Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Khởi Nghĩa - Jules Vallès

Tập III Người Khởi Nghĩa , đỉnh cao của bộ tiểu thuyết, trình bày gần như một thiên ký sự lịch sử, viết từng ngày từng tháng, chủ yếu vẽ lên bức tranh hào hùng của Pari thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong những ngày khởi nghĩa, từ 18 tháng Ba cho đến 28 tháng Năm 1871. Tính chân thực, tính lịch sử của tập sách đạt đến mức cao. Bên cạnh hình tượng rất sống của những nhân vật nổi tiếng đương thời có thật, như những tay chủ báo tư sản Giracđanh Vilơmexăng, những chính khách tư sản Juyn Ximông, Juyn Fery, Gămbetta... là một loại chân dung gân guốc, rực rỡ của những người cách mạng, của một số lãnh tụ Công xã Pari mà Juyn Valex vẽ nên bằng những nét bút trân trọng, nồng nàn. Trước hết là chân dung người lãnh tụ cách mạng già Blăngki, “con ma của khởi nghĩa, nhà hùng biện đeo găng đen”, “kẻ kích động những biển người”, “nhà toán học lạnh lùng của nổi loạn và trả thù”, bằng một giọng nói bình tĩnh, buông ra những lời như chém xuống, rạch một đường sáng trong đầu óc người dân ngoại ô, và một vệt đỏ trong da thịt bọn tư sản”. Và đây là một số đại biểu Công xã: Briôxnơ, “một Jêxu lác mắt”, đã từng “bị kết án năm năm vì làm hội kín, được thả ra trước vài tháng vì thổ ra huyết, về Pari không một xu dính túi, phổi không lành được, nhưng linh hồn của Cách mạng đóng chốt vào thể xác”... “mỗi buổi tối sống ba giờ hơn kẻ khác sống một năm - bằng tài hùng biện, mở rộng hiện tại; bằng ước mơ lấn tới tương lai; con người bệnh tật đó ném ra lời lẽ lành mạnh cho một binh đoàn công nhân có đôi vai lực sĩ và lồng ngực bằng sắt, họ hết sức xúc động thấy người vô sản không phổi đó tự giết mình để bênh vực quyền lợi của họ”. Lơfrăngxe, cựu giáo viên, đảng viên xã hội, “với bộ mặt vàng vì tư lự, khoét đôi mắt sâu và hiền”“đôi khi, bắt đầu nói tưởng như giảng bài và cầm thước kẻ trong tay; nhưng tới lúc đi vào ruột vấn đề thì quên mất giọng ông giáo và đột nhiên trở thành một kẻ rèn luyện những tư tưởng bốc khói dưới những nhát búa quai thẳng cánh, nện trúng mà sâu; đó là nhà hùng biện ghê gớm nhất, bởi vì có mức độ, có lý lẽ... và mật đắng đầy gan”. Và đây người ủy viên trung ương Công xã phụ trách Bộ Giáo dục, Ruiê, thân hình to lớn, cường tráng, làm nghề đóng giày và làm cách mạng, viết còn sai chính tả, “nhưng người thợ giày ấy còn thông thuộc khoa lịch sử và khoa kinh tế xã hội hơn tất cả những kẻ có bằng cấp đã giữ Bộ đó trước anh gộp lại”... trong những mảnh giấy vò nhàu và nhọ bẩn của anh có cả một chương trình giáo dục về mặt đúng đắn đánh đổ cả mọi giáo điều của những Viện hàn lâm và những Đại hội đồng”. *** Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Người Khởi Nghĩa của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mây Mùa Thu
