Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

VIỆT HÁN VĂN KHẢO (1938) - PHAN KẾ BÍNH

Phan Kế Bính (1875 - 1921) là một nhà nho học tinh thâm và cũng là nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Cuốn  Việt Hán Văn Khảo (tiếng Pháp: Études Sur La Littérature Sino-Annamite) của ông được in lần đầu tiên vào năm 1918.

Phan Kế Bính (1875 - 1921) là một nhà nho học tinh thâm và cũng là nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Cuốn 

 (tiếng Pháp: Études Sur La Littérature Sino-Annamite) của ông được in lần đầu tiên vào năm 1918.

Sau khi Phan Kế Bính mất 17 năm, vào năm 1938, nhà xuất bản Nam Ký đã cho in lại tái bản. Cuốn sách được xem như người hướng đạo và kim chỉ nam cho những ai muốn nhập tịch làng văn.  "Nước Việt-Nam ta, xưa nay chẳng thiếu gì danh văn kiệt tác, tuy lý-tưởng so với Âu văn cũng khi hẹp hòi thực, song những ý tứ cao kỳ, những lời nói chính đáng, những vẻ châu ngọc gấm thêu, cũng đủ lưu truyền làm gương soi chung cho một nước thì cũng có thể tự phụ được là một nước có văn-chương. Văn-chương của ta phần nhiều lại có gốc ở nước Tầu. Nay ta muốn biết văn-chương của ta thì trước hết lại nên tham khảo đến văn-chương của Tầu nữa. Mà muốn biết cho đến nơi đến chốn, cho tường tận thủy chung, thì lại phải xét xem căn-nguyên văn-chương ở đâu mà ra, thể cách văn chương thế nào, lý thú làm sao, kết quả được những gì, trình độ mỗi thời biến đổi làm sao, có xét kỹ như thế thì mới biết được hết nguồn gốc văn-chương. Ký-giả vì lẽ ấy ra tập Việt-Hán văn khảo này, chủ ý cốt nghị luận kê cứu về mục văn-chương của ta và của Tầu, trước là để lưu truyền cái tinh-thần, cái lề lối văn-chương của cổ nhân, sau là để giúp thêm một chút vào việc khảo cứu trong mục văn-chương cho hậu nhân vậy". (Trích phần Tự Ngôn - Việt Hán văn khảo)

Sau khi Phan Kế Bính mất 17 năm, vào năm 1938, nhà xuất bản Nam Ký đã cho in lại tái bản. Cuốn sách được xem như người hướng đạo và kim chỉ nam cho những ai muốn nhập tịch làng văn. 

"Nước Việt-Nam ta, xưa nay chẳng thiếu gì danh văn kiệt tác, tuy lý-tưởng so với Âu văn cũng khi hẹp hòi thực, song những ý tứ cao kỳ, những lời nói chính đáng, những vẻ châu ngọc gấm thêu, cũng đủ lưu truyền làm gương soi chung cho một nước thì cũng có thể tự phụ được là một nước có văn-chương. Văn-chương của ta phần nhiều lại có gốc ở nước Tầu. Nay ta muốn biết văn-chương của ta thì trước hết lại nên tham khảo đến văn-chương của Tầu nữa. Mà muốn biết cho đến nơi đến chốn, cho tường tận thủy chung, thì lại phải xét xem căn-nguyên văn-chương ở đâu mà ra, thể cách văn chương thế nào, lý thú làm sao, kết quả được những gì, trình độ mỗi thời biến đổi làm sao, có xét kỹ như thế thì mới biết được hết nguồn gốc văn-chương. Ký-giả vì lẽ ấy ra tập Việt-Hán văn khảo này, chủ ý cốt nghị luận kê cứu về mục văn-chương của ta và của Tầu, trước là để lưu truyền cái tinh-thần, cái lề lối văn-chương của cổ nhân, sau là để giúp thêm một chút vào việc khảo cứu trong mục văn-chương cho hậu nhân vậy". (Trích phần Tự Ngôn - Việt Hán văn khảo)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

HÀ THÀNH THẤT THỦ VÀ HOÀNG DIỆU (VĂN CỔ VÔ DANH) - HOÀNG XUÂN HÃN chú dịch
Trong tập sách này, chúng tôi góp những bài văn kể chuyện hoặc vịnh thời-cuộc và nhân-vật ở Hà-nội trong hai vụ người Pháp đánh Hà-nội vào năm 1873 và 1882: Trong tập sách này, chúng tôi góp những bài văn kể chuyện hoặc vịnh thời-cuộc và nhân-vật ở Hà-nội trong hai vụ người Pháp đánh Hà-nội vào năm 1873 và 1882: Bài đầu là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CA, kể chuyện Hà-nội thất-thủ hai lần, và tình-cảnh nhân-dân ở Bắc sau cuộc thứ hai. Thể văn là song-thất lục-bát. Bài thứ hai là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CHÍ CÔNG QUÁ CA, kể chuyện thất-thủ năm 1882, để ca-ngợi tiết-tháo của quan tổng-đốc Hoàng-Diệu, và chế-diễu các quan khác. Thường gọi bài này là HÀ-THÀNH CHÍNH-KHÍ-CA, hay gọi tắt là CHÍNH-KHÍ-CA. Thể văn là lục-bát. Đoạn thứ ba là ĐIẾU HOÀNG-DIỆU, gồm ba bài tự-sự và khen quan tổng-đốc, làm bằng lối văn ca-khúc, bốn bài thơ chữ Hán và hai đôi đối-liễn của quan tuần-phủ Hà-nội Hoàng-Hữu-Xứng và của quan khâm sai tổng-đốc Hà-nội Trần-Đình-Túc. Chúng tôi có dịch các bài thơ và câu đối ấy. Đoạn thứ tư là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ-ÁN gồm chín bài thơ thất-ngôn bát-cú, luận công tội của các quan tỉnh Hà-nội. Đề-mục cũng chúng tôi đặt. Cuối cùng sẽ phụ lục những bài dịch Hán-văn hay Pháp-văn có liên-can đến việc Hà-nội năm Nhâm ngọ. Những bài này đều là những chứng trực-tiếp cho cuộc xử án các nhân-vật đương-thời. Giá-trị các tài-liệu ấy về lịch-sử rất quí. Mời các bạn đón đọc  Hà Thành Thất Thủ Ca Và Hoàng Diệu của tác giả  Vô Danh. (Hoàng Xuân Hãn chú dịch)Bài đầu là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CA, kể chuyện Hà-nội thất-thủ hai lần, và tình-cảnh nhân-dân ở Bắc sau cuộc thứ hai. Thể văn là song-thất lục-bát.Bài thứ hai là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ CHÍ CÔNG QUÁ CA, kể chuyện thất-thủ năm 1882, để ca-ngợi tiết-tháo của quan tổng-đốc Hoàng-Diệu, và chế-diễu các quan khác. Thường gọi bài này là HÀ-THÀNH CHÍNH-KHÍ-CA, hay gọi tắt là CHÍNH-KHÍ-CA. Thể văn là lục-bát.Đoạn thứ ba là ĐIẾU HOÀNG-DIỆU, gồm ba bài tự-sự và khen quan tổng-đốc, làm bằng lối văn ca-khúc, bốn bài thơ chữ Hán và hai đôi đối-liễn của quan tuần-phủ Hà-nội Hoàng-Hữu-Xứng và của quan khâm sai tổng-đốc Hà-nội Trần-Đình-Túc.Chúng tôi có dịch các bài thơ và câu đối ấy. Đoạn thứ tư là HÀ-THÀNH THẤT-THỦ-ÁN gồm chín bài thơ thất-ngôn bát-cú, luận công tội của các quan tỉnh Hà-nội. Đề-mục cũng chúng tôi đặt.Cuối cùng sẽ phụ lục những bài dịch Hán-văn hay Pháp-văn có liên-can đến việc Hà-nội năm Nhâm ngọ. Những bài này đều là những chứng trực-tiếp cho cuộc xử án các nhân-vật đương-thời. Giá-trị các tài-liệu ấy về lịch-sử rất quí.Mời các bạn đón đọc của tác giả
TUỒNG LỤC VÂN TIÊN - (1915) HUỲNH VĂN NGÀ (LONG ẨN)
Ý SÁCHChư vị khán quan,Tôi học hành không bao nhiêu mà thông chữ nghĩa. Song thấy thơ Vân-Tiên hay lắm, nên dịch ra một bổn tuồng cho chư-tôn nhàn lãm.Tôi dùng tiếng thường mọi người đều hiểu đặng (ấy là tùy theo sức mọn của tôi) chớ ít có lời cao kỳ và câu chữ mắc mớ.Ước được Quân-tử Lục-châu chỉ biểu thêm, tôi lấy làm may mắn lắm.Huỳnh Văn Ngà đốn thủ.
CUNG OÁN NGÂM KHÚC (1905) - NGÔ ĐÊ MÂN nối dài thêm...
