến vị Đại Chưởng ấn hầu như không thể ngủ nổi. Ông đã cam đoan với các thành viên Thượng viện sẽ đưa ra một phán quyết cho vụ tranh tụng của Barrington chống lại Clifton về vấn đề thừa kế tước hiệu lâu đời và tài sản khổng lồ của gia tộc. Thêm một lần nữa, ông cân nhắc các sự kiện thực tế, vì ông tin vào chúng, và chỉ có chúng được phép quyết định phán quyết cuối cùng của ông. Khoảng bốn mươi năm về trước, khi ông bắt đầu tập sự, người hướng dẫn đã khuyên ông phải loại bỏ mọi cảm xúc hay thiên kiến cá nhân khi cần đưa ra một phán quyết về thân chủ hay về vụ tranh tụng đang diễn ra trước mắt. Ngành luật không phải là ngành dành cho những kẻ có trái tim yếu đuối hay lãng mạn, sư phụ của ông đã nhấn mạnh như thế. Tuy vậy, sau khi tuân thủ tôn chỉ này trong bốn thập kỷ, ngài Đại Chưởng ấn buộc phải thừa nhận ông chưa bao giờ gặp phải một vụ việc cân bằng đến mức gần như tuyệt đối thế này. Ông chỉ ước gì F. E. Smith⁜vẫn còn sống để ông có thể tìm kiếm lời khuyên từ sư phụ của mình. ← Frederick Edwin Smith, Bá tước thứ nhất của Birkenhead, là một chính trị gia và luật sư bảo thủ người Anh. Một mặt… ông căm ghét những lời lẽ sáo mòn này biết chừng nào. Một mặt, Harry Clifton đã ra đời sớm hơn ba tuần so với người bạn thân nhất của anh ta, Giles Barrington: đó là thực tế. Mặt khác, Giles Barrington, không nghi ngờ gì nữa, là con trai chính thức của Sir Hugo Barrington và người vợ kết hôn hợp pháp của ông ta, Elizabeth: đó là một thực tế nữa. Nhưng điều đó vẫn không làm chàng trai trở thành người con được ra đời sớm nhất của Sir Hugo, và đó là điểm mấu chốt của bản di chúc. Một mặt, Maisie Tancock sinh Harry vào ngày thứ 28 của tháng thứ chín sau khi bà ta thừa nhận đã có quan hệ tình dục với Sir Hugo Barrington khi họ tham gia chuyến dã ngoại dành cho công nhân tới Weston-super-Mare⁜. Thêm một thực tế. Mặt khác, Maisie Tancock đã kết hôn với Arthur Clifton khi Harry ra đời, và giấy khai sinh khẳng định rõ ràng Arthur là bố đứa trẻ. Một thực tế khác. ← Một thị trấn ven biển ở Somerset, Anh. Một mặt… Dòng suy nghĩ của Đại Chưởng ấn quay trở lại những gì đã diễn ra trong phòng họp sau khi Viện cuối cùng cũng thực hiện biểu quyết để quyết định xem Giles Barrington hay Harry Clifton nên được thừa kế tước vị và tất cả những gì đi kèm.Ông nhớ lại chính xác những lời của người phụ trách kiểm phiếu khi công bố kết quả trước Thượng viện đông kín. “Đồng ý ở bên phải, hai trăm bảy mươi ba phiếu. Không đồng ý ở bên trái, hai trăm bảy mươi ba phiếu.” Những tiếng xôn xao ồn ã vang lên khắp các băng ghế đỏ⁜. Ông chấp nhận việc kết quả bỏ phiếu cân bằng sẽ buộc ông phải đảm nhận trách nhiệm không hề mong muốn là đưa ra quyết định ai là người được thừa kế tước vị của gia đình Barrington, công ty hàng hải danh tiếng, cũng như mọi tài sản, đất đai, vật sở hữu có giá trị. Giá như không có nhiều thứ đến vậy gắn liền với quyết định của ông khi tính đến tương lai của hai người đàn ông trẻ tuổi. Liệu ông có nên chịu ảnh