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy.... viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm. Các tác phẩm chính: Đêm thánh vô cùng Hoa thiên lý Ðiệu ru nước mắt Luật hè phố Thằng Vũ Dấu chân sỏi đá Dzũng ÐaKao Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang Bồn Lừa Ảo vọng tuổi trẻ Gấu rừng Cỏ non Ngày xưa còn bé Nặng nợ giang hồ Mùa thu Con suối ở Miền Ðông Danh ná truyện tuổi nhỏ Giặc cờ đỏ truyện tuổi nhỏ Nhóc tì phản động truyện tuổi nhỏ Hồn say phấn lạ tiểu thuyết trường thiên      Cầu Mơ Ánh lửa đêm tù Ánh mắt trông theo Thằng Côn Trường cũ Tuổi 13 Nhà tôi Mơ thành người Quang Trung Ðàn bà Chương Còm Mặt Trời nhỏ Lứa tuổi thích ô mai Giặc ôkê Đồi Fanta truyện La colline de Fanta dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Một người Nga ở Sài Gòn truyện (1986) Nam Á, Paris Un Russe à Saïgon dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Un prisonnier Américan au Viêtnam truyện nxb Belfond Paris Hôn em kỷ niệm nhạc (1986) Nam Á, Paris Ru tình ngất ngây nhạc      Thơ tù thơ (1984) Nam Á, Paris Em, Sài Gòn và Paris thơ Một người mang tên Trần Văn Bá truyện (1985) Nam Á, Paris Sỏi đá ngậm ngùi truyện (1985) Nam Á, Paris Bầy sư tử lãng mạn truyện (1985) Nam Á, Paris Quán trọ trước cổng thiên đường truyện (1987) Nam Á, Paris Thơ của đàn bà truyện Nhánh cỏ mộng mơ truyện Động lòng chữ nghĩa đoản văn Nhà tù hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Trại tập trung hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Sài Gòn ngày dài nhất hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Nhìn lại những bến bờ hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ *** Mùa mưa dứt, gánh Đồng Ấu đã rời Tân Châu. Qua một quãng đường và một con đò, chúng tôi tới tỉnh lỵ Châu Đốc. Gánh hát không gặp may ở đây. Bữa tạnh bữa mưa. Mới diễn được ba đêm thì đại ban từ Sàigòn xuống, gánh Đồng Ấu cảm thấy lép vế, thu dọn đồ nghề ra đi. Lại dọc đường gió bụi, lui về quận Cái Dầu. Rồi về Long Xuyên, Thốt Nốt, Ô Môn... Càng đi xa, đi nhiều, gánh Đồng Ấu càng nghèo nàn, rách rưới. Tôi thương nghệ sĩ Năm Chiêu, ông Nghị bội phần. Tình thương, đôi khi, đã làm mờ tình tôi yêu Liên Hương. Hai con người đã từng làm vua, làm hiệp sĩ trên sân khấu Bắc, Nam, từng làm đau nhói biết bao con tim phụ nữ ở bốn phương trời; hai con người từng tạo ra vua, hoàng hậu, hiệp sĩ, từng xây dựng những vương quốc hạnh phúc ấm no trong trí tưởng tượng. Và trí tưởng tượng đó giãi bày xuống giấy trắng thành những vở tuồng. Giờ đây, túng đói, cực khổ vì chuyện tạo ra vua, tạo ra hiệp sĩ, tạo ra ý nghĩa đẹp đẽ cho cuộc đời. Người nghệ sĩ chỉ đủ khả năng dựng lớp lang cho nhân loại nhưng đã bất lực khi muốn dựng một đoạn kết đẹp rực rỡ cho chính bản thân mình. Số kiếp người nghệ sĩ Việt Nam, dường như, đều bị ràng buộc bằng đói rách, bênh hoạn. Ít có người chết bình thường, chết sau khi đã bằng lòng những gì mình làm xong. Những người viết văn làm thơ, soạn kịch, chết đi còn để lại tí tên tuổi còm. Chứ nghệ sĩ Năm Chiêu, ông Nghị chết đi sẽ để lại cái gì? Ai biết ông Tư Chơi, ai biết ông Huỳnh