Khúc Cung-oán-ngâm này là của ông Ôn-như-hầu làm ra, đâu là người cuối đời nhà Lê. Ý khổ ông ấy là người thông-minh chí-thức, chước thời vua yêu-dùng, sau thời vua hay nghe người này người khác, rồi chán, bỏ ông ấy. Khúc Cung-oán-ngâm này là của ông Ôn-như-hầu làm ra, đâu là người cuối đời nhà Lê. Ý khổ ông ấy là người thông-minh chí-thức, chước thời vua yêu-dùng, sau thời vua hay nghe người này người khác, rồi chán, bỏ ông ấy.Ông ấy nhân xem thấy đời xưa bên Tầu có nàng Cung-phi có tài-đức có nhan-sắc mà cũng lỗi thời như mình, mới mượn ý ấy làm ra khúc ngâm này. Nhời tuy ai-oán, mà ý thời cao, học thời rộng, dùng nhiều sự-tích điển-cố, thật là hay déo-dắt, nên xem.Này tựa. Này tựa.Ngô Đê Mân Ngô Đê Mân
CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN - VÕ TẤN HƯNG
Xuất bản quyển Cổ Nhạc Tầm Nguyên này, tôi không có cao vọng phổ hết lại thinh âm và nhịp điệu của các bài bản nhạc cổ. Thực vậy theo nhạc lý Trung Hoa là nền tảng của Cổ nhạc Việt Nam, thì từ thời thái cổ đã có nhạc, căn cứ vào những tiếng động của Thiên nhiên như: những tiếng động lực, sấm sét, bão bùng, giông tố vv.... thảy đều là nhạc với tánh cách bạo... Xuất bản quyển Cổ Nhạc Tầm Nguyên này, tôi không có cao vọng phổ hết lại thinh âm và nhịp điệu của các bài bản nhạc cổ. Thực vậy theo nhạc lý Trung Hoa là nền tảng của Cổ nhạc Việt Nam, thì từ thời thái cổ đã có nhạc, căn cứ vào những tiếng động của Thiên nhiên như: những tiếng động lực, sấm sét, bão bùng, giông tố vv.... thảy đều là nhạc với tánh cách bạo... Nhưng vì tâm lý của Tiền Nhân ở bàn cổ sơ khai, đã biết yêu chuộng thiện chí, nên chỉ để tâm ghi chép những âm thanh ôn hòa, dịu nhàng, hầu lưu mãi hậu thế một lối nhạc chơn thiện và chơn nhã, mà những bậc kỳ tài ngày nay có bổn phận bảo tồn và lưu truyền hậu thế...Không thể tự sánh mình là xuất chúng, nhưng nhờ hơn 30 năm lăn lộn với nghề, trải qua rất nhiều sân khấu Miền Nam, nhờ kinh nghiệm trong nghề cũng như được trau dồi những điều đã học được, và thêm những điều tai nghe, mắt thấy; ghép thành quyển Cổ Nhạc Tầm Nguyên nầy, với một ý niệm giúp quý bạn yêu nhạc CỔ, dù chưa sử dụng được nguyệt cầm (đờn kìm), cũng có thể tự rèn luyện để trở thành một tay đờn kìm có quy mô căn bản. Không thể tự sánh mình là xuất chúng, nhưng nhờ hơn 30 năm lăn lộn với nghề, trải qua rất nhiều sân khấu Miền Nam, nhờ kinh nghiệm trong nghề cũng như được trau dồi những điều đã học được, và thêm những điều tai nghe, mắt thấy; ghép thành quyển Cổ Nhạc Tầm Nguyên nầy, với một ý niệm giúp quý bạn yêu nhạc CỔ, dù chưa sử dụng được nguyệt cầm (đờn kìm), cũng có thể tự rèn luyện để trở thành một tay đờn kìm có quy mô căn bản.Vẫn biết, một con én không dệt nỗi mùa xuân, cũng  như quyền CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN không sao làm sáng  tỏ nền cổ nhạc VIỆT-NAM gần như bị lấn áp và lu mờ vì  trào lưu cải tiến Nhạc nghệ. Tuy nhiên với thiện chí phục vụ  nhạc nghệ, tôi không ngần ngại cho ra mắt quí bạn mộ điệu b ốn phương, quyển CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN. Vẫn biết, một con én không dệt nỗi mùa xuân, cũng như quyền CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN không sao làm sáng tỏ nền cổ nhạc VIỆT-NAM gần như bị lấn áp và lu mờ vì trào lưu cải tiến Nhạc nghệ. Tuy nhiên với thiện chí phục vụ nhạc nghệ, tôi không ngần ngại cho ra mắt quí bạn mộ điệu bốn phương, quyển CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN.Điều mong các tha thiết của tôi, là sẽ được lãnh  hội sự chỉ giáo của những bậc đàn anh, để bổ khuyết quyển  CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN khi nó được hân hạnh tái bản. Điều mong các tha thiết của tôi, là sẽ được lãnh hội sự chỉ giáo của những bậc đàn anh, để bổ khuyết quyển CỔ NHẠC TẦM NGUYÊN khi nó được hân hạnh tái bản.Nhạc sĩ nguyệt cầmVÕ TẤN HƯNGSài Gòn, ngày 20/9/1958