Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và cấm kỵ

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Văn hoá và tôn giáo là những vấn đề vô cùng phức tạp và rông lớn, tác động sâu xa tới toàn bộ đời sống xã hội, tới ý thức, lối sống và nhân cách cá nhân của mọi thành viên. Do vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu có tính chất bao trùm lên toàn bộ các khoa học xã hội và nhân văn. Học thuyết Marx với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã có cống hiến to lớn trong giải quyết các vấn đề liên quan đến các khái niệm đó. Tính đúng đắn của học thuyết Marx, đặc biệt là các công trình của F. Engels, là chỉ ra một cách khoa học và thuyết phục những cơ sở lao động-kinh tế của việc hình thành ý thức xã hội, lâu đài văn hoá, tín ngưỡng, các phong tục tập quán và mối tương quan giữa ý thức xã hội với nhân cách cá nhân. Chủ nghĩa Marx nhìn nhận các hiện tương xã hội đó như là kết quả của hành động có ý thức của con người. Tuy nhiên, hành động của con người, đặc biệt là hành vi của các cá nhân, không phải chỉ được điều khiển bởi ý thức, mà có khi nó còn bị thúc đẩy bởi các động lực vô thức nằm sâu trong tận đáy tâm thức của con người, cái đôi khi được đồng nhất với bản năng.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh. Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học. Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít. Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Với tư cách một học thuyết duy vật biện chứng và lịch sử được xây dựng trên cơ sở các thành tựu mới nhất của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn đương thời, nó thừa nhận tiến hoá luận của Darwin, tiếp thu và kế thừa lí thuyết văn hoá - nhân học của nhà nhân học Mĩ H. Morgan, chủ nghĩa Marx không phủ nhận cơ sở vật chất sinh học của con người, như Marx đã từng chỉ dẫn: "Giải phẫu học về con người là cái chìa khoá cho giải phẫu học về con khỉ", cho nên nó cũng không coi thường bản năng và vô thức. Chỉ có điều, do một số nhà lí luận sau này bởi nhiều lí do khác nhau, đã tuyệt đối hoá mặt ý thức mà xem nhẹ việc nghiên cứu vô thức và tâm lí cá nhân. Mảnh đất quan trọng và thiết thân ấy, do vậy, trong một thời kì dài hàng thế kỉ đã là nơi tung hoành của các trường phái tâm lí học ở các nước tư bản chủ nghĩa Tây Âu và Bắc Mỹ, mà trung tâm của họ là phân tâm học (Psychanalyse) với đại biểu điển hình là Sigmund Freud được nhiều người xem là cha đẻ của phân tâm học, một người mà tác phẩm của mình từng được coi là "cấm kị", không được phổ biến ở một số nước trong thời kì chiến tranh lạnh.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của phân tâm học, người ta thấy nó quan tâm trước hết đến bệnh lí tâm thần và đời sống vô thức của cá nhân, rồi sau đó mới có bước chuyển di sang lĩnh vực đời sống xã hội. Thuật ngữ phân tâm học (Psychoanalyse) xuất hiện bằng tiếng pháp lần đầu tiên năm 1896 trong một báo cáo của Freud. Thời kì đó người ta hiểu nó như một liệu pháp y học gọi là "liên tưởng tự do" (freie assoziation). Rồi sau đó đã bành trướng thành một phương pháp thời thượng sang nhiều lĩnh vực khác của các khoa học tinh thần. Các hiện tượng xã hội được phân tích truy nguyên theo các yếu tố bản năng vô thức là những cái được di truyền từ loài thú đến loài người nguyên thuỷ và tồn tại mãi cho đến con người hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình tìm tòi nguyên uỷ của bệnh tâm thần cá nhân và những nỗi đau đớn của họ, phương pháp phân tâm học cũng quan tâm đến sự tác động của các bối cảnh xã hội thông qua các câu chuyện do người bệnh kể lại. Những nhân tố xã hội ấy do vậy cũng làm thành cơ sở của phân tâm học.

Vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn hoá của các dân tộc. Mặt khác, sự ra đời của các tác phẩm phân tâm học về xã hội cũng là sản phẩm bởi tác động của các bối cảnh lịch sử của xã hội đương thời. Các nguồn tư liệu gần đây cho thấy Freud, Adler cũng như nhiều nhà phân tâm học hàng đầu khác cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20 đã có những quan hệ chặt chẽ với phong trào công nhân châu Âu dưới sự lãnh đạo của những người xã hội dân chủ theo tư tưởng Mác-xít. Thậm chí bản thân một số nhà phân tâm học đồng thời là lãnh tụ của các đảng phái xã hội dân chủ, như A. Adler, H. Heller, C. Furtmueller, D.-E. Openheim. Bản thân Freud cũng như nhiều nhà phân tâm học khác tỏ ra tán thành quan điểm tâm lí hoc duy vật Mác-xít.

Vật tổ và cấm kị (Totem und Tabu) là tác phẩm quan trọng nhất của Freud nói riêng và của phân tâm học nói chung về nguồn gốc của văn hoá và tín ngưỡng. Ngay tác phẩm cuối cùng Moise và tôn giáo nhất thần (1939) cũng như Tâm lý học đại chúng và phân tích cái tôi (1921) đều xây dựng trên cơ sở Vật tổ và cấm kị. Phải chăng đó là sự ngoan cố của Freud, cái đã cho phép ông bám chắc các luận đề của mình, hay phải chăng những lý thuyết ông phát minh trong đó chính là những viên đá tảng quan yếu cho văn hoá luận phân tâm học? Tác phẩm này được chính Freud xem là "thử nghiệm đầu tiên (...) trong vận dụng các quan niệm và kết quả nghiên cứu của phân tâm học vào các vấn đề chưa sáng tỏ của tâm lí hoc dân tộc", và đối với độc giả thì nó "đáp ứng mối quan tâm của một phạm vi rộng lớn hơn của những người có văn hóa, nhưng thực ra chúng chỉ có thể được hiểu và phân định bởi một số ít ỏi nhất mà với họ phân tâm học không còn xa lạ nữa. Nó ra đời trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lâm sàng và điều trị bệnh nhân tâm thần của chính Freud, các công trình khảo cứu nhân chủng học và văn hóa học của nhiều học giả, đặc biệt là Frazer, và ít nhiều chịu kích thích trực tiếp từ tác phẩm Những biến hoá và biểu tượng của dục tính của nhà phân tâm học trẻ C-G. Jung, môn đệ của ông. Nhưng tác phẩm của Freud có sức khái quát hoá hơn hẳn và mang tính duy vật cao.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Dấu Chân Trên Cát (Nguyên Phong)
Lời giới thiệu Ng�y nay Ai Cập chỉ được biết đến như một quốc gia chậm tiến với những Kim Tự Th�p đồ sộ v� những cổ mộ chứa x�c ướp. Rất �t ai biết về qu� khứ đầy huy ho�ng của nền văn minh đ� bị v�i lấp trong l�ng c�t sa mạc n�y. Hiển nhi�n lịch sử đ� ghi nhận về triều đại của c�c vua Pharaoh, những người đ� tốn rất nhiều xương m�u d�n ch�ng để x�y cất c�c Kim Tự Th�p, nhưng x�y cất v�o việc g� th� vẫn c�n l� một c�u hỏi m� ng�y nay người ta chưa t�m được c�u trả lời. Lịch sử triều đại vua ch�a Ai Cập cũng chứa đựng nhiều b� mật lạ l�ng kh�ng thể giải th�ch. Hiện nay c�c nh� khảo cổ th�ng th�i nhất vẫn kh�ng t�m được một ch�t manh mối hay di t�ch g� về c�c đấng qu�n vương, những người đ� x�y dựng l�n nền văn minh bậc nhất b�n bờ s�ng Nile n�y. Họ chỉ khai quật được mồ mả, lăng tẩm của c�c bạo ch�a, những người đ� g�y chiến tranh khắp nơi, l�m đổ m�u d�n l�nh v� tội. Nh� khảo cổ Kevin Livingston đ� viết: "H�nh như c�c vị minh qu�n kh�ng hề x�y cất lăng tẩm, kh�ng hề dựng bia đ� khắc ghi c�ng trạng của m�nh. Phần lớn c�c lăng tẩm hay mồ mả đ� được đ�o l�n chỉ to�n của c�c vị vua bất t�i, những bạo ch�a kh�t m�u, những người m� t�n tuổi kh�ng c�n ai muốn nhắc đến nữa". Ng�y nay người ta biết đến triều đại c�c vua ch�a Ai Cập thời cổ qua s�ch vở của người Hy Lạp. Sở dĩ c�c sử gia Hy Lạp biết được c�c chi tiết n�y v� họ đ� học hỏi từ một người Ai Cập bị đ�y biệt xứ t�n l� Sinuhe. Đ�y l� một nh�n vật lạ l�ng, đ� c� c�ng mang văn minh Ai Cập truyền v�o Hy Lạp khi quốc gia n�y c�n ở một t�nh trạng k�m mở mang so với Ai Cập l�c đ�. C�c sử gia ng�y nay đ� đưa ra nhiều giả thuyết về nh�n vật Sinuhe n�y. C� người cho rằng �ng chỉ l� một l�i bu�n đến Hy Lạp lập nghiệp nhưng l�m sao một l�i bu�n lại mở trường dạy học v� để lại nhiều t�i liệu qu� gi� như thế được? Tìm mua: Dấu Chân Trên Cát TiKi Lazada Shopee Từ ng�n xưa, chỉ ri�ng giai cấp vua ch�a v� gi�o sĩ mới được hưởng quy chế gi�o dục to�n vẹn như vậy m� th�i. Do đ�, một số người cho rằng �ng thuộc giai cấp gi�o sĩ nhưng việc một gi�o sĩ Ai Cập đến mở trường dạy học tại Hy Lạp cũng l� điều kh� chấp nhận. Mặc d� khi đ� văn minh Hy Lạp chưa tiến bộ như Ai Cập nhưng t�n gi�o xứ n�y đ� ph�t triển rất mạnh, hiển nhi�n c�c gi�o sĩ Hy Lạp kh�ng thể chấp nhận cho một gi�o sĩ ngoại quốc đến mở trường dạy học tại th�nh địa Olympia của họ được. Nếu thế, phải chăng Sinuhe thuộc giai cấp ho�ng tộc? Điều n�y x�t ra cũng kh�ng c� l� v� một người thuộc giai cấp ho�ng tộc kh�ng thể bị đ�y biệt xứ. Luật ph�p Ai Cập chủ trương xử tử những kẻ trong ho�ng tộc nếu họ vi phạm một tội trọng n�o đ� chứ kh�ng c� lệ đ�y biệt xứ, v� c�c vua Pharaoh rất sợ những người trong bọn họ chi�u binh m�i m� l�m phản. Việc một người Ai Cập, th�n thế mơ hồ, bị đ�y biệt xứ, đến mở trường dạy học tại Athens, trung t�m văn h�a của Hy Lạp, vẫn l� một b� mật đến nay c�c nh� khảo cổ chưa t�m được c�u trả lời.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyên Phong":Bên Rặng Tuyết SơnĐường Mây Qua Xứ TuyếtHoa Trôi Trên Sóng NướcMinh Triết Trong Đời SốngNgọc Sáng Trong Hoa SenHành Trình Về Phương ĐôngTrở Về Từ Cõi SángTử Thư Tây TạngMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 1Dấu Chân Trên CátHoa Sen Trên TuyếtMột Làn Gió Tinh KhôiMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 2Muôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 3Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dấu Chân Trên Cát PDF của tác giả Nguyên Phong nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (Nguyễn Lang)
Cùng Bạn Đọc Từ mấy năm nay, trong xu thế đổi mới toàn diện của đất nước, đời sống văn học, nghệ thuật nói chung đã có những chuyển biến năng động và tích cực với các mặt biểu hiện phong phú, đa dạng, cởi mở hơn, và việc tìm hiểu những truyền thống văn hóa, tinh thần đặc sắc, nhiều mặt, trong lịch sử trên dưới 4.000 năm của cha ông ta cũng trở thành một đòi hỏi ngày càng mạnh mẽ. Ðáp ứng yêu cầu đó, Nhà xuất bản Văn học đã và sẽ lần lượt cho tái bản một số công trình nghiên cứ u, biên soạn, dịch thuật, của nhiều học giả trong Nam ngoài Bắc, hoặc từng được nhiều dư luận bạn đọc chú ý, hoặc đã trở thành những tư liệu hiếm có trong các thư viện, như cuốn La sơn phu tử, Chinh phụ ngâm bị khảo của Hoàng Xuân Hãn, Lão Tử - Ðạo đức kinh của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Kinh dịch của Nguyễn Hiến Lê, Kinh Thi của Tạ Quang Phát, Luận ngữ của Lê Phục