Thái bây giờ ra sao? Cùng lắm, người ta nói "Họ đã chết rồi, họ đã giải nghệ rồi". Sau này, người ta ngâm thơ Đinh Hùng, người ta nức nở khen. Nhưng mấy ai chịu nhớ, khi ông nằm yên dưới mộ, bạn bè thân thích của Đinh Hùng phải góp tiền mua cho vợ con Đinh Hùng căn nhà bé nhỏ tiều tụy. Tôi bắt đầu sợ cái tương lai "nằm gánh". Tôi phải thú thật rằng tôi không dám liều lĩnh, không dám bỏ cái gì đang có để kiếm cái gì sắp có. Vì thế, tôi thiếu đam mê không si tình mãnh liệt. Tôi dễ chán nản. Việc gì khó khăn, tôi lẩn tránh, Tôi bằng lòng với trái cây vừa tầm tay tôi, dù trái cây đó èo ọt, xanh chua. Tôi lười biếng tỏ tình vì nhút nhát. Bị thất vọng, tôi quên ngay. Và bị hắt hủi, tôi không dám nhìn mặt người hắt hủi tôi. Đau khổ cho một người con gái nào trót yêu tôi. Ví như nàng hẹn hò thì chỉ cần một cơn mưa nhỏ, tôi cũng sẵn sàng bắt nàng chờ đợi. Tôi không đến. Mời các bạn đón đọc Mây Mùa Thu của tác giả Duyên Anh.
Mai Sẽ Là Một Ngày Mới
Một cô gái sinh ra trong nhung lụa với tương lai rộng mở đầy hứa hẹn. Ai quen biết cô đều nói cô có một cuộc sống đẹp như tranh vẽ, mọi thứ đều đã được trải thảm, chỉ việc nhẹ nhàng bước đi. Có ai ngờ bức tranh đó có ngày lại bị một vài đường nguệch ẩu lên, phá hỏng tất cả. Con đường vốn bằng phẳng bỗng trở thành ngõ cụt. Cô gái đang quen sống trong sự sung túc thoải mái sẽ phải làm gì? Trải qua nhiều chuyện, điều dẫn dắt cô qua khó khăn, tăm tối lại là một suy nghĩ tưởng chừng rất đơn giản, chính là câu nói nổi tiếng năm nào của Scarlett O’ Hara “Sau tất cả, mai sẽ là một ngày mới”. *** “Where there is love, life begins Over and over again” (I want to spend my lifetime loving you – Marc Anthony ft. Tina Arena) Phong là một thằng trai hư đúng nghĩa. Đó là ấn tượng ban đầu và đã kéo dài suốt một thời gian của tôi đối với nó. Xin đừng hiểu lầm, tôi không ghét Phong, thậm chí là ngược lại. Thành thật thì chơi với một thằng trai hư cực kỳ thú vị, với điều kiện tiên quyết là bạn chỉ “chơi” chứ không phải “yêu” hay “thích” Trái ngược với vẻ thâm trầm, có phần cục mịch của Long, Phong rất hoạt bát, sôi nổi. Nó nói nhiều, luôn là tâm điểm của mọi cuộc vui. Với khuôn mặt quá mức đẹp trai, vóc người cao ráo, gia thế tốt và lối nói chuyện có duyên, khỏi nói cũng biết đám con gái bám nó đến thế nào. Tôi may mắn không nằm trong số ấy bởi vì một lẽ nào đó, tôi chỉ thích kiểu ít nói đàn ông của Long. Tôi thực sự không hiểu có gì hay ho khi yêu một người không có chút an toàn nào như vậy. Và đặc biệt, cái cách cư xử của Phong với đám bạn gái của nó càng làm tôi kinh ngạc hơn bởi mức độ thô lỗ đến phản cảm. - Anh đừng hút thuốc nữa, hại sức khỏe lắm. – Cô bạn gái cực kỳ xinh đẹp ngồi bên cạnh thò tay rút điếu thuốc trên môi Phong dụi đi. - Mặc anh. – Nó gần như không chú ý tới thái độ kia, rút điếu thuốc mới ra. - Đừng hút nữa mà. – Cô nàng kiên nhẫn giật điếu thuốc thứ hai khỏi tay nó. Mời các bạn đón đọc Mai Sẽ Là Một Ngày Mới của tác giả Sherry.