hưởng bởi thực tế Giles Barrington muốn được thừa kế tước vị còn Harry Clifton thì không? Không, ông không được làm thế. Như Lord Preston đã chỉ ra trong bài diễn thuyết đầy sức thuyết phục của ông ta từ băng ghế phe đối lập, rằng như thế sẽ tạo ra một tiền lệ xấu, cho dù nó thật tiện lợi. ← Ở Quốc hội Anh, các băng ghế tại phòng họp Thượng viện sơn màu đỏ, còn Hạ viện sơn màu xanh. Một mặt, nếu ông thực sự ra phán quyết có lợi cho Harry… cuối cùng ông ngủ thiếp đi, để rồi bị đánh thức bởi một tiếng gõ cửa khe khẽ vào lúc bảy giờ, một thời điểm muộn bất thường. Ông rên lên, đôi mắt vẫn nhắm trong khi đếm từng tiếng chuông của Big Ben. Chỉ còn ba giờ đồng hồ nữa trước khi ông phải đưa ra phán quyết, và ông vẫn chưa đi được tới quyết định. Đại Chưởng ấn rên lên lần thứ hai khi ông đặt chân xuống sàn, xỏ dép vào và đi sang phòng tắm. Thậm chí lúc ngồi trong bồn tắm, ông vẫn tiếp tục đánh vật với vấn đề. Thực tế. Harry Clifton và Giles Barrington đều bị mù màu, giống như Sir Hugo. Thực tế. Bệnh mù màu chỉ có thể di truyền từ mẹ, vậy nên đây chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên, và cần được loại bỏ trên đúng cơ sở đó. Ông ra khỏi bồn tắm, lau khô người, khoác lên mình một chiếc áo mặc trong nhà. Sau đó, ông ra khỏi phòng ngủ, đi theo hành lang trải thảm dày tới phòng làm việc của mình. Đại Chưởng ấn cầm một cây bút máy và viết hai cái họ “Barrington” và “Clifton” lên đầu một trang giấy, phía dưới ông bắt đầu liệt kê những ưu thế và yếu thế của từng người. Cho tới khi ông viết kín ba trang giấy với thứ chữ gọn ghẽ như bản khắc đồng của mình, Big Ben đã đánh tám tiếng chuông. Song ông vẫn chẳng sáng suốt được thêm chút nào. Ông đặt bút xuống và miễn cưỡng đi ăn sáng. Đại Chưởng ấn ngồi một mình, lặng lẽ dùng bữa sáng. Thậm chí ông không để mắt tới những số báo ra buổi sáng được xếp ngay ngắn ở bên đầu bàn, cũng không bật máy thu thanh lên, vì ông không muốn một bình luận viên không được thông tin đầy đủ nào đó làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình. Những tờ báo nghiêm túc tập trung vào tương lai của nguyên tắc thừa kế thế tập nếu Đại Chưởng ấn phán quyết có lợi cho Harry, trong khi các tờ lá cải dường như chỉ bận tâm đến chuyện liệu Emma có thể kết hôn với người đàn ông cô yêu hay không. Khi ông quay trở lại phòng tắm để đánh răng, cán cân công lý vẫn chưa nghiêng về bên nào. Ngay sau khi Big Ben đánh chuông báo chín giờ, ông quay trở lại phòng làm việc và đọc lại các ghi chép của mình với hy vọng rằng cuối cùng cán cân cũng sẽ nghiêng về bên này hay bên kia, song nó vẫn cân bằng tuyệt đối. Ông tiếp tục nghiền ngẫm các ghi chú khi một tiếng gõ cửa nhắc nhở Đại Chưởng ấn rằng cho dù có hình dung quyền lực của ông lớn đến thế nào, ông vẫn không thể ngăn được thời gian trôi đi. Ông thở dài, xé ba tờ giấy khỏi tập sổ ghi chép, đứng dậy, tiếp tục đọc trong khi bước ra khỏi phòng làm việc và đi xuống hành lang. Khi vào phòng ngủ, ông trông thấy East, người hầu