Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gọi Tên Kẻ Chết

Một vụ án mạng xảy ra – nhưng vì nạn nhân là kẻ vừa mãn hạn tù, không một ai thực sự quan tâm, cho dù Thanh tra John Rebus và Hạ sĩ Siobhan Clarke đangcảm thấy còn điều gì gờn gợn…   Bấy giờ các nhà lãnh đạo thế giới đang đổ về Scotland tham dự hội nghị quốc tế G8. Giới cảnh sát đang bận rộn cho sự kiện, ngoại trừ John Rebus. Ông là người duy nhất đang trực trụ sở cảnh sát hoang vắng khi một cuộc gọi khẩn đổ chuông. Một nghị sĩ trẻ nào đó đã ngã tử vong từ trên tường cao lâu đài Edinburgh. Tai nạn, tự sát, hay là điều gì khác đáng quan tâm?Liệu có liên quan gì đến bằng chứng đáng sợ tìm thấy ở hiện trường nhiều vụ án gần đây? Trong khi phía cơ quan chính phủ và lực lượng đặc vụ chỉ nỗ lực ém nhẹm mọi chuyệnhòng đảm bảo hội nghị tầm cỡ quốc tế diễn ra êm đẹp, Rebus biết ông có không quá bẩy mươi hai giờ để tìm ra câu trả lời sinh tử…   “Một Rankin kinh điển, và nếu đã từng yêu mến một Rebus kiên định, bạn sẽ say đắm cuốn tiểu thuyết này. Một tội ác đầy tinh vi, khiến người đọc không ngừng lật trang.” - Independent   “Kết hợp một tác phẩm trinh thám hiện đại đầy lôi cuốn khiến phải lật trang liên tục vớimột tiểu thuyết chính trịđầy phức tạp luân lý.” - Irish Times *** IAN RANKIN sinh tại Fife năm 1960, Ian Rankin tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1982, sau đó dành ba năm viết tiểu thuyết thay vì tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương Scotland. Trước khi thành công trong nghiệp viết, ông đã từng trải nghiệm nhiều công việc như thu hoạch nho, chăn lợn, thu thuế, nhà nghiên cứu về thức uống chứa cồn, ký giả chuyên viết về hệ thống âm thanh chất lượng cao và cả công việc của một nhạc sĩ chơi nhạc punk. Series tiểu thuyết Thanh tra Rebus nổi tiếng của ông cho đến nay đã được dịch ra trên hai mươi hai thứ tiếng, nhiều tiểu thuyết trong series là sách bán chạy xuyên lục địa. Ian Rankin là thành viên ủy ban giải thưởng Hawthorden, tác gia đoạt giải thưởng Chandler Fullbirght Award cao quý, cùng với bốn giải Dao găm do Hội Nhà văn Trinh thám (CWA) trao tặng. Cho những cống hiến đối với nền văn học, ông còn được trao Huân chương Anh quốc. *** Gọi tên kẻ chết “Chúng ta phải quan tâm đến chính trị, vì chính thứ đó đẩy quay bánh xe cuộc sống của chúng ta.” Chính câu nói này đã khiến tôi có thêm động lực để nhảy vào cái hố khá sâu của tác phẩm này. Câu chuyện kéo dài gần 600 trang, theo như mọi cuốn sách ngôn tình khác, nó có thể kể hết câu chuyện tình yêu đau thương mấy đời mấy kiếp của các nhân vật, nhưng trong “ Gọi tên kẻ chết”, đó là câu chuyện vỏn vẹn trong vòng chín ngày : 1/7/205 – 9/7/205. Đây là thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại Scotland, một giai đoạn lịch sử đã từng tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới báo chí, và sự quan tâm của thế giới.   