Sách Ngược Đời Xuôi
Một nơi tử tế thì đâu thể thiếu tiệm sách được chứ, Izzie! Bởi thế mà ngoài khơi xa, ở nơi nắng vàng lấp lóa trên sóng bạc đảo xanh, nơi dân cư thưa thớt lại không thích học hành, vẫn có một tiệm sách nho nhỏ màu đỏ tía. Tiệm này không bán truyện hậu hiện đại, huyền huyễn, viễn tưởng, hậu tận thế; không bán hồi ký, trinh thám, thiếu nhi, truyện tranh, sách dịch, teen và hồi teen; ghét truyện nhiều phông chữ và minh họa nhiều hình, loại thẳng cánh các cuốn có số trang trên bốn trăm hay dưới trăm rưỡi. Gã chủ thì khó đăm đăm và xa lánh nhân tình thế thái… Mặc kệ, tiệm sách vẫn tồn tại. Để một ngày nọ, có người vào tiệm cuỗm đi món đồ quý giá nhất, Rồi một ngày nọ, có người giả khách vào xem sách và lén lút vứt con lại. Từ ấy có một em bé lớn lên giữa mùi giấy mới; có một cô gái muộn chồng với hàm răng to oành, “mông cũng chẳng khá hơn, 31 mà uống rượu như mới 25, đã ăn mày lại quyết đòi xôi gấc”; có một người đàn ông thức giấc nhờ mùa xuân thứ hai của cuộc đời… Câu chuyện tình cảm và tinh quái, pha phối chút bí hiểm, xoáy tròn như một cơn lốc qua các giá sách, người đọc sách lẫn người không đọc. Từ chối mọi kịch tính hay lắt léo. Chỉ rõ khác biệt giữa sách và đời, lại không thể phủ nhận ảnh hưởng đầy êm ái của cả hai bên đối với nhau. Sách ngược đời xuôi (The Storied Life of A.J. Fikry) có mặt bốn tháng liền trên New York Times Best Seller List, trụ hạng 1 lâu dài trên National Indie Bestseller List và đạt thành tích ngoạn mục ở rất nhiều quốc gia khác. *** Đôi khi không thích một cuốn sách chỉ là do ta đọc nó chưa đúng thời điểm mà thôi. A.J. Firky sở hữu một tiệm sách duy nhất ở một hòn đảo xa xôi phải đi mất hai chuyền phà mới tới nơi. Anh có cả một danh sách dài những thể loại bản thân ghét và sẽ không bao giờ bán ở tiệm của mình. Không tiểu thuyết văn học về những cuộc diệt chủng Do thái hay các bi kịch của nhân loại. Không "thể loại lai tạp" như tiểu thuyết văn học trinh thám hay viễn tưởng văn học. Không sách thiếu nhi, đặc biệt là về lũ trẻ mồ côi. Không tiểu thuyết đạo nhái, sách tranh, sách ảnh, hồi ký của mất tay nổi tiếng. Hiếm khi nhập các cuốn sách đầu tay hay những cuốn lãng mạn, hài hước dành cho các thiếu nữ mộng mơ, trừ khi tiệm của anh được đặt hàng trước. Anh cũng bỏ qua những series được hứa hẹn, nếu như chúng không nằm trong danh sách bán chạy của New York Times. A.J. không thích sách dày quá 400 trang nhưng cũng không được mỏng hơn 150 trang. Với anh, sách nào cũng được, miễn là không phải đống trên.   