Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đóa Hồng Quỷ Quyệt

Phần tiếp theo của loạt series trinh thám ăn khách bậc nhất Vườn Bướm Đêm Được độc giả đánh giá bằng những cảm xúc chân thật nhất: lôi cuốn, ám ảnh đến nghẹt thở. Bốn tháng sau vụ nổ ở Vườn, nơi giam giữ những người phụ nữ trẻ được biết đến với cái tên Bướm Đêm, các đặc vụ FBI Brandon Eddison, Victor Hanoverian và Mercedes Ramirez vẫn kiên trì giải quyết hậu quả, giúp những người sống sót trong quá trình thích nghi với cuộc sống bên ngoài. Khi mùa đông sắp kết thúc, những nàng Bướm Đêm có thời gian chữa bệnh dài và ấm áp hơn ở phía trước. Nhưng đối với các đặc vụ, khi băng tuyết tan có nghĩa là một điều khủng khiếp sẽ xảy đến: một lời đảm bảo ớn lạnh rằng ở nơi nào đó trên đất nước này, một phụ nữ trẻ khác sẽ chết trong một nhà thờ với vết rạch cổ họng và cơ thể được bao quanh bởi hoa. Em gái của Priya Sravasti đã trở thành nạn nhân của kẻ sát nhân nhiều năm trước. Bây giờ cô ấy và mẹ cô ấy chuyển nhà vài tháng một lần, hy vọng vào một khởi đầu mới. Nhưng khi cô ấy sa vào cái bẫy của kẻ điên, cuộc đi săn diễn ra theo chiều hướng mới. Chỉ với sự giúp đỡ của Priya, kẻ sát nhân mới có thể bị vạch trần, nhưng liệu hy vọng mãnh liệt có thôi thúc cô ấy đặt cuộc sống của mình vào tình thế hiểm nguy? *** Dot Hutchison là tác giả cuốn A Wouned Name (tạm dịch: Cái tên bị thương tổn), một tiểu thuyết về người trẻ dựa trên tác phẩm Hamlet của Shakespeare, và tiểu thuyết trinh thám người lớn Vườn Bướm Đêm. Với kinh nghiệm làm việc tại một trại Hướng đạo sinh nam, một cửa hàng đồ thủ công, một hiệu sách và một Hội chợ Phục hưng 9vowis tư cách là một quân cờ người), Hutchison tự hào mình luôn giữ được niềm vui như thiếu nữ trong nội tâm của mình. Cô yêu các cơn bão, truyện thần thoại, lịch sử và các bộ phim có thể và nên được xem đi xem lại. *** Tên nàng là Darla Jean Carmichael và nàng là mối tình đầu của anh. Nhưng anh thật sự vẫn chưa biết gì về nàng đâu. Điều duy nhất mà anh biết, trong ngày xuân tươi đẹp này, chỉ là dường như ngay cả Chúa cũng dốc tâm dốc sức làm nàng trở nên lộng lẫy hơn. Nàng là vẻ đẹp thuần túy, chân thật, không giả tạo cũng chẳng phô trương; và đó là lý do vì sao anh yêu nàng. Mái tóc vàng óng ả của nàng đổ những lọn sóng xuống tấm lưng và nàng đang mặc lại chiếc váy trắng Phục sinh kiểu cổ của mình, thậm chí còn mang găng tay đăng ten và đội mũ kết đăng ten. Anh đã từng chiêm ngưỡng một tuyệt tác nào đẹp đến dường này chưa? Thuần túy tới dường này chưa? Và ngay cả thiên nhiên hôm nay cũng đồng ý với anh. Dọc hai bên con đường đầy bụi và không một bóng cây dẫn tới nhà thờ, cỏ mọc xanh rì lẫn với những bụi thủy tiên cả vàng cả trắng, như thể chúng không hề có ý định vươn cao hơn để với tới Darla Jean. Kể cả những đóa cúc đại cũng chỉ mang hai sắc vàng, trắng, và từ bấy đến nay chúng chỉ như những dải ruy băng tô điểm cho hoa oải hương tím nhẹ nhàng chạy xuyên qua