Một vụ án mạng 6 tuần ngay trước hội nghị thượng đỉnh nhưng không nhận được sự quan tâm tối thiểu nhất của giới pháp luật và cảnh sát. Cái chết của Cyril Colliar, một kẻ vừa mãn hạn tù với một lố những tiền án tiền sự và nóng hổi nhất là vụ cưỡng hiếp hắn vừa thụ án xong. Tất cả điều tra viên đều lãnh đạm không thèm dùng đến từ “ nạn nhân” như thường lệ, mà thay bằng từ “kẻ chết”, đủ hiểu bọn họ đối với hắn chán ghét cỡ nào. Cyril Colliar bị chết do nứt sọ và kẻ sát nhân đã bồi thêm cho hắn một cylinder đầy heroin nguyên chất. Một mảnh của áo khoác da hắn mặc bị cắt ra và sau đó được tìm thấy treo lủng lẳng trên cây ở một nơi gọi là Clootie Well chung với rất nhiều mảnh vải và thứ đồ dị hợm khác như một phong tục âm linh quái dị. Sau khi pháp chứng làm việc, qua một số manh mối, họ lại tìm ra được 2 nạn nhân khác và xác định đây là một vụ giết người hàng loạt, và nạn nhân là những kẻ có tiền án tiền sự và đặc biệt là đã từng dính dáng đến tội dâm ô- cưỡng hiếp hoặc quấy rối tình dục. Dự định đi theo phương hướng này để điều tra, nhưng thanh tra- sắp-về-hưu John Rebus và hạ sĩ trẻ Siobhan Clarke không được sự ủng hộ của cấp trên lẫn sự trợ giúp của các đồng nghiệp. Tất cả bọn họ đều thờ ơ với cái chết của những kẻ đã từng phạm tội và cho rằng đó chính là quả báo của cuộc sống ngoài vòng luật pháp. Trong lúc vụ án này có tiến triển thì lại một vụ án khác xảy ra, một nghị sĩ rơi từ tường cao của lâu đài Edinburgh khi buổi tiệc chào đón trước thềm G8, không nhân chứng, không một dấu vết chứng tỏ anh ấy bị giết hay tai nạn. Nhưng mối quan hệ của nạn nhân và những manh mối trong cuộc sống và công việc của anh ta để lại khiến Rebus và Siobhan không thể đánh đồng vụ này với một tai nạn. Một vụ án mạng liên hoàn còn chưa được kết thúc lại xuất hiện thêm một vụ án khác, nhưng tất cả đều bị giấu nhẹm đi và ém tin tức một cách triệt để vì hội nghị thượng đinh chính là rào cản lớn nhất với vô số bạo loạn, diễu hành, an ninh và thể diện quốc gia cần được đặt lên hàng đầu. Mọi thứ như những bánh xe trong một guồng máy phức tạp, một khi một chiếc bánh đã quay sẽ kéo theo hàng loạt thứ trượt xa hơn so với những gì ban đầu dự tính.Mở đầu tác phẩm là một không khí ảm đạm, tang thương và có phần bức bối của gia đình Rebus và các vụ án mạng, tiếp theo đó là sự náo loạn vồn vập của hội nghị thượng đỉnh và giới chính trị. Tác phẩm hội tụ đầy đủ một xã hội với giới pháp luật, chính trị, thương nhân, ký giả , tội phạm và người dân. Họ xâu xé lẫn nhau, tính kế lẫn nhau, đối địch lẫn nhau nhưng rồi lại có lúc như những sinh vật lại chạy về cộng sinh với nhau để cầu sống, cầu tài, cầu danh vọng và cầu bình an. Tác phẩm này có lẽ sẽ không để dành cho những bạn trẻ không đủ kiên nhẫn vì nó rất chậm, và rất thật. Trong một mớ bòng bong hỗn loạn và không có một đội điều tra của riêng mình, thanh tra Rebus và hạ sĩ Siobhan phải tranh thủ từng li từng tí các mối quan hệ hoặc cơ hội để gom về chút ít thông tin và manh mối từ miệng của cấp trên, những kẻ trong cuộc và ngoài cuộc, thậm chí là những con chốt được cài vào các ván cờ chính trị của những kẻ đứng sau đó. Họ chật vật với từng giây từng phút, ngột ngạt trong một mạng nhện khổng lồ càng ngày càng thít chặt họ. Họ đặt cược cả sinh mạng và tiền đồ chỉ để mong không một kẻ phạm tội nào có thể thoát được lưới pháp luật. Câu chuyện rất dài nhưng tác giả