phòng, đang đứng cạnh chân giường, chờ đợi thực hiện phần việc buổi sáng. East bắt đầu bằng việc khéo léo cởi chiếc áo mặc trong nhà bằng lụa ra trước khi giúp ông chủ mặc lên người một chiếc sơ mi trắng vừa là xong vẫn còn ẩm. Tiếp theo, một cái cổ cồn hồ bột, rồi đến một chiếc khăn quàng cổ nhỏ tinh tế có dây buộc. Trong khi Đại Chưởng ấn kéo cái quần dài đen lên, ông tự nhắc nhở mình đã tăng thêm vài cân kể từ khi nhậm chức. Tiếp đó, East giúp ông mặc chiếc áo thụng dài màu đen và vàng trước khi chuyển sự chú ý sang đầu và bàn chân ông chủ. Một bộ tóc giả che kín gáy được đội lên đầu ông trước khi ông xỏ chân vào đôi giày có cài khóa. Chỉ sau khi sợi dây chuyền vàng chức tước từng được ba mươi chín vị Đại Chưởng ấn trước đó đeo đã nằm trên vai, ông mới từ bộ dạng một vai quý bà cáu bẳn trên sân khấu kịch câm chuyển thành quan chức tư pháp có quyền lực lớn nhất ở quốc gia này. Một cái liếc mắt vào gương, và ông cảm thấy đã sẵn sàng để bước lên sân khấu diễn vai của mình trong vở diễn đầy kịch tính đang được công diễn. Chỉ tiếc một điều là ông vẫn chưa biết lời thoại sẽ thế nào. Việc căn thời gian cho Đại Chưởng ấn đi vào và ra khỏi tòa tháp Bắc cung điện Westminster hẳn có thể khiến một thượng sĩ nhất của trung đoàn phải thấy ấn tượng. Vào lúc 9 giờ 40 phút sáng, có một tiếng gõ cửa và David Bartholomew, thư ký của vị đại thần, bước vào phòng. “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” ông ta mở lời. “Chúc buổi sáng tốt lành, ông Bartholomew,” Đại Chưởng ấn chào lại. “Tôi rất tiếc phải thông báo,” Bartholomew nói, “là Lord Harvey đã qua đời tối qua, trong một chiếc xe cứu thương trên đường tới bệnh viện.” Mời các bạn mượn đọc sách Bí Mật Sâu Kín Nhất của tác giả Jeffrey Archer & Lê Đình Chi (dịch).
Bao Điều Không Nói
"Lydia đã chết. Nhưng gia đình cô vẫn chưa biết điều này.”  Đó là mở đầu của cuốn tiểu thuyết về một gia đình lai Mỹ - Á sống tại thị trấn nhỏ ở Ohio năm 1970. Lydia là đứa con mà ông bà Lee rất mực yêu thương, và cô được kỳ vọng sẽ hoàn thành những giấc mơ dang dở của cha mẹ mình. Nhưng cuộc đời không phải luôn bằng phẳng. Cái chết của Lydia đã làm đảo lộn mọi dự định cũng như phá vỡ sự cân bằng mong manh của gia đình cô.Trong quá trình đi tìm manh mối về cái chết của Lydia, những bí mật của gia đình Lee dần được hé lộ… Cuốn tiểu thuyết không đơn thuần kể về một án mạng, nó còn là câu chuyện xúc động về gia đình, về ước mơ, khát khao và lầm lỗi. Đặc biệt, sự giằng xé trong những thân phận ngụ cư, loay hoay tìm giấc mơ nơi "Miền đất hứa", cũng là một điểm nhấn kéo dài âm ỉ trong suốt mạch truyện, đầy day dứt và xót xa. *** Lydia chưa biết bơi. Dù cô đã đi tập bơi suốt cả mùa hè với anh Nath. Lydia rất muốn thỏa cái cảm giác nổi lơ lửng trên mặt nước là như thế nào. Nhưng đấy phải là lúc cô còn sống cơ. Nhìn từ bên ngoài, nhà Lee là một gia đình hạnh phúc. Ông chồng James là một giáo sư được yêu mến tại trường đại học, bà vợ Marilyn giỏi nấu nướng và đảm đang. Ba người