Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cánh Diều No Gió (Thành Đô)

Ngày nay đời sống vật chất và tinh thần của thiếu nhi đã được nâng lên rõ rệt. Các em được vui chơi, học tập, được gia đình và cộng đồng thường xuyên quan tâm, chăm sóc để phát triển một cách toàn diện. Bên cạnh các môn khoa học, các em còn được tiếp xúc với một số nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, thi ca… Tuy nhiên vẫn còn nhiều người chưa ý thức được vai trò của thơ ca trong việc gieo hạt giống tâm hồn và giáo dục nhân cách cho thiếu nhi. So với các đề tài khác thì hiện nay thơ viết cho thiếu nhi vẫn còn ít và những bài thơ có thể lôi cuốn, hấp dẫn được các em chưa nhiều. Song vẫn còn đâu đó những nhà thơ bằng tình yêu dành cho lứa tuổi thần tiên đã viết lên những vần thơ trong trẻo, trẻ trung, đáng yêu, đầy tính sáng tạo và chứa chan tình cảm. Thành Đô là một nhà thơ như vậy!

Trên tay quý độc giả là tập thơ “Cánh diều no gió” một thi tập rất tâm huyết của anh.

Còn nhớ ở thế hệ chúng tôi khi còn nhỏ hầu như ai cũng say mê đọc truyện: “Dế Mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài - tập truyện không chỉ có cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn mà còn giàu giá trị nhân văn và có tính giáo dục cao.

Về thơ thì chủ yếu là đọc thơ Trần Đăng Khoa bởi thơ anh hồn nhiên, trong sáng, giàu tính nhân văn. Giờ đây các em nhỏ thường thích đọc truyện tranh hơn bởi truyện tranh với những hình vẽ rất sinh động, bắt mắt làm khơi gợi trí tò mò và tưởng tượng của người đọc, các nhân vật trong truyện rất đa dạng, câu chuyện và lời thoại ngắn. Truyện tranh thường mang tính chất giải trí nhiều hơn là mang tính giáo dục và nghệ thuật.

Trở lại với tác giả Thành Đô, ông không viết truyện mà đưa các em đến với những vần thơ giản dị, dễ hiểu mà chứa đựng ý nghĩa rất sâu sắc. Tất cả những gì diễn ra xung quanh cuộc sống của lứa tuổi thần tiên cùng những câu truyện dân gian mà tác giả sưu tầm được ông đã viết thành thơ, rất sinh động, dễ đọc và dễ nhớ. Tìm mua: Cánh Diều No Gió TiKi Lazada Shopee

Hãy xem nhà thơ đưa các em nhỏ đến với bầu trời mơ ước qua cánh diều no gió: “Diều được làm từ tre/ Toàn thân làm bằng giấy/ Còn có tiếng sáo trong/ Chiều chiều ở trên đê/ Trời trong xanh gió mát/ Cưỡi trâu đi thả diều/ Diều bay vút lên cao/ Vì gặp làn gió mát/ Chơi diều là thú vui/ Nghe tiếng sáo vui tai/ Lại còn ngắm trời xanh/ Cùng diều bay no gió”; (Chơi thả diều). Tác giả tiếp tục đưa các em đi khám phá thế giới nhiệm màu: “Trăng tròn như quả bóng/ Lơ lửng trên bầu trời/ Mãi mãi mà không rơi/ Em đi trăng đi theo/ Để soi sáng con đường/ Cho em đi khỏi ngã” (Trăng và em).

Cái hay của thơ Thành Đô là ở tính giáo dục. Thông qua thi phẩm của mình anh đã dạy các em nhỏ nhiều bài học quý để các em tiếp nhận một cách rất tự nhiên, nhẹ nhàng: “Em bé ngoan/ Em bé giỏi/ Thích xem tranh/ Thì nhẹ nhàng/ Giở từng tờ/ Không làm nhàu/ Thì tranh đẹp” (Học giở sách). Nhà thơ dẫn dắt các em nhỏ vào các câu chuyện lôi cuốn, hấp dẫn và lồng ghép vào đó sự giáo dục về nhân cách đạo đức rất khéo léo. Đó là bài học về sự nhường nhịn nhau trong cuộc sống để tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc: “Có hai chú Dê con/ Cùng qua một cái cầu/ Đến giữa cái cầu nọ/ Nhưng không ai nhường ai/ Cả hai đành húc nhau/ Và cùng nhau xuống vực/ Đáng đời hai Dê con/ Vì không biết nhường nhịn” (Hai Dê con). Đó là bài học về sự dũng cảm, sẵn sàng giúp đỡ người khác những lúc khó khăn, những lúc nguy nan: “Chú Thỏ con tội nghiệp/ Bị Cáo chiếm mất nhà/ Trâu muốn cứu giúp Thỏ/ Nhưng chẳng biết làm sao/.