Thiện, Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Ðỗ Bằng Ðoàn và Ðỗ Trọng Huề, Chơi chữ của Lãng Nhân... Bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận của Giáo sư Nguyễn Lang cũng nằm trong danh mục "tủ sách học vấn" kể trên. Như thông lệ đối với bất kỳ bộ sách nào được đem ra tái bản, trước khi đưa in Việt Nam Phật giáo sử luận, chúng tôi đã tổ chức một Hội đồng thẩm định, gồm các ông: Thượng tọa Thích Thanh Tứ, Phó viện trưởng Phân viện Phật Học Việt Nam; Giáo sư sử học Hà Văn Tấn, Viện trưởng Viện Khảo cổ học, Phó viện trưởng Phân viện Phật Học Việt Nam, làm Chủ tịch. Hội đồng đã làm việc tích cực đóng góp nhiều ý kiến bổ ích, cũng như đã nhất trí tái bản bộ sách. Chúng tôi còn được giáo sư Nguyễn Huệ Chi, người từng có điều kiện thâm nhập hai tập Việt Nam Phật giáo sử luận từ rất sớm, vui lòng viết Lời giới thiệu in vào đầu trang sách cũng như soát k ỹ lại bản thảo. Xin được ghi lại ở đây lời cám ơn chân thành của Nhà xuất bản Văn học. Do chỗ tác giả hiện đang ở xa, không thể trao đổi, bàn bạc trước khi in sách, chúng tôi hy vọng mấy lời Cùng bạn đọc trên đây phần nào cũng có thể thay thế cho lời xin phép tái bản sách của ông. Tìm mua: Việt Nam Phật Giáo Sử Luận TiKi Lazada Shopee Sau cùng, dù đã hết sức cố gắng, lần tái bản này phải bỏ lại số lớn các bức ảnh phụ bản của Việt Nam Phật giáo sử luận vì bản in trong nguyên bản vốn mờ sẵn. Thành thực cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc. Sau khi Việt Nam Phật giáo sử luận công bố rộng rãi ở trong nước, nhiều bạn đọc đã gửi thư về Nhà xuất bản đánh giá cao bộ sách, và đề nghị đặt mua thêm. Vì vậy, lần này Nhà xuất bản cho in lại cả hai tập sách trên. Ðể bộ sách ra mắt được hoàn chỉnh, xứng đang với mong đợi của độc giả, trước khi in chúng tôi đã nhờ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Ban văn học Cổ cận đại Viện Văn học chỉnh đốn lại kỹ càng những chỗ bất nhất về quy cách trình bày mà lần in trước vẫn chưa khắc phục được. Ngoài ra, chúng tôi còn nhờ nhà nghiên cứu mỹ thuật Tố Như tìm lại các bản chính mà Giáo sư Nguyễn Lang đã mượn làm phụ bản nhằm bổ khuyết phần minh họa, nhưng rất tiếc các bản chính này cũng bị mờ, hơn nữa có tài liệu như của Miklós (Hongrie) còn chú dẫn xuất xứ nhầm lẫn; cuối cùng Phó giáo sư Tố Như đã phải tổ chức chụp lại từ nguyên m ẫu các chùa miền Bắc, nhờ đó có được những bức ảnh màu thay cho ảnh đen trắng, đồng thời cũng bổ sung thêm một số ảnh xét thấy có thể góp phần làm cho bộ sách có nhiều dẫn liệu hơn. Giúp vào việc này có các nhà nhiếp ảnh Lê Cường, Võ Văn Tường, và Ðại đức Thích Phước An (phần ảnh chùa miền Trung và miền Nam). So với bộ sách gốc, khối lượng ảnh giờ đây đã phong phú hơn trước, đúng như mong muốn của tác giả trong mấy dòng phụ đề ở cuối tập III. Xin chân thành cảm tạ tấm lòng thịnh tình của tất cả.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Việt Nam Phật Giáo Sử Luận PDF của tác giả Nguyễn Lang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Định Mệnh Linh Hồn (Michael Newton)