con của họ đều tài giỏi, đứa lớn Nath thì được nhận vào trường Harvard, đứa thứ hai Lydia là học sinh xuất sắc ở trường, đứa út Hannah lại là một cô bé cực kỳ ngoan ngoãn. Nhưng trong tâm trí của mỗi thành viên lại có những suy nghĩ riêng mà không ai hiểu được. James vật lộn trong đống bài vở của đám sinh viên, ông chỉ mong muốn được hơi ấm phụ nữ ôm lấy mình. Tuy nhiên ông lại không nói với vợ con. Marilyn ngày đêm mơ đến lớp Hóa - Sinh vẫn còn đang dang dở tại trường đại học, giấc mơ trở thành bác sĩ vẫn ám ảnh bà. Khi biết mình không còn cơ hội nào, Marilyn dồn giấc mơ đó cho đứa con gái bà yêu quý nhất, Lydia. Nhưng bà cũng không nói những điều đó với chồng con. Kể từ xem chương trình khoa học trên TV, Nath bắt đầu đam mê thiên văn học, cậu muốn sau này trở thành phi hành gia hoặc làm việc trong NASA. Vậy mà trong nhà không một ai quan tâm đến điểm A môn Vật lý cậu giành được, hay lá thư trường Harvard gửi về mời cậu nhập học. Nath ghét bố mẹ, ghét cả cô em gái cậu từng rất yêu thương Lydia, và chỉ muốn nhanh chóng thoát khỏi căn nhà này. Cuối cùng Nath vẫn không biến những suy nghĩ đó thành lời nói. Hannah giống như một đứa trẻ vô hình trong gia đình. Họ quên bày bát đĩa của cô, không bao giờ hỏi chuyện học ở trường, không dẫn cô đi tập bơi, và thậm chí đôi khi cũng quên mất sự tồn tại của cô trên đời. Thú vui duy nhất của Hannah là trộm đồ đạc trong nhà, cô cất giữ chiếc bật lửa của bố, dây chuyền của chị Lydia và vô số đồ lặt vặt khác. Nhưng cô không bao giờ kể chuyện đó cho ai biết. Còn Lydia rất muốn nói cho bố rằng cô không hề có bạn bè nào trong suốt nhiều năm qua, nói với mẹ rằng cô không còn hiểu được các công thức Vật lý phức tạp kia, và đừng mua thêm sách cho cô nữa. Lydia muốn tâm sự với Nath rằng cô không muốn anh rời đi, khi ngôi nhà này ngột ngạt quá đến mức cô không thể chịu đựng nổi. Lydia cũng luôn muốn dặn Hannah, nếu em thực sự muốn điều gì, em phải nói ra, nếu không em sẽ hối hận cả đời. Tuy vậy, chính Lydia lại không làm được điều đó. Tất cả những điều họ không nói đã trở thành ác mộng. Xác của Lydia được tìm thấy đáy hồ, mất một nửa mặt vì bị ngâm quá lâu trong nước. Một cái xác câm lặng nhưng phơi bày hết một thứ gì đó đã mục ruỗng từ lâu trong chính nhà Lee, những người Trung Quốc duy nhất trong thị trấn này. Lấy bối cảnh những năm 1970 tại một thị trấn nhỏ nước Mỹ, Bao điều không nói của Celeste Ng đã vẽ nên một bức tranh nhức nhối ẩn đằng sau vẻ bên ngoài yên bình giả tạo. Cái chết dưới hồ của một cô gái có thể là chủ đề bàn tán cho cả thị trấn trong suốt thời gian dài, nhưng quan trọng hơn đó là một cô gái Trung Quốc mắt xanh. Sự phân biệt chủng tộc ngầm len lỏi qua cộng đồng nhỏ bé này là một cái tát thẳng vào mặt những kẻ ngoại tộc ở đây. Với mạch truyện chậm rãi và buồn thảm, Bao điều không nói thử thách sự kiên nhẫn cực độ của người đọc. Nếu cuốn sách được chuyển thể, độc giả có thể mường tượng được màu sắc u tối và xám xịt trong từng cảnh của phim hiện