không để độc giả nghỉ ngơi trong một giây một phút nào. Không một trang giấy nào để các nhân vật chúng ta nói chuyện phiếm hay thư giãn phí hoài thời gian. Mọi mối quan hệ đều qui về công việc, mỗi trang giấy đều chạy từ đầu này của vụ án đến đầu kia của cuộc bạo loạn. Từng chi tiết, từng ngõ ngách của cuộc diễu hành, từng nét mặt của những người bạo loạn đều được mô tả kỹ càng. Kỹ năng mô tả và liên hệ của tác giả rất tốt, liên kết rành mạch từ chuyện này sang chuyện kia rồi quay lại nhưng không bị quá lố hoặc quá lan man. Tuy nhiên, vì cố gắng giăng một cái bẫy quá lớn, quá nhiều người bị kéo vào vòng xoáy vụ án này mà câu chuyện rề rà đến mức khá mệt mỏi. Chạy một vòng lớn, rất lớn, và đôi lúc bị trì trệ một cách thảm hại, các nhân vật của chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát và phát hiện ra sự thật đơn giản sau vấn đề phức tạp. Một cái kết vô lý nhưng vô cùng hợp lý trở thành điểm trừ cho tác phẩm vì nó thực sự gây ức chế với độc giả sau chặng đường dài gian nan đã đi qua. Điểm trừ lớn nhất cho tác phẩm này chính là dich thuật và biên tập của Nhã Nam. Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dịch thuật đầy rẫy trong cuốn sách như một chén cơm nóng đầy sạn và đá. Từ ngữ Anh-Việt được dùng lẫn lộn, danh từ chỉ tên riêng của địa danh và nhân vật lại bị dịch ra một cách không mượt mà, viết hoa tá lả linh tinh và chưa kể một số từ tiếng anh được phiên âm để đọc theo tiếng việt thực sự gây ức chế tột cùng khi đọc. Meeting- mít tinh London- Luân Đôn ( nhưng Scotland, Edinburgh và Clootie Well giữ nguyên) Blouse- Áo bờ-lu Pudding- bánh pút đinh Gothic- kiến trúc gô- tích Techno- tếch-nô Minh Hằng *** Tiếng nhạc nổi lên tiếp nối những thanh âm vang vọng của bản thánh ca. Ca khúc “Tình yêu bao trùm lên tôi” của ban nhạc Kẻ Nào. Rebus nhận ra bài hát ngay từ đoạn dạo đầu với tiếng sấm và tiếng mưa rơi đặc trưng giờ đã tràn ngập không gian nhà thờ. Chrissie cứ nhất định muốn Rebus ngồi ở hàng ghế trên. Ông thực lòng chỉ muốn lui xuống phía sau: nơi ông thường ngồi mỗi khi dự tang lễ. Con trai và con gái của Chrissie ngồi ngay bên cạnh bà. Lesley đang vỗ về mẹ, vòng tay ôm lấy người bà khẽ siết chặt mỗi khi bà nức nở. Kenny chỉ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cố gắng kìm chặt mọi cảm xúc. Buổi sáng, khi còn ở nhà, Rebus đã hỏi tuổi cháu trai. Vào tháng tới Kenny sẽ tròn ba mươi, còn Lesley kém anh trai hai tuổi. Trông hai anh em đều rất giống mẹ, khiến cho Rebus nhớ lại những lời nhận xét kiểu như Giỏ nhà ai, quai nhà ấy mà mọi người vẫn nói về Michael và ông. Michael… mà mọi người vẫn quen gọi là Mickey. Em trai của Rebus, giờ đang lặng thinh nằm đó trong chiếc quan tài có tay cầm sáng bóng, ra đi ở tuổi năm mươi tư, cái tuổi mà theo tiêu chuẩn của xứ Scotland này thì chỉ ngang với tuổi thọ người dân ở một nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Có rất nhiều giả định - nào là lối sống, chế độ ăn, rồi cả yếu tố di truyền. Biên bản khám nghiệm tử thi đầy đủ vẫn chưa được thực hiện. Qua điện thoại, Rebus được Chrissie cho hay đó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng, trấn