Rất khó cưỡng lại việc đọc nghiến ngấu “Destiny of Soul: Định mệnh của Linh hồn,” một khi đã đọc “Journey of Soul: Hành trình của Linh hồn.” Bản dịch tiếng Việt lần này cũng rất tốt. Chuyển ngữ và diễn giải những khái niệm tâm linh và thế giới linh hồn là công việc thách thức. Cám ơn người bạn đã dịch và gửi tặng bản dịch rất nhiều. Trong cuốn này, Michael Newton trình bày chi tiết hơn các tầng lớp và ngã rẽ của thế giới linh hồn. Rất khó khăn để nắm bắt các nội dung được trình bày trong Destiny of Soul. Việc đọc lại và suy ngẫm là cần thiết. Nếu Journey of Soul thay đổi quan niệm sống thì Destiny of Soul mang đến một sự khởi đầu mới. Định mệnh của Linh hồn: Tìm kiếm chân lý thông qua trải nghiệm để có được sự khôn ngoan Tìm mua: Định Mệnh Linh Hồn TiKi Lazada Shopee “Tất cả các linh hồn, cho dù ở mức độ phát triển nào đi chăng nữa, cũng đều có cùng một khao khát tìm kiếm sự hoàn hảo. Yếu tố động lực thúc đẩy để những linh hồn đến Trái đất là sự trưởng thành. Như vậy, dấu vết sự buồn chán của linh hồn là sự vắng mặt các yếu tố làm họ toàn vẹn hơn về mặt năng lượng trong linh hồn bất tử của họ. Và đó là định mệnh của linh hồn để đi tìm kiếm chân lý thông qua trải nghiệm để có được sự khôn ngoan. Điều quan trọng là người còn sống phải biết rằng ước muốn không thể dùng làm thoả hiệp để có được cảm giác đồng cảm, thông cảm và từ bi của linh hồn khi chúng ta đau khổ vì họ.” M. Newton đã phát biểu rất đầy đủ về định mệnh của linh hồn. Cũng cần lưu ý rằng linh hồn có nhiều địa điểm để đi tới chứ không chỉ riêng Trái Đất. Dường như loài người Homo Sapiens có một số lợi thế để hấp dẫn các linh hồn tới học tập - thông qua trải nghiệm các cảm xúc và diễn biến tâm lý phức tạp. Linh hồn sử dụng ngôn ngữ nào? Câu hỏi xuất hiện khi đọc các trao đổi giữa bác sỹ M. Newton và các linh hồn trong cơ thể của người Trái Đất. Ngôn ngữ sử dụng là tiếng Anh và các nhân vật có tên phương Tây. Có thể suy luận khá chắc chắn rằng nếu bác sỹ M. Newton là người Trung Quốc thì cuộc trò chuyện sẽ bằng tiếng Trung các nhân vật sẽ có tên Trung Quốc. Vậy ở thế giới linh hồn các linh hồn sử dụng ngôn ngữ nào? Khả năng là linh hồn không sử dụng bất kỳ ngôn ngữ nào trên Trái Đất. Linh hồn giao tiếp bằng trao đổi năng lượng - rất có thể ở dạng sóng. Bởi linh hồn giao tiếp bằng năng lượng hay sóng năng lượng, nếu muốn giao tiếp với người thân yêu đã từ giã cõi đời hay những linh hồn quan tâm trợ giúp, những người đang sống cần tạo cho bản thân trạng thái tĩnh lặng và thanh thản. Tồn tại tình yêu vĩnh hằng Sự xác nhận tồn tại tình yêu vĩnh hằng trong thế giới linh hồn đem lại cảm giác cực kỳ dễ chịu. Trong thế giới linh hồn tồn tại những cặp đôi phối ngẫu. Những cặp đôi này khi đến học tập tại Trái Đất thường là các cặp vợ chồng. Lưu ý rằng linh hồn không có giới tính nên có sự hoán đổi vợ hay chồng ở Trái Đất giữa các cặp linh hồn phối ngẫu. Các cặp linh hồn phối ngẫu, cũng có thể, dù không thường xảy ra, sống cùng nhau ở Trái Đất như cha mẹ và con cái, hay anh chị em trong gia đình, hay những người bạn chí cốt - những mối quan hệ này thường là giữa các bạn linh hồn (soulmate) trong cùng nhóm (soul group). Linh hồn không cần kết hợp tình dục. Sự giao thoa và đồng điều về năng lượng quan trọng hơn nhiều và mang lại khoái cảm có lẽ còn vượt xa tình dục.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Định Mệnh Linh Hồn PDF của tác giả Michael Newton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Định Mệnh Linh Hồn (Michael Newton)