ra như thế nào. Nhưng trên tất cả, cuốn sách là bài học giáo dục sâu sắc dành cho các bậc phụ huynh, người trước giờ vẫn luôn ảo tưởng rằng mình đã hiểu hết tâm tư của những đứa trẻ. *** Lydia đã chết. Nhưng gia đình cô vẫn chưa biết điều này. Năm 1977, ngày 3 tháng năm, lúc 06:30 sáng, không ai thấy có gì bất thường ngoài một thực tế vô thưởng vô phạt: Lydia muộn bữa ăn sáng. Như mọi khi, bên cạnh bát ngũ cốc, mẹ của Lydia đặt một cây bút chì mài nhọn và sáu bài tập Vật lý về nhà đã được đánh dấu nháy nhỏ cho cô. Đánh xe đến chỗ làm, bố của Lydia quay đĩa số về WXKP, Kênh Tin tức Hay nhất Tây Bắc Ohio, bực mình bởi tiếng rè rè của sóng vô tuyến. Trên cầu thang, anh trai của Lydia ngáp ngắn ngáp dài, đắm mình trong cơn mơ ngủ. Trên chiếc ghế trong góc bếp, em gái của Lydia khòm người, tròn mắt nhìn đĩa ngũ cốc bắp, cố hút từng miếng một, chờ Lydia xuất hiện. Rốt cuộc, cô cũng lên tiếng: “Lydia đang làm mất thời gian hôm nay rồi đấy.” Tầng trên, Marilyn mở cửa phòng con gái mình và trông thấy chiếc giường trống không: mấy góc chăn bông vẫn được xếp gọn gàng, mặt gối vẫn mịn và căng phồng. Mọi thứ vẫn ở yên vị trí của nó. Mớ đồ nhung kẻ màu mù tạt nằm ngổn ngang dưới sàn, cạnh một chiếc vớ sọc cầu vồng. Hàng ruy băng Giải thưởng Khoa học treo trên tường, một tấm bưu thiếp của Einstein. Chiếc túi du lịch nhàu nát trên sàn tủ quần áo. Chiếc cặp đựng sách màu xanh lá nằm rũ trên bàn. Lọ Baby Soft trên nóc tủ với mùi hương phấn dịu ngọt mềm mại vẫn còn đọng trong không khí. Nhưng không có Lydia. Marilyn nhắm mắt lại. Có lẽ, khi bà mở mắt ra, Lydia sẽ ở đó, phủ chăn quá đầu như thường lệ, suối tóc dài xòa xuống. Một giọng điệu gắt gỏng phát ra từ dưới tấm ga trải giường mà, vì lí do nào đó, bà mặc kệ. Con đang trong phòng tắm, mẹ ơi. Con xuống dưới lầu uống nước rồi. Con nằm đây nãy giờ mà. Tất nhiên, khi bà đưa mắt nhìn xung quanh, chẳng có gì thay đổi cả. Các rèm cửa khép kín hắt ánh sáng như một màn hình tivi trống. Xuống cầu thang, bà dừng lại ở cửa nhà bếp, bàn tay đặt lên mỗi bên khung cửa. Sự im lặng của bà đã nói lên tất cả. “Mẹ sẽ kiểm tra bên ngoài” - cuối cùng, bà nói. - “Có thể có lí do nào đó…”. Bà nhìn chằm chằm vào sàn nhà rồi lại hướng về phía cửa trước, như thể dấu chân của Lydia đã bị thảm lau mất dấu vết. Nath nói với Hannah: “Lydia ở trong phòng nó tối qua mà. Anh nghe có tiếng radio. Lúc 11:30.” Cậu ngừng nói, sực nhớ ra cậu đã không chúc em gái ngủ ngon. “Mười sáu tuổi thì có còn bị bắt cóc được nữa không ạ?” - Hannah vặn vẹo. Nath dùng muỗng khuấy bát thức ăn của mình. Ngũ cốc bắp nát ra rồi chìm vào lớp váng sữa. Mẹ chúng trở vào bếp, và vì một khoảnh khắc an nhiên trong lòng, Nath thở hắt ra nhẹ nhõm với ước nguyện: Em đây rồi, Lydia, vẫn bình an vô sự. Điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra - gương mặt anh em chúng giống nhau đến nỗi dù đã nhìn thật chăm chú nhưng bạn vẫn sẽ nhầm lẫn đứa này với đứa khác: chiếc cằm xinh xắn, xương gò má cao và lúm đồng