A.J. cũng chẳng phải là tay bán sách thân thiện gì. Anh thẳng tay đuổi mấy đứa nhóc vào bôi bẩn những cuốn sách trưng bày. Anh khó chịu với những phụ nữ trung niên lượn lờ trong tiệm mà chẳng mua gì. Anh cáu gắt với nhân viên của nhà xuất bản đến chào hàng sách mới. Thế nên tiệm sách Hải Đảo dần dần thua lỗ một cách trầm trọng. Nhưng cuộc đời anh bỗng chốc được rẽ ngoặt sang một trang mới khi có hai sự kiện lớn xảy đến tiệm sách Hải Đảo. Một là cuốn sách giá trị nhất trong bộ sưu tập của A.J. biến mất không để lại dấu vết, và hai là người ta để “quên” một con nhóc 2 tuổi trong tiệm của anh. Sách ngược đời xuôi không chỉ kể lại câu chuyện cuộc đời của A.J. Fikry mà còn khắc họa tình cha con sâu đậm giữa một gã bán sách khó tính và một cô nhóc có gu đọc sách dở tệ. Mỗi chương sách là tên của một cuốn sách mà A.J. vô cùng yêu thích, dù số sách này cũng chỉ hơn số đầu ngón tay một chút, kèm theo đó là một bức thư mà ông bố ấy vụng về gửi cho con gái Maya. Đọc sách, độc giả sẽ cười nghiêng ngả rồi lại rơm rớm nước mắt trước cuộc đời đầy những sự ngược đến với A.J. chứ chẳng xuôi gì. Bước sang tuổi 40, anh không chỉ trải qua nỗi đau mất vợ, rồi lại đến chứng vắng ý thức khiến anh đơ như bức tượng gỗ trong vài phút, mà còn là cơn nghiện rượu dai dẳng và nỗi cô đơn cùng cực. Nhưng sự xuất hiện của Maya đã đem lại sức sống mới cho anh, cũng giống như tiệm sách Hải Đảo mang đến niềm vui cho đảo Alice. A.J. quyết định nâng cấp tiệm sách cũng như thay đổi chính mình, vì người ta vẫn nói: thay đổi tất cả thì không thể tệ hơn giữ nguyên mọi thứ như ban đầu. Và anh tin vào điều đó. Sách ngược đời xuôi chắc chắn không phải là một câu chuyện cổ tích, vì vốn trong cuốn sách đâu có kẻ tốt hay người xấu. Nhưng mỗi chúng ta đều có quyền tin vào cái kết kỳ diệu dành cho mỗi nhân vật và cả các cửa hàng sách. Ở một nơi tử tế thì đâu thể thiếu tiệm sách được cơ chứ! *** Gabrielle Zevin là nữ tiểu thuyết gia trẻ người Mỹ, đến nay đã là tác giả của chín cuốn sách được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Sách ngược đời xuôi là một trong những tác phẩm nổi tiếng của cô, đã từng đứng trong danh sách bán chạy của tờ New York Times suốt bốn tháng liền. Hiện Zevin đang tập trung vào sự nghiệp biên kịch trước khi bắt tay vào cuốn sách thứ mười của cô. Mời các bạn đón đọc Sách Ngược Đời Xuôi của tác giả Gabrielle Zevin.