Rất khó cưỡng lại việc đọc nghiến ngấu “Destiny of Soul: Định mệnh của Linh hồn,” một khi đã đọc “Journey of Soul: Hành trình của Linh hồn.” Bản dịch tiếng Việt lần này cũng rất tốt. Chuyển ngữ và diễn giải những khái niệm tâm linh và thế giới linh hồn là công việc thách thức. Cám ơn người bạn đã dịch và gửi tặng bản dịch rất nhiều. Trong cuốn này, Michael Newton trình bày chi tiết hơn các tầng lớp và ngã rẽ của thế giới linh hồn. Rất khó khăn để nắm bắt các nội dung được trình bày trong Destiny of Soul. Việc đọc lại và suy ngẫm là cần thiết. Nếu Journey of Soul thay đổi quan niệm sống thì Destiny of Soul mang đến một sự khởi đầu mới. Định mệnh của Linh hồn: Tìm kiếm chân lý thông qua trải nghiệm để có được sự khôn ngoan Tìm mua: Định Mệnh Linh Hồn TiKi Lazada Shopee “Tất cả các linh hồn, cho dù ở mức độ phát triển nào đi chăng nữa, cũng đều có cùng một khao khát tìm kiếm sự hoàn hảo. Yếu tố động lực thúc đẩy để những linh hồn đến Trái đất là sự trưởng thành. Như vậy, dấu vết sự buồn chán của linh hồn là sự vắng mặt các yếu tố làm họ toàn vẹn hơn về mặt năng lượng trong linh hồn bất tử của họ. Và đó là định mệnh của linh hồn để đi tìm kiếm chân lý thông qua trải nghiệm để có được sự khôn ngoan. Điều quan trọng là người còn sống phải biết rằng ước muốn không thể dùng làm thoả hiệp để có được cảm giác đồng cảm, thông cảm và từ bi của linh hồn khi chúng ta đau khổ vì họ.” M. Newton đã phát biểu rất đầy đủ về định mệnh của linh hồn. Cũng cần lưu ý rằng linh hồn có nhiều địa điểm để đi tới chứ không chỉ riêng Trái Đất. Dường như loài người Homo Sapiens có một số lợi thế để hấp dẫn các linh hồn tới học tập - thông qua trải nghiệm các cảm xúc và diễn biến tâm lý phức tạp. Linh hồn sử dụng ngôn ngữ nào? Câu hỏi xuất hiện khi đọc các trao đổi giữa bác sỹ M. Newton và các linh hồn trong cơ thể của người Trái Đất. Ngôn ngữ sử dụng là tiếng Anh và các nhân vật có tên phương Tây. Có thể suy luận khá chắc chắn rằng nếu bác sỹ M. Newton là người Trung Quốc thì cuộc trò chuyện sẽ bằng tiếng Trung các nhân vật sẽ có tên Trung Quốc. Vậy ở thế giới linh hồn các linh hồn sử dụng ngôn ngữ nào? Khả năng là linh hồn không sử dụng bất kỳ ngôn ngữ nào trên Trái Đất. Linh hồn giao tiếp bằng trao đổi năng lượng - rất có thể ở dạng sóng. Bởi linh hồn giao tiếp bằng năng lượng hay sóng năng lượng, nếu muốn giao tiếp với người thân yêu đã từ giã cõi đời hay những linh hồn quan tâm trợ giúp, những người đang sống cần tạo cho bản thân trạng thái tĩnh lặng và thanh thản. Tồn tại tình yêu vĩnh hằng Sự xác nhận tồn tại tình yêu vĩnh hằng trong thế giới linh hồn đem lại cảm giác cực kỳ dễ chịu. Trong thế giới linh hồn tồn tại những cặp đôi phối ngẫu. Những cặp đôi này khi đến học tập tại Trái Đất thường là các cặp vợ chồng. Lưu ý rằng linh hồn không có giới tính nên có sự hoán đổi vợ hay chồng ở Trái Đất giữa các cặp linh hồn phối ngẫu. Các cặp linh hồn phối ngẫu, cũng có thể, dù không thường xảy ra, sống cùng nhau ở Trái Đất như cha mẹ và con cái, hay anh chị em trong gia đình, hay những người bạn chí cốt - những mối quan hệ này thường là giữa các bạn linh hồn (soulmate) trong cùng nhóm (soul group). Linh hồn không cần kết hợp tình dục. Sự giao thoa và đồng điều về năng lượng quan trọng hơn nhiều và mang lại khoái cảm có lẽ còn vượt xa tình dục.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Định Mệnh Linh Hồn PDF của tác giả Michael Newton nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.