an ông rằng mọi chuyện xảy ra “hoàn toàn đột ngột” - cứ như thể như thế thì có gì khác biệt. Đột ngột - tức là Rebus chẳng thể nói lời từ biệt với em trai. Cũng có nghĩa những lời cuối cùng giữa hai anh em chỉ là một mẩu chuyện phiếm trên điện thoại hồi ba tháng trước về câu lạc bộ Raith Rovers mà Michael yêu mến. Một chiếc khăn quàng của đội Raith, màu xanh lục pha trắng, được vắt ngang qua quan tài, kế bên vòng hoa tang. Kenny đeo chiếc cà vạt mà bố Michael từng dùng, trên có tấm khiên biểu tượng của đội Raith - con mãnh thú gì đó đang giơ cao một cái đai lưng. Rebus đã hỏi về ý nghĩa của biểu tượng đó nhưng Kenny chỉ khẽ nhún vai. Dõi mắt dọc theo hàng ghế, Rebus thấy người chỉ dẫn làm dấu. Tất cả những người dự tang lễ đều đứng lên. Chrissie chậm rãi bước dọc lối đi, hai người con theo sát ở hai bên. Người chỉ dẫn đưa mắt nhìn Rebus, nhưng ông vẫn đứng yên tại chỗ. Xong ngồi xuống để ra hiệu cho em dâu và các cháu không phải chờ mình. Bài hát mới được nửa chừng. Đó là ca khúc cuối cùng trong đĩa nhạc Quadrophenia. Michael vẫn luôn là fan hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Kẻ Nào, còn cá nhân Rebus thì lại yêu thích ban nhạc Rolling Stones hơn. Dù vậy vẫn phải công nhận rằng các album như Tommy và Quadrophenia đã làm được những điều mà The Rolling Stones không tài nào có thể. Giọng ca Daltrey của ban nhạc đang phấn khích gào về việc muốn uống rượu. Rebus cũng đồng tình, nhưng còn phải tỉnh táo cả chặng lái xe trở về Edinburgh. Phòng họp của một khách sạn địa phương đã được đặt trước. Đứng trên bục giảng kinh, vị mục sư chủ tọa nhắc nhở rằng tất cả bạn bè thân hữu đã tới chia buồn đều được mời. Những ly whisky và những tách trà được bưng ra, rồi bánh kẹp cũng sẽ được mang lên. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại những câu chuyện và kỷ niệm thân thương về người quá cố, mỉm cười an ủi, trầm ngâm đồng cảm với nhau và cùng chia sẻ nỗi buồn qua ánh mắt. Các nhân viên khách sạn sẽ rút lui trong lặng lẽ, để tôn trọng bầu không khí. Rebus cố gắng sắp xếp câu chữ trong đầu mình, những từ ngữ sẽ thay ông xin lỗi. Chrissie à, tôi cần phải trở về ngay. Có quá nhiều việc. Ông có thể nói dối và đổ lỗi cho hội nghị thượng đỉnh G8. Buổi sáng nay, trước khi ra khỏi nhà, Lesley đã nói rằng Rebus chắc hẳn đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho hội nghị này. Ông đã có thể nói thế này với cô cháu gái, Ta là viên cảnh sát duy nhất mà dường như họ không cần tới. Cảnh sát được triệu tập từ khắp mọi nơi. Chỉ tính riêng ở Luân Đôn đã có tới mười lăm nghìn sĩ quan. Thế nhưng thanh tra John Rebus dường như lại trở thành người thừa trong cuộc điều động nhân lực khổng lồ này. Phải có người ở lại chèo lái con thuyền chứ - những lời từ chính miệng tổng thanh tra James Macrae, đi kèm kiểu cười thầy dòng tự mãn đáng ghét quăng lại. Thanh tra Derek Starr đoan chắc mình sẽ trở thành người kế vị ngai vàng của triều đại Macrae. Rồi sẽ có ngày hắn nắm trong tay quyền điều hành Sở Cảnh sát quảng trường Gayfield này. John Rebus chẳng thể nào là một mối họa cho viễn cảnh đó, còn chưa đầy một năm nữa là