Chuyện Tình Tự Kể
Lyudmila Zakharovna Uvarova* xuất hiện trên văn đàn Xô-viết vào giữa những năm 60 bằng những truyện ngắn mang sắc thái riêng – trữ tình, tinh tế và sâu sắc, đã thu hút ngay cảm tình của đông đảo bạn đọc, nhất là giới trẻ. Từ đó tới nay, L. Uvarova đã cho ra đời hơn mười cuốn sách. Đáng chú ý hơn cả là các tập truyện ngắn và truyện vừa: Vừa giữa trưa đã hoàng hôn, Mới đây hoặc trước kia, Sẽ có âm nhạc, Chuyện tình tự kể… Qua những cảnh đời thường, những chuyện xảy ra hàng ngày, ngòi bút của L. Uvarova đã tái tạo được những tính cách đặc sắc, những con người có đời sống nội tâm phong phú và luôn khao khát tự vượt lên chính mình để vươn tới một thái độ sống trung thực, nhân hậu… Nữ văn sĩ không hề “khua chuông gõ mõ” về các phẩm chất nhân vật của mình. Văn của chị không trực tiếp miêu tả thế giới bên trong con người nhưng tất cả cái vẻ bề ngoài của mọi sự vật được khắc họa một cách hết sức tinh tế ấy lại toát ra những bài học đạo đức rất sâu sắc. Bạn đọc Việt Nam đã được biết tới tài năng của L. Uvarova lần đầu tiên qua truyện ngắn Chú gà trống trên ban công (trong tập truyện Tiếng nhạc trên sân ga – Nhà xuất bản Văn học 1973), sau đó là các truyện ngắn: Chòm sao Song tử xanh, Hồi ức triệu năm qua…, Bé Olya của tôi và truyện vừa Vừa giữa trưa đã hoàng hôn (trong tập truyện Nửa đời nhìn lại – Nhà xuất bản Tác phẩm mới 1982). CHUYỆN TÌNH TỰ KỂ in trong tập truyện cùng tên (Nhà xuất bản Nước Nga Xô-viết 1984) đã được đông đảo bạn đọc Xô-viết đón nhận nồng nhiệt và góp phần đưa tác giả của nó lên hàng những cây bút văn xuôi được mến mộ nhất hiện nay ở đất nước Xô-viết. NHÀ XUẤT BẢN LONG AN *** Đây là lời giới thiệu của nhà xuất bản ở thời điểm tác phẩm được in (1986). Lyudmila Uvarova là nhà văn và nhà viết kịch Liên Xô, sinh 21 tháng 11 năm 1918 và mất 24 tháng 8 năm 1990 đều tại Moskva. *** Irina Tôi không hề có ảo tưởng. Tôi biết tại sao anh ấy muốn lấy tôi làm vợ. Anh đã yêu một người phụ nữ khác, nhưng đột nhiên cô ta đã bỏ anh, rồi vì buồn, vì uất ức, vì nỗi giận hờn đắng cay của mình, và cũng có thể do muốn vươn tới một sự tự khẳng định nào đó, anh bỗng ngỏ lời hỏi tôi làm vợ. Chúng tôi quen biết nhau đã nhiều năm, đã sống hàng xóm láng giềng với nhau trên cùng một đường phố. Anh lớn hơn tôi ba tuổi rưỡi, thuở nào khi tôi học lớp bốn chẳng hạn thì anh học lớp bảy, cái đó đã tạo nên một khoảng cách lớn giữa chúng tôi. Nhưng về sau, khi tôi tròn hai mươi ba tuổi, còn anh – hai mươi sáu, thì chúng tôi đã bằng vai với nhau. Hơn nữa, người ta vẫn bảo rằng phụ nữ bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn về mặt sinh học. Thực ra tôi không hề thấy mình trưởng thành hơn anh. Ngược lại, tôi luôn cảm thấy anh trưởng thành hơn, thông minh hơn và lớn lao hơn tôi. Có lẽ trên thực tế cũng là như vậy. Chúng tôi tốt nghiệp đại học vào thời gian khác nhau – anh ở đại học xây dựng, còn tôi – đại học kinh tế kế hoạch. Tôi mới qua tuổi hai mươi ba, làm việc ở một cơ quan thiết kế với mức lương tương đối khá, còn anh là kỹ sư trưởng của một công ty xây dựng. Một buổi sáng nọ, vào thứ bảy, anh bỗng đến nhà tôi. Chúng tôi đã lâu không gặp nhau, thế mà bây giờ bỗng nhiên anh lại đến. Ông chú Oleg Georgievich của tôi hỏi: - Tôi phải nói với cháu nó thế nào, ai đến thăm nó? Anh đã trả lời: - Xin ông nói giùm là có Pikaskin đến. Ông chú có thói quen không hề ngạc nhiên trước chuyện gì bao giờ, hỏi lại một cách lịch sự: - Xin lỗi, thế nào? Pikaskin ư? Tôi nghe có đúng không? Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Tự Kể của tác giả Lyudmila Uvarova.