Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vết Nhơ Của Người

Coleman Silk, một giáo sư đại học đáng kính, hẳn đã không bao giờ ngờ được rằng sau gần nửa thế kỷ qua mặt cả thế giới với một bí mật vĩ đại, cuộc đời ông lại bị hủy hoại bắt đầu từ một lời buộc tội ngớ ngẩn và dối trá: tội phân biệt chủng tộc. Vết nhơ của người là một bi kịch lạ thường, một kiệt tác đầy trăn trở về con người bị nghiền nát bởi những nỗi ám ảnh đạo đức và thanh tẩy của kẻ khác. Tràn ngập những hồi tưởng, những đối thoại, những suy nghĩ đẩy cốt truyện xuống hàng hầu như thứ yếu, nhạo báng pha trộn với trắc ẩn, lạnh lùng đặt kế bên cuồng nộ, Vết nhơ của người đã viết về thân phận con người với một sự mãnh liệt có thể khiến người đọc nghẹt thở. Lần theo cuộc đời đáng kinh ngạc của giáo sư Silk, Philip Roth, bằng một bút lực chưa bao giờ thất bại trong việc biến tác phẩm của mình trở thành một trải nghiệm đọc vừa thử thách vừa khoan khoái, đã đặt ra những câu hỏi quyết liệt về những thứ nhãn dán mà xã hội áp đặt lên con người, thậm chí cả về cái ranh giới phân chia thiện-ác mà từ lâu đã hằn sâu trong nhận thức nói chung. *** AI CŨNG BIẾT Chính vào mùa hè năm 1998 ấy mà ông hàng xóm Coleman Silk của tôi - ông này, trước khi nghỉ hưu cách nay hai năm, vốn là giáo sư môn văn học Hy La ở Đại học Athena trong thị trấn suốt hơn hai chục năm sau đó làm chủ tịch hội đồng giảng viên thêm mười sáu năm nữa - tâm sự với tôi rằng, ở tuổi bảy mốt, ông đang dan díu với một cô lao công ba mươi tư tuổi đang làm việc ở trường. Ngoài ra hai lần một tuần cô còn lau dọn trạm bưu điện thị trấn, một căn chòi gỗ nhỏ xám xịt trông cứ như nó từng che chở một gia đình dân ngụ cư tới từ Oklahoma khỏi những cơn bão cát hồi thập niên 1930 và, đứng một mình lẻ loi đối diện trạm xăng và cửa hàng tạp hóa bên kia đường, nó giương cao lá cờ Mỹ tại giao lộ của hai con đường sầm uất nhất cái thị trấn phố núi này. Coleman thấy cô lần đầu tiên khi cô đang lau sàn trạm bưu điện một ngày nọ ông ghé vào, vài phút trước giờ đóng cửa, để nhận thư từ - một phụ nữ gầy, cao, góc cạnh với mái tóc vàng nhuốm bạc cột gọn thành túm đuôi ngựa sau gáy và có nét mặt như tạc, kiểu tạc thô, thường đi liền với những bà vợ lam lũ, sùng đạo đã nếm trải những buổi đầu vất vả của miền New England, mẫu phụ nữ thuộc địa khắc khổ bị khóa chặt trong nền luân lý thống trị thời đó và tuân theo nó. Tên cô là Faunia Farley, và dù những nỗi khốn khổ mà cô phải chịu đựng là gì đi chăng nữa thì cô cũng giấu kín chúng đằng sau cái kiểu mặt xương xương vô hồn như thể nó che chẳng giấu điều gì mà chỉ toát lên một nỗi cô đơn mênh mông. Faunia sống trong một căn phòng tại trại bò sữa địa phương nơi cô phụ việc vắt sữa để trừ tiền thuê trọ. Cô từng theo học trung học trong hai năm. Mùa hè mà Coleman tâm sự với tôi về Faunia Farley và bí mật của họ cũng là mùa hè mà, khá trùng hợp, bí mật của Bill Clinton được hé lộ tới từng chi tiết đáng xấu hổ cuối cùng - từng chi tiết đời thực cuối cùng, sự sống động, giống như sự nhục nhã, ứa ra từ sự cay độc của cái dữ kiện cụ thể. Chúng ta chưa từng có quãng thời gian nào như thế kể từ vụ người ta vớ được ảnh khỏa thân của tân Hoa hậu Mỹ trên một số báo Penthouse cũ, những