đến ngày ông phải về hưu. Chính Starr cũng đã nói những lời đại loại như: John à, sẽ không ai chê trách anh về việc tụt dốc trong nghề đâu. Ai ở độ tuổi của anh cũng vậy cả. Có thể là đúng vậy thật, nhưng các thành viên nhóm The Rolling Stones đều già hơn Rebus; cả Daltrey và Townshend cũng nhiều tuổi hơn ông. Ấy vậy mà họ vẫn chơi nhạc, vẫn cứ đi lưu diễn đấy thôi. Bài hát đang dần đi vào đoạn kết, Rebus lại nhỏm người đứng dậy. Lúc này chỉ còn mình ông trong nhà thờ. Đưa mắt nhìn về phía tấm màn nhung màu tía lần cuối. Chiếc quan tài có thể vẫn nằm sau tấm màn; nhưng cũng có thể nó đã được chuyển tới khu khác của lò hỏa táng. Rebus ngẫm nghĩ nhớ lại thời niên thiếu, hai anh em ông hào hứng thưởng thức những ca khúc của thập niên 45 trong căn phòng chung trên con phố High của thị trấn Kirkcaldy, bài ”Thế hệ của Tôi” và ”Sự thay thế”, Michael thắc mắc về cách mà Daltrey nhấn nhá ca từ trong bài hát đầu tiên, còn Rebus thì nói ông đã từng đọc được ở đâu đó rằng việc hát như thế là có dính líu đến chất kích thích. Hồi ấy, chất kích thích duy nhất mà hai anh em cùng ham mê là chất cồn, những ngụm đầy tràn từ các chai trên chạn bếp, một can bia đen mùi tanh tanh được khui ra, vậy là say sưa trong bóng đêm sau giờ tắt đèn. Mickey đứng trên khu phố tản bộ của Kirkcaldy, hướng ánh nhìn chăm chú ra ngoài biển, miệng lẩm nhẩm lời hát “Tôi có thể trông qua hàng dặm trường”. Nhưng liệu khung cảnh này có thực sự là những gì đã xảy ra không nhỉ? Đĩa nhạc này ra lò vào những năm 66-67, khoảng thời gian ấy Rebus vẫn đang phục vụ trong quân ngũ. Ắt hẳn là một kỳ nghỉ phép của Rebus. Phải rồi, Mickey khi ấy để tóc dài ngang vai, cố gắng bắt chước phong cách của thần tượng Daltrey, còn Rebus để kiểu đầu quân nhân đặc trưng, bịa những mẩu chuyện nhằm tô hồng cho cuộc sống quân ngũ, Bắc Ai-len vẫn đang ở phía trước…   Mời các bạn mượn đọc sách Gọi Tên Kẻ Chết của tác giả Ian Rankin & Trịnh Xuân Thắng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thứ 41 - Bô-rít La-vrê-nép
Bô-rít La-vrê-nép là nhà tiểu thuyết và kịch tác gia. Ông sinh năm 1891 ở Khéc-sơn (U-cờ-ren) và là Cựu sinh viên luật học trường Đại học Mạc-tư-khoa. Trong thời kỳ nội chiến ông chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân. Bước đầu sáng tác văn học của ông bắt đầu từ năm 1912. Người ta biết ông ở tập truyện ngắn “Gió” (1924) hai tập tiểu thuyết ngắn, “Người thứ 41” (1926) và “Một truyện bình thường” (1924) đều lấy đề tài trong cuộc đại cách mạng Nga. Vở bi kịch “Phá vây” của ông diễn lần đầu năm 1928 được coi như một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kịch nói xô-viết. Ngoài ra ông còn viết một loạt truyện ngắn và kịch về đời sống ở biển; trong đó hai tác phẩm nổi nhất là “Tiếng hát của Hắc-hải” (1944) và “Về những người sống ở biển”. Ông mới mất tháng giêng năm 1959. NGƯỜI THỨ 41 được coi là một trong những tiểu thuyết mẫu mực của nền văn học xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Tác phẩm gần như trở thành cổ điển tuy nó mới ra đời cách đây trên 30 năm. Bằng một bút pháp thật tinh tế, lối bố cục nhịp nhàng chặt chẽ, cách xây dựng