Chú Gà trống dũng cảm/ Đã dụ được con Cáo/ Thò đầu ra cửa sổ/ Liền bị mỏ nhọn hoắt/ Mổ liên hồi vào đầu/ Cáo già không chịu được/ Bèn chạy biến vào rừng.” (Chú gà trống dũng cảm). Ở bài “Cái kim đồng hồ”; tác giả đã thông qua cách hướng dẫn xem giờ để nhắc nhở các em phải học bài chăm chỉ, đúng giờ: “Kim ngắn chỉ giờ/ Kim dài chỉ phút/ Kim ngắn chạy chậm/ Kim dài chạy nhanh/ Đến giờ học rồi/ Ta phải học thôi!”.

Và đây là bài học về sự an toàn, giúp các em ngay từ nhỏ đã có hiểu biết và ý thức khi tham gia giao thông: “Đến giữa ngã tư/ Bé cần người dắt/ Đi qua ngã tư/ Cột đèn xanh đỏ/ Nhắc bé điều gì?/ Màu đỏ dừng lại/ Màu xanh bé đi/ Màu vàng bé đợi/ Bé ơi nhớ nhé!” (Đi qua ngã tư). Trong tập thơ này Thành Đô đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật miêu tả, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… để làm toát lên dụng ý nghệ thuật của mình: “Mèo con ơi! Mèo con!/ Khăn mặt đâu không lấy?/ Mà dùng tay để lau/ Lại còn dùng lưỡi liếm/ Ôi, thật là bẩn quá!/ Làm thế không sạch đâu!” (Mèo rửa mặt). Không những thế tập thơ còn cho thấy cái tài quan sát của tác giả. Chính vì có óc quan sát, luôn tìm tòi, khám phá lại vận dụng vào thơ rất khéo léo, tài tình nên thơ ông tránh được sự khô khan, tẻ nhạt: “Tôi là một con rùa/ Sinh ra nơi biển cả / Tôi đội cả mái nhà/ Không sợ mưa sợ nắng/ Tôi bước đi chậm chạp/ Mỗi khi tôi mệt mỏi/ Hay có kẻ thù nào/ Thì đầu tôi rụt vào/ Cả chân và đuôi nữa” (Tôi là một con rùa). Tập thơ: “Cánh diều no gió” đã cho thấy tình yêu của tác giả Thành Đô dành cho thơ và cho tuổi thần tiên.

Thơ anh chân thật, mộc mạc mà sâu sắc, lắng đọng lại trong tâm trí người đọc. Đó là những vần thơ chứa đựng giá trị nhân văn cao cả. Tin rằng tập thơ sẽ nằm ở một vị trí trang trọng tủ sách yêu thích của mỗi gia đình.

Nhà báo Vương Hùng

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cánh Diều No Gió PDF của tác giả Thành Đô nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