bức ảnh chụp cô ta tao nhã tạo dáng trong tư thế quỳ và nằm ngửa đã buộc cô thiếu nữ bị ô danh đó phải trả lại vương miện mà tiến bước trở thành một ngôi sao nhạc pop lớn. Năm chín mươi tám ở New England là một mùa hè của hơi ấm và ánh nắng tuyệt vời, còn ở môn bóng chày là một mùa hè của trận chiến huyền thoại giữa một nam thần home run da trắng với một nam thần home run da nâu*, còn trên cả nước Mỹ thì là mùa hè hơi nồng lòng mộ đạo, hơi nồng sự thanh khiết, khi chủ nghĩa khủng bố - vốn đã trở thành mối đe dọa bao trùm đối với an ninh quốc gia - được nối tiếp bằng trò mút c.., và một ông tổng thống trung niên trẻ trung, sung mãn với một nhân viên hăm mốt tuổi trơ tráo, đắm đuối chơi nhau trong Phòng Bầu dục như hai đứa mới lớn trong bãi đậu xe làm sống lại niềm đam mê cộng đồng cổ xưa nhất của nước Mỹ, về mặt lịch sử có lẽ là lạc thú bội bạc và tai hại nhất: sự đê mê của thói cao đạo. Trong quốc hội, trên báo chí, và trên các trang mạng, đám tởm lợm công chính thích gây chú ý, điên cuồng kết tội, lên án, và trừng phạt, hùng hồn lớn tiếng dạy đời khắp nơi: tất cả chìm trong một cơn cuồng loạn có tính toán với cái tinh thần mà Hawthorne (người, hồi thập niên 1860, sống cách chỗ tôi chẳng mấy dặm) đã nhận ra từ buổi đầu non trẻ của đất nước rất lâu về trước, chính là “sự ngược đãi”; tất cả bọn họ đều hăm hở tiến hành những nghi thức thanh tẩy khắc nghiệt sẽ cắt đứt con cu chổng ngược ra khỏi ngành hành pháp, nhờ đó khiến mọi chuyện trở nên thoải mái và an toàn đủ cho cô con gái mười tuổi của Thượng nghị sĩ Lieberman lại có thể ngồi xem ti vi với ông bố xấu hổ của nó. Không, nếu bạn chưa sống qua năm 1998, bạn không hiểu được thói cao đạo nghĩa là gì đâu. William F. Buckley, nhà bình luận cánh hữu được in ở một loạt các báo, viết, “Khi Abelard* làm điều đó, người ta có thể ngăn không cho nó tái diễn,” bóng gió rằng việc làm sai trái của tổng thống - ở chỗ khác Buckley lại gọi đó là “thói dâm dục vô độ” của Clinton - có thể được cứu vãn tốt nhất không phải bằng một biện pháp hiền lành như luận tội mà, tốt hơn là, bằng kiểu trừng phạt thời trung cổ đã được dành cho giáo sĩ Abelard do đám đồng sự thích giương dao của tay bạn đồng tu với Abelard, giáo sĩ Fulbert, thực hiện, vì cái tội lén lút quyến rũ và kết hôn với cháu gái của Fulbert, trinh nữ Héloise. Không như giáo lệnh của Khomeini kết án tử cho Salman Rushdie, ước muốn thiết tha của Buckley mong được thấy đòn trừng phạt bằng thiến hoạn nhằm răn đe này không kèm theo mối lợi tiền bạc cho bất kỳ thủ phạm tương lai nào. Tuy nhiên, nó được thúc đẩy bởi một tinh thần nghiêm nhặt không kém tinh thần của vị đại lão giáo chủ nọ, và nhân danh những lý tưởng không kém phần cao đạo. Đó là mùa hè ở Mỹ khi mà cảm giác buồn nôn trở lại, khi mà trò đùa cợt không ngừng lại, khi mà những suy đoán và đặt giả thuyết này nọ và lối nói cường điệu không ngừng lại, khi mà nghĩa vụ giải thích cho con cái về cuộc sống của người lớn bị gác lại để duy trì trong đầu óc chúng mọi ảo tưởng về cuộc sống người lớn, khi mà sự nhỏ mọn của con người đơn giản là nghiền nát tất cả, khi mà một thứ ma quỷ đã sổng chuồng trong đất nước và, ở cả hai phe, người ta ai nấy đều băn khoăn “Tại sao chúng ta lại