điển hình thật đặc biệt, tác giả đưa ra cái ranh giới giữa tình yêu và lý tưởng, giữa hai thứ nhân sinh quan khác nhau như nước với lửa. Ma-ri-út-ka, nhân vật chính trong chuyện, một nữ chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi và xinh đẹp, xuất thân là một cô gái nghèo nhưng lại thích làm thơ và thích mơ mộng, Ma-ri-út-ka yêu rất say và thù cũng rất sâu. Giết kẻ địch mà vẫn yêu, và kẻ địch, ngoài cái óc nhơ bẩn của nó, còn có một cặp mắt đẹp, cử chỉ dáng điệu nho nhã và tài kể chuyện của nó làm cho Ma-ri-út-ka phải say mê. Cách dựng nhân vật phản phái một cách táo bạo và cũng rất thành công của La-vrê-nép làm cho câu chuyện sâu thêm, đậm hơn và cũng thực hơn. NGƯỜI THỨ 41 đã hai lần được xây dựng thành phim ảnh. Lần thứ nhất vào năm 1927 do nhà đạo diễn đã quá cố Pơ-rô-ta-dô-nốp lấy tên là: “Con quỷ của thảo nguyên”. Ba mươi năm sau, nhà đạo diễn trẻ tuổi và rất có tài là Tru-khơ-rai dựng lại chuyện này lần thứ hai. Phim “Người thứ 41” đem đi dự Đại hội điện ảnh quốc tế ở Can-nơ năm 1957 đã làm chấn động dư luận thế giới. Riêng ở Việt-nam ta, bộ phim của Tru- khơ-rai xây dựng theo tiểu thuyết của Bô-rít La-vrê-nép cũng đã thu phục được hàng chục vạn trái tim. NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Người Thứ 41 của tác giả Bô-rít La-vrê-nép.
Nhân Chứng Ẩn Mình - Nora Roberts
Việc phải đóng vai cô con gái mẫu mực của một bà mẹ lạnh lùng độc đoán suốt mười sáu năm trời đã khiến cho Elizabeth Fitch hết chịu nổi. Một ngày cô quyết định nổi loạn khi lần đầu trong đời theo chân bạn bè tới hộp đêm. Tại đó cô đã bị quyến rũ bởi một anh chàng người Nga lạ mặt và đồng ý tới căn biệt thự của gia đình anh ta. Mười hai năm sau, một phụ nữ mang tên Abigail Lowery sống lẻ loi ở thị trấn nhỏ vùng núi Ozark. Cô ta có một công việc tự do liên quan đến thiết bị an ninh công nghệ, một chú chó dữ dằn theo sát từng bước chân và một khẩu súng luôn bên người. Việc quá giữ mình khiến cho người dân thị trấn chẳng biết gì về cô ta, đó cũng là lúc mà tính tò mò trỗi dậy. Anh chàng cảnh sát trưởng Brooks Gleason đã bị cô gái bí ẩn, thông minh, đầy quyến rũ này hớp hồn. Nhưng cách cư xử lạ lùng của Abigail khiến anh băn khoăn phải chăng cô là tội phạm bị truy nã hay đang lẩn trốn ai đó? Liệu Abigail có thoát được sự đeo bám của anh chàng Brooks này, và chuyện gì trong quá khứ đã khiến cô trở nên như vậy, xin mời các bạn cùng theo dõi câu chuyện. *** Nhận định “Tác phẩm Nhân chứng ẩn mình của Nora Roberts, nữ văn sĩ có sách bán chạy số một New York Times, là minh chứng rõ ràng cho tài năng tuyệt vời của bà trong việc kết hợp giữa một bối cảnh hình sự với một chuyện tình lãng mạn.” (Booklist) “Câu trả lời của Nora Roberts cho Cô gái có hình xăm rồng.” (Kirkus Reviews) “Một trong những nhân vật nữ chính thông minh nhất của Roberts, cuốn sách kịch tính này xác nhận rằng bà là người đi đầu trong thể loại này.” (Publishers Weekly) *** Thật sự “nhân chứng ẩn mình” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nora Roberts mình từng đọc. Phong cách viết kết hợp giữa trinh thám và lãng mạn của bà chưa bao giờ làm mình thất vọng. Với