những cánh đồng. Nhưng năm nay chỉ có Darla Jean mà thôi. Ngoại trừ… đó không hoàn toàn là Darla Jean. Tay nàng vòng qua cánh tay của một gã trai trẻ, bấu lấy khuỷu tay gã như thể tay nàng thuộc về nơi ấy, nhưng thật sự nó không dành cho nàng. Bàn tay nàng không thuộc về nơi đó vì gã kia không phải anh. Darla Jean là của anh. Nàng luôn là của anh. Nàng chưa từng cần anh nói với nàng điều này, bản thân nàng luôn biết nàng là của anh, theo cách mà nàng nên thế, bởi hai người sinh ra là dành cho nhau, bất kể người khác có nói gì nếu biết về điều này. Giận dữ, tan nát, anh theo họ tới nhà thờ nhỏ xây bằng gạch, tựa lưng vào hằng hà sa số những cây hoa đang thì rực rỡ, khiến cho nhà thờ trông như một mũi kim. Bằng cách nào đó, mặc dù cảm xúc đang chạy đua dồn dập trong hai tai anh như một nhịp tim khác, anh vẫn có thể cảm nhận được những điều khác. Bàn tay còn lại của gã trai kia cầm một cái lẵng chứa những kỷ vật mà mẹ nàng muốn nàng mang tới lễ đường, mỗi món được gói lại cẩn thận để bán nhằm quyên góp cho nhà thờ xây lại phần ngói mới trước khi mùa bão tới. Hắn cứ tựa vào nàng mỗi khi nàng cười. Còn nàng thì đang cười rất nhiều. Nhưng những thanh âm đó là của anh, giống như mọi thứ thuộc về nàng, chúng là của anh, làm sao nàng lại có thể chia sẻ chúng với một người khác cơ chứ? Tiếng cười ấy đã luôn vỗ về anh, xoa dịu cơn giận dữ đang bùng nổ trong anh. Nhưng giờ đây mỗi khi nghe thấy tiếng cười của nàng - lanh lảnh và mềm mại, tựa như những ngọn gió trên mái hiên nhà sau - anh đều cảm thấy đau nhói trong lồng ngực, một vọng âm nhói cả óc. Họ cùng tiến vào lễ đường và chỉ một hai phút sau, anh đã tìm thấy một ô cửa sổ nơi anh vừa có thể nhìn thấy họ rõ ràng, vừa tránh bị phát hiện. Nàng không nên biết anh đang ở đó để chứng kiến nàng đã nợ anh những gì và lẽ ra nàng nên cư xử như thế nào. Bên trong lễ đường, những mảng tối sáng của ánh mặt trời rực rỡ ngoài kia đan vào nhau tạo nên một khoảng không mơ hồ khiến anh không thể biết điều gì đang diễn ra trong đó. Nhưng rồi anh nhận ra. Tất cả những gì anh thấy là máu. Gã đang hôn nàng, hay nàng đang hôn gã, hai gương mặt nghiêng về phía nhau, còn cơ thể hai người chỉ cách nhau có một gang tay. Đó có lẽ là nụ hôn đầu của gã. Anh biết đó là nụ hôn đầu của nàng. Nụ hôn mà lẽ ra phải thuộc về anh - nụ hôn anh đã đợi chờ suốt những năm tháng qua. Nhưng thật kỳ lạ, anh lại đang chúc phúc cho nàng, bởi anh biết rằng nàng quá thuần khiết, quá trong sáng và không đáng bị những hờn ghen vớ vẩn bôi nhọ. Nàng quả thật quá thuần khiết. Quá trong sáng. Anh trượt xuống bức tường bao ngoài nhà thờ, những mảnh gạch ngói thô ráp cào xước và xuyên qua áo quần, đâm vào da thịt anh đau nhói. Anh rùng mình - có lẽ anh đang khóc. Làm sao nàng có thể? Làm sao nàng có thể làm điều đó cho chính nàng, và cho anh? Làm sao nàng có thể để chính mình bị bôi nhọ? Bây giờ nàng chẳng có giá trị gì, chẳng khác chi những cô gái điếm ngoài