tiền bên má trái giống nhau, bờ vai thon gọn y hệt. Chỉ có màu tóc là khác biệt, tóc Lydia đen nhánh như màu mực trong khi mẹ chúng lại có mái tóc xoăn màu mật ong. Nath và Hannah lại giống bố. Có một lần, một người phụ nữ dừng lại trước chúng trong một cửa hàng tạp hóa và sẵng giọng hỏi: “Người Trung Quốc à?” Và khi chúng vừa kịp trả lời vâng, bà ta không thiết nghe tiếp câu nói dang dở đã gật gật đầu ra chiều hiểu biết. “Nhìn đôi mắt đó là biết ngay mà.” Bà ta nói rồi kéo dài đuôi mắt với một ngón tay. Nhưng Lydia, bất chấp di truyền, bằng cách nào đó sở hữu đôi mắt màu xanh biếc của mẹ, và chúng biết điều này là một trong nhiều lý do Lydia rất được mẹ cưng chiều. Và bố của chúng cũng vậy. Khi Lydia đặt tay lên trán thì trông cô càng giống mẹ hơn nữa. “Chiếc xe vẫn còn ở đây” - bà nói, Nath biết trước như vậy rồi. Lydia không thể lái xe; con bé thậm chí còn chưa có giấy phép lái xe. Tuần trước, nó đã khiến cả nhà kinh ngạc khi thì rớt, và bố nhất định sẽ không để con bé ngồi ở ghế lái khi không có bằng. Nath khuấy ngũ cốc đang dần đặc quánh lại ở đáy bát của mình. Đồng hồ trong sảnh kêu tích tắc, điểm bảy giờ ba mươi phút. Không một ai di chuyển. “Hôm nay chúng ta vẫn đến trường chứ?” - Hannah hỏi. Marilyn lưỡng lự. Sau đó, bà vào lấy ví và chùm chìa khóa với một vẻ mặt tươi tỉnh. “Hai con muộn xe buýt rồi. Nath, lấy xe của mẹ và tiện thể thả Hannah xuống trên đường con đi nhé.” Rồi bà nói tiếp: “Đừng lo lắng. Bố mẹ sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra.” Bà không nhìn bọn trẻ. Chúng cũng không hề quay lại nhìn bà. Khi hai đứa con đi khỏi, bà lấy ra một chiếc cốc từ chạn bếp, cố giữ bàn tay khỏi run rẩy. Cách đây rất lâu, khi Lydia còn là một đứa bé, Marilyn đã từng để Lydia một mình trong phòng khách, chơi trên một cái chăn, và đi vào nhà bếp để pha một tách trà. Con bé chỉ mới mười một tháng tuổi. Marilyn nhấc ấm nước ra khỏi bếp và quay sang tìm Lydia đang đứng ở ngưỡng cửa. Vừa xoay đi, bà đã đặt nhầm bàn tay trên bếp nóng. Một vết bỏng đỏ au, hình xoắn ốc hiện lên trên lòng bàn tay, rồi bà chạm nó lên môi và nhìn con gái mình qua làn nước mắt. Lydia đứng đó, hoạt bát lạ thường, tựa như đây là lần đầu tiên cô vào nhà bếp. Marilyn đã không nghĩ về những thiếu sót trong bước đầu tiên nuôi dạy con trẻ, hoặc giả con gái mình đã lớn đến nhường nào. Ý nghĩ hiện lên trong tâm trí bà không phải là Mình đã bỏ rơi con bé ra sao? Mà là Con đang che giấu điều gì khác? Nath đã biết rướn người, loạng choạng lật mình và đi chập chững ngay trước mặt bà, nhưng bà lại không nhớ Lydia đã bắt đầu tập đứng khi nào. Dù con bé trông có vẻ rất vững vàng trên đôi chân trần, những ngón tay bé nhỏ hé ra từ gấu áo của bộ đồ yếm. Marilyn thường quay lưng lại, mở tủ lạnh hoặc ủi quần áo. Lydia có thể đã bắt đầu biết đi từ nhiều tuần trước, trong lúc bà mải cúi người làm bếp, và không hề biết điều gì đang diễn ra. Mời các bạn mượn đọc sách Bao Điều Không Nói của tác giả Celeste Ng & Thảo Lê (dịch).