mỗi tác phẩm, tác giả đều có cách tiếp cận vấn đề và cách triển khai không giống nhau, mọi thứ đều rất mới mẻ và thu hút. Có rất nhiều tình huống trong “nhân chứng ẩn mình”, tất cả đều logic, hợp lý và khiến người đọc không thể rời mắt cho đến khi kết thúc tác phẩm. Và hơn cả là mọi tình tiết đều khá thật. Một cuốn tiểu thuyết thành công là sự kết hợp giữa hiện thực và…hư cấu. Ở điểm này Nora Roberts đã kết hợp được điều đó trong “nhân chứng ẩn mình” nói riêng và trong các tác phẩm trinh thám lãng mạn khác nói chung. Tóm lại đây là một tác phẩm rất đáng đọc của tác giả, phù hợp với cả những độc giả yêu thích các tác phẩm lãng mạn hoặc các tác phẩm hình sự.   Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Ẩn Mình của tác giả Nora Roberts.
Báo Thù - Barry Eisler
Báo thù là cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ 2 trong series 7 tập về John Rain, một cựu quân nhân mang hai dòng máu Nhật  - Mỹ hành nghề sát thủ tự do. Trong tập đầu tiên của bộ sách này, Sát Thủ Tokyo, John Rain đã trừ khử được Holtzer - giám đốc phân cục CIA tại Tokyo. Những tưởng cuộc sống yên bình đã chọn anh ở xứ Osaka tươi đẹp nhưng không, một lần nữa anh phải tái xuất để thực hiện nhiệm vụ cuối cùng: tìm ra và loại trừ một tên sát thủ máu lạnh, không hề biết thương xót và hối hận. Hành tung của hắn có liên quan tới nền chính trị Nhật, đặc biệt người bạn thân của anh là Harry cũng bị hắn theo dõi. Quyết tâm dấn thân vào nhiệm vụ cuối để bảo vệ người bạn của mình đồng nghĩa với việc Rain đang đánh đổi mạng sống của mình giữa vòng kiềm tỏa của một bên là giới Yakuza khát máu, một bên là những âm mưu trả thù của CIA. Liệu rằng anh sẽ phải làm gì để bảo vệ chính mình? *** "Từ những yakuza máu lạnh Nhật Bản cho đến những đặc vụ CIA xảo quyệt, một câu chuyện hồi hộp đến nghẹt thở". *** Barry Eisler sinh năm 1964, là tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Năm 2002, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn toàn thời gian sau khi bán bản quyền tiểu thuyết đầu tay Rain Fall, cuốn đầu tiên trong series về nhân vật John Rain - đến nay đã xuất bản được 7 cuốn. Loạt truyện này của ông đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng. Eisler từng đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm". Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall (Sát thủ Tokyo) với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer. Eisler sống tại Menlo Park và Tokyo. *** Đây là quyển sách tiếp theo của cuốn " Sát thủ Tokyo" , cách kể của Barry Eisler có gì đó khá lôi cuốn người đọc. Nhưng có thất một chút thì ban đầu cuốn sách vì kể hơi dài dòng. Phần này nói về cuộc sách của Rain sau khi giết Holtzez - giám đốc phân cục của CIA, và cũng thật tiếc cho anh chàng Harry tài giỏi vì một chút nông nỗi mà phải chết, cũng từ lúc đó chuyện càng trở nên hấp dẫn hơn có thêm nhiều trận đấu nảy lửa, kịch tính. Không biết có thêm tập mới của bộ series này không nữa???   Mời các bạn đón đọc Báo Thù của tác giả Barry Eisler.
Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông
Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.