điên đến thế?” khi đàn ông cũng như đàn bà, lúc thức dậy vào buổi sáng, khám phá ra rằng hồi đêm, trong một giấc ngủ đã đưa họ đi xa hơn nỗi ghen tị và thù ghét, họ đã mơ tới vẻ trơ tráo của Bill Clinton. Còn tôi thì mơ thấy một biểu ngữ khổng lồ được quấn theo kiểu trào lưu Dada, như một tác phẩm bao gói của Christo*, từ đầu này tới đầu kia của Nhà Trắng và mang dòng chữ MỘT CON NGƯỜI BẰNG XƯƠNG BẰNG THỊT SỐNG Ở ĐÂY. Đó là mùa hè khi mà - lần thứ một tỉ - sự lộn xộn, hổ lốn, hỗn độn đó cho thấy nó còn tinh tế hơn ý thức hệ của kẻ này và hệ đạo lý của kẻ khác. Đó là mùa hè khi mà con cu của một tổng thống hiện diện trong tâm trí của từng người một, và cuộc sống, với tất cả sự bẩn thỉu trơ tráo của nó, một lần nữa làm cả nước Mỹ rối loạn. Đôi khi vào một thứ Bảy, Coleman Silk sẽ gọi điện và mời tôi chạy xe từ chỗ tôi ở phía bên này núi sang chỗ ông sau bữa tối để nghe nhạc, hoặc để chơi bài gin rummy*, một điểm ăn một xu, hoặc ngồi trong phòng khách vài giờ và nhâm nhi ít cognac và giúp ông vượt qua cái mà với ông luôn là buổi tối tồi tệ nhất trong tuần. Đến mùa hè 1998, ông sống một mình trên đó - một mình trong căn nhà cũ lớn lát ván ghép sơn trắng nơi ông đã cùng bà vợ Iris nuôi lớn bốn đứa con - đã được gần hai năm, kể từ khi Iris bị đột quỵ và qua đời đột ngột trong khi ông đang mải chiến đấu với trường đại học về cáo buộc phân biệt chủng tộc do hai sinh viên trong lớp nhắm vào ông. Đến thời điểm đó Coleman đã ở Athena gần hết cuộc đời hàn lâm của mình, một lãng tử thành thị ngọt lịm như mía, cởi mở, sắc sảo, có chút gì đó của một chiến binh, chút gì đó của một nhà điều hành, chứ chẳng có mấy tí của một giáo sư mô phạm kiểu mẫu dạy tiếng Hy Lạp và La tinh (thể hiện qua Câu lạc bộ Hy La Thường đàm mà ông khởi xướng, theo kiểu tinh thần dị giáo, khi còn là một giảng viên trẻ). Khóa học tổng quan đáng nể của ông về văn học Hy Lạp cổ qua bản dịch - được gọi là GHM, viết tắt của Gods (thần linh), Heroes (anh hùng) và Myth (thần thoại) - rất được lòng đám sinh viên chính bởi nhờ tất cả những sự trực tiếp, thẳng thắn và đầy thuyết phục theo kiểu phi hàn lâm trong cách ứng xử của ông. “Các bạn biết văn học châu Âu khởi đầu thế nào không?” ông thường hỏi, sau khi điểm danh ở buổi học đầu tiên của lớp. “Bằng một cuộc cãi cọ. Toàn bộ văn học Âu châu nảy sinh từ một cuộc tranh luận.” Rồi ông cầm cuốn Iliad lên và đọc cho cả lớp nghe những câu thơ mở đầu. “ ‘Hỡi thần thi ca, hãy hát về nỗi uất hận tàn hại của Achilles... Khởi sự nơi họ lần đầu tranh cãi, Agamemnon vua của loài người, và Achilles vĩ đại.’ Và họ tranh cãi nhau về cái gì, hai tâm hồn bạo liệt, dũng mãnh ấy? Nó cũng tầm thường như một trận cãi cọ trong quán rượu. Họ cãi nhau về phụ nữ. Cụ thể là một thiếu nữ. Một thiếu nữ bị tước khỏi cha cô ta. Một thiếu nữ bị bắt cóc trong chiến trận. Mia kouri - cô ta được tả như thế trong cuốn sử thi này. Mia, như trong tiếng Hy Lạp hiện đại, là mạo từ không xác định ‘một’; kouri, tức cô gái, trong tiếng Hy Lạp hiện đại đã chuyển thành kori,có nghĩa là con gái ruột. Lúc này, Agamemnon mê thiếu nữ ấy hơn vợ mình, Clytemnestra. ‘Clytemnestra không đẹp bằng cô ấy,’ ông ta nói, ‘ở khuôn mặt cũng như vóc dáng.’ Điều đó chỉ ra rất rõ