kia, lúc nào cũng phô bày cơ thể, nụ cười cùng ánh mắt vừa độc ác vừa lọc lõi của mình. Thế mà, anh những tưởng đã có thể tôn thờ nét tinh khôi của nàng cho tới hơi thở cuối cùng. Nhưng anh vẫn yêu nàng. Làm sao anh có thể vẫn yêu nàng cơ chứ? Tình yêu anh dành cho nàng đủ lớn để cứu rỗi nàng, ngay cả khi anh phải cứu nàng khỏi chính nàng. Anh nghe thấy tiếng cậu bé rời đi, một lời xin lỗi buột khỏi đôi môi cậu - cậu phải rời đi để giúp những người anh em chuẩn bị sẵn sàng. Anh nghe thấy tiếng cha xứ vui vẻ chào Darla Jean. Cha nói với nàng rằng cha phải vào thị trấn để mua cốc đựng nước chanh - và hỏi liệu nàng sẽ ổn khi ở một mình chứ. Đương nhiên nàng sẽ ổn. Nàng lớn lên trong chính nhà thờ này. Nơi đây là mái ấm an toàn của nàng. Nàng chẳng thể tưởng tượng ra thế giới ngoài kia, nơi không phải lúc nào mọi thứ cũng thật, cũng đúng. Trong khi nhìn theo bóng cha xứ đi xuống phía con đường, xa dần, xa dần, anh bỗng nghe thấy nàng cất tiếng hát. Những bài hát của nàng cũng là của anh và không ai khác có thể nghe chúng lúc này. Nàng chào anh bằng một nụ cười thành tiếng khi anh đi vào lễ đường, đôi mắt nàng bừng sáng. Anh không thể gọi đó là chân thật. Không còn chân thật nữa. Không hề chân thật khi mà giờ đây nàng đã mất đi sự trong sáng. Nụ cười của nàng trở nên ngượng ngùng khi anh tới gần. Nàng có đủ dũng khí để hỏi anh rằng vấn đề ở đây là gì. Anh biết anh chẳng có nhiều thời gian - từ đây vào thị trấn chỉ chưa tới hai dặm và cha xứ thường xuyên đi bộ tới đó - nhưng anh có đủ thời gian để nói cho nàng nghe. Anh sẽ nói cho nàng nghe mọi điều. Anh đã hứa sẽ ở bên nàng cả cuộc đời, anh sẽ luôn ở đó khi nàng cần. Anh đã hứa cho nàng cả thế giới. Nhưng nàng đã ném lời hứa đó đi. Đó hoàn toàn là lỗi của nàng. Anh đã bỏ chạy thật nhanh, trong lòng vẫn sục sôi những tổn thương và phản bội. Darla Jean ở lại phía sau, nằm dài trên tảng đá, chiếc váy Phục sinh tan tác và rách vụn, như vừa được lôi lên từ một bể nước đỏ. Những đóa thủy tiên anh ngắt cho nàng - một món quà và hãy xem nàng đã làm gì với nó kìa - đang nằm la liệt xung quanh nàng. Đôi mắt nàng mở to và trống rỗng, một tiếng vang của nỗi hoang mang, và anh đã trao cho nàng một nụ cười nham nhở mà nàng có thể chia sẻ cho cả thế giới nếu nàng muốn. Nàng không thể cười, không thể hát, không thể phá hủy những thứ là của anh nữa. Nàng không thể làm gì nữa. Có lẽ đây không phải là điều anh mong muốn. Có lẽ lưỡi dao săn mồi của anh đã trượt khỏi tay và đâm quá sâu. Có lẽ anh đã quên rằng có quá nhiều máu gần với bề mặt. Có lẽ anh đã hành động đúng như những gì anh mong muốn. Sau tất cả nàng cũng chỉ là một cô gái điếm. Giờ đây Darla Jean đã chết. Anh không hề biết nàng là mối tình đầu của anh. Có điều này anh chưa biết, nàng cũng không phải là người cuối cùng của anh. Mời các bạn đón đọc Đóa Hồng Quỷ Quyệt của tác giả Dot Hutchison & Hoài Thu (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.