CHUYỆN CÔ CẦM - NGUYỄN DU (LONG THÀNH CẦM GIẢ CA)
Thành Thăng Long nhớ từ thửa nọBậc giai nhân tên họ ai hayÐàn cầm thánh thoát mấy dâyKhắp thành quen miệng gọi ngay Nàng Cầm“Cung Phụng khúc” xưa ngâm trong NộiPhổ nên chương tiếng nổi một thời Nhớ ngày đương độ vui chơiGiám Hồ yến tiệc gặp người tài hoaTuổi hăm mốt nõn nà lộng lẫyGió xuân êm hây hẩy bông đàoMen tô duyên não nùng saoNỉ non năm tiếng thấp cao tuyệt vờiTheo tay ngọc lòng người ủ rũTiếng bổng trầm to nhỏ miên manKhoan như gió lướt thông ngànTrong như tiếng hạc lạc đàn kêu sươngMạnh như sấm phũ phàng xé đáTiến Phúc bia nổ phá ầm ầmBuồn như khúc Việt ai ngâmNỗi lòng Trang Tích âm thầm mà đauÐiệu êm ấm nghe lâu chẳng mỏiChính khúc này Ðại Nội triều xưaTây Sơn quân tướng thẫn thờNgả nghiêng đến sáng còn chưa thỏa lòngQuăng lụa thưởng tây đông tíu títVàng tựa bùn cứ việc vung tayCông hầu hào khí đua sayNgũ lăng niên thiếu một bày sá chi
BÙI KIỆM DẶM - NGUYỄN VĂN TRÒN
BÙI KIỆM DẶM - NGUYỄN VĂN TRÒN
VIỆT HÁN VĂN KHẢO (1938) - PHAN KẾ BÍNH
Phan Kế Bính (1875 - 1921) là một nhà nho học tinh thâm và cũng là nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Cuốn  Việt Hán Văn Khảo (tiếng Pháp: Études Sur La Littérature Sino-Annamite) của ông được in lần đầu tiên vào năm 1918. Phan Kế Bính (1875 - 1921) là một nhà nho học tinh thâm và cũng là nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Cuốn  (tiếng Pháp: Études Sur La Littérature Sino-Annamite) của ông được in lần đầu tiên vào năm 1918. Sau khi Phan Kế Bính mất 17 năm, vào năm 1938, nhà xuất bản Nam Ký đã cho in lại tái bản. Cuốn sách được xem như người hướng đạo và kim chỉ nam cho những ai muốn nhập tịch làng văn.  "Nước Việt-Nam ta, xưa nay chẳng thiếu gì danh văn kiệt tác, tuy lý-tưởng so với Âu văn cũng khi hẹp hòi thực, song những ý tứ cao kỳ, những lời nói chính đáng, những vẻ châu ngọc gấm thêu, cũng đủ lưu truyền làm gương soi chung cho một nước thì cũng có thể tự phụ được là một nước có văn-chương. Văn-chương của ta phần nhiều lại có gốc ở nước Tầu. Nay ta muốn biết văn-chương của ta thì trước hết lại nên tham khảo đến văn-chương của Tầu nữa. Mà muốn biết cho đến nơi đến chốn, cho tường tận thủy chung, thì lại phải xét xem căn-nguyên văn-chương ở đâu mà ra, thể cách văn chương thế nào, lý thú làm sao, kết quả được những gì, trình độ mỗi thời biến đổi làm sao, có xét kỹ như thế thì mới biết được hết nguồn gốc văn-chương. Ký-giả vì lẽ ấy ra tập Việt-Hán văn khảo này, chủ ý cốt nghị luận kê cứu về mục văn-chương của ta và của Tầu, trước là để lưu truyền cái tinh-thần, cái lề lối văn-chương của cổ nhân, sau là để giúp thêm một chút vào việc khảo cứu trong mục văn-chương cho hậu nhân vậy". (Trích phần Tự Ngôn - Việt Hán văn khảo) Sau khi Phan Kế Bính mất 17 năm, vào năm 1938, nhà xuất bản Nam Ký đã cho in lại tái bản. Cuốn sách được xem như người hướng đạo và kim chỉ nam cho những ai muốn nhập tịch làng văn.  "Nước Việt-Nam ta, xưa nay chẳng thiếu gì danh văn kiệt tác, tuy lý-tưởng so với Âu văn cũng khi hẹp hòi thực, song những ý tứ cao kỳ, những lời nói chính đáng, những vẻ châu ngọc gấm thêu, cũng đủ lưu truyền làm gương soi chung cho một nước thì cũng có thể tự phụ được là một nước có văn-chương. Văn-chương của ta phần nhiều lại có gốc ở nước Tầu. Nay ta muốn biết văn-chương của ta thì trước hết lại nên tham khảo đến văn-chương của Tầu nữa. Mà muốn biết cho đến nơi đến chốn, cho tường tận thủy chung, thì lại phải xét xem căn-nguyên văn-chương ở đâu mà ra, thể cách văn chương thế nào, lý thú làm sao, kết quả được những gì, trình độ mỗi thời biến đổi làm sao, có xét kỹ như thế thì mới biết được hết nguồn gốc văn-chương. Ký-giả vì lẽ ấy ra tập Việt-Hán văn khảo này, chủ ý cốt nghị luận kê cứu về mục văn-chương của ta và của Tầu, trước là để lưu truyền cái tinh-thần, cái lề lối văn-chương của cổ nhân, sau là để giúp thêm một chút vào việc khảo cứu trong mục văn-chương cho hậu nhân vậy". (Trích phần Tự Ngôn - Việt Hán văn khảo)
KIM VÂN KIỀU TRUYỆN (1875) - TRƯƠNG VĨNH KÝ
Năm 1875, hơn nửa thế kỷ sau khi Nguyễn Du mất, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) đã xuất bản quyển “Kim, Vân, Kiều truyện” quốc ngữ. Đây là quyển truyện Kiều chuyển từ chữ Nôm (nho, nhu) sang “quốc ngữ” đầu tiên trong văn học Việt Nam. Không thấy ông Ký nói đã chuyển ngữ Kiều từ bản in nào. Trong lời tựa bằng tiếng Pháp, ông Ký chỉ ghi, đây là truyện thơ mà “mọi người đều thuộc lòng, bất kể là trẻ già hay trai gái”. Mọi người là những ai? Thuộc giai tầng nào? Chắc rằng, không phải là những người thuộc tầng lớp ăn trên ngồi chốc trong xã hội thời bấy giờ. ... "Không thể so sánh với văn chương khắp các nước, ta hẵng so sánh với văn chương hai nước có liền tiếp quan hệ với ta, là văn chương Tàu và văn chương Pháp. Văn chương Tàu thật là mông mênh bát ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên điền ta biến hóa hẳn, siêu việt ra ngoài cả lề lối văn chương Tàu, đột ngột như một ngọn cô phong ở giữa đám quần sơn vạn hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi đát thảm thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ điệu có véo von, thanh âm có réo rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn chương chân chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự "kết cấu". Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho nhỏ ngăn ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sành cách kết cấu. Biên tập là cóp nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế, mà là một bức tranh thế thái nhân tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy. Xét về cách kết cấu thì văn chương nước Pháp lại là sở trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi văn kiệt tác của quí quốc, như một bài bi kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể tài văn chương. Còn về đường tinh thần thời trong văn học Pháp có hai cái tinh thần khác nhau, là tinh thần cổ điển và tinh thần lãng mạn. Tinh thần cổ điển là trọng sự lề lối, sự phép tắc; tinh thần lãng mạn là trong sự khoáng đãng, sự li kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh thần ấy, vì vừa có cái đạo vị thâm trầm của Phật học, vừa có cái nghĩa lý sáng sủa của Nho học, vừa có cái phong thú tiêu dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần bí của nhà chùa, sự khoáng dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc sắc mà những nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy là sự "phổ thông". Phàm đại văn chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng lưu học thức mới thưởng giám được, kẻ bình dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Nhưng Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, "lẩy" Kiều để ứng dụng trong sự ngôn ngữ thường, kẻ thông minh hiểu cách thâm trầm, kẻ tầm thường hiểu cách thô thiển, nhưng ngâm nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn. Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự cao với thế giới là văn chương chung của cả một dân tộc 18, 20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả." Trích: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều (1924) ... "Không thể so sánh với văn chương khắp các nước, ta hẵng so sánh với văn chương hai nước có liền tiếp quan hệ với ta, là văn chương Tàu và văn chương Pháp. Văn chương Tàu thật là mông mênh bát ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên điền ta biến hóa hẳn, siêu việt ra ngoài cả lề lối văn chương Tàu, đột ngột như một ngọn cô phong ở giữa đám quần sơn vạn hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi đát thảm thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ điệu có véo von, thanh âm có réo rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn chương chân chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự "kết cấu". Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho nhỏ ngăn ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sành cách kết cấu. Biên tập là cóp nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế, mà là một bức tranh thế thái nhân tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy. Xét về cách kết cấu thì văn chương nước Pháp lại là sở trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi văn kiệt tác của quí quốc, như một bài bi kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể tài văn chương. Còn về đường tinh thần thời trong văn học Pháp có hai cái tinh thần khác nhau, là tinh thần cổ điển và tinh thần lãng mạn. Tinh thần cổ điển là trọng sự lề lối, sự phép tắc; tinh thần lãng mạn là trong sự khoáng đãng, sự li kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh thần ấy, vì vừa có cái đạo vị thâm trầm của Phật học, vừa có cái nghĩa lý sáng sủa của Nho học, vừa có cái phong thú tiêu dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần bí của nhà chùa, sự khoáng dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc sắc mà những nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy là sự "phổ thông". Phàm đại văn chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng lưu học thức mới thưởng giám được, kẻ bình dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Nhưng Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, "lẩy" Kiều để ứng dụng trong sự ngôn ngữ thường, kẻ thông minh hiểu cách thâm trầm, kẻ tầm thường hiểu cách thô thiển, nhưng ngâm nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn. Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự cao với thế giới là văn chương chung của cả một dân tộc 18, 20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả." Trích: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều (1924)