Ngôi Nhà Số 12 - John Milne
Nancy bốn mươi sáu tuổi, một người phụ nữ trầm lặng, cô đơn, sống cô độc trong ngôi nhà và mớ tài sản do cha mẹ cô để lại. Chẳng có người bạn nào bên cạnh, Nancy đến Eastbourne để nghỉ dưỡng và kiếm bạn mới. Và cô đã gặp được Henry John, xấp xỉ ngũ tuần, góa vợ và đang sống cùng người em Isobel Jones trong một thị trấn nhỏ gần London. Cuộc gặp gỡ với Henry đã khiến Nancy nghĩ rằng từ nay cô sẽ không bao giờ phải cô đơn nữa. Nhưng Nancy đâu ngờ rằng, sau hôn lễ lặng lẽ, một cuộc đời bi đát hơn đang chờ đợi cô trong ngôi nhà mang số 12 đại lộ Rừng Sồi... Tình tiết nhanh, ngắn gọn, John Milne một lần nữa mang đến độc giả một bí ẩn mới đậm chất John Milne như đã từng gặp trong các tác phẩm như Con mèo đen, Đường hầm, Oliver Twist,... Liệu văn phòng thám tử Terry Mason và những người bạn của mình có phát hiện ra được bí mật đen tối trong ngôi nhà số 12? Liệu Nancy có thoát khỏi căn nhà u ám đó trước khi quá muộn hay chịu nằm chờ chết trong tuyệt vọng? Tất cả còn chờ các bạn độc giả cùng khám phá. *** Những nhân vật trong truyện Nancy Robert là một thiếu phụ bốn mươi tuổi. Cô ta đã sống cùng gia đình nhiều năm ở Ấn Độ. Đến năm 1970, gia đình cô chuyển sang nước Anh sinh sống. Cha mẹ cô giờ đây đã chết. Nancy trở thành một người phụ nữ trầm lặng và cô đơn. Henry John xấp xỉ tuổi ngũ tuần và góa vợ. Vợ hắn đã mất một năm trước đây. Isobel Jones trạc tuổi Nancy. Cô ta sống với anh trai mình là Henry John trong một thị trấn nhỏ gần London. Terry Mason là một người làm công tác văn phòng nhưng anh ta không thích công việc của mình. Anh ta luôn muốn trở thành thám tử. Một ngày nọ, Terry được hưởng một số tiền từ di chúc của người cậu quá cố, và giờ đây Terry Mason đã lập một văn phòng thám tử tư. Sheila Williams là bạn của Terry Mason trong nhiều năm. Cô ta làm việc cho một văn phòng môi giới bất động sản. Bill Evans là một người giao sữa. Anh ta lái một chiếc xe chở sữa đi đến các căn hộ để giao sữa vào mỗi sáng sớm. Tom Matthews là một cậu bé bán báo mười ba tuổi. Cậu ta cũng giao báo đến các hộ trong khu phố vào mỗi sáng sớm. Bob Wilkinson là một người bạn của Terry. Anh ta làm việc tại Sở Xã Hội. Gordon Burgess là bạn của bạn Terry. Anh ta làm việc tại Tòa Thị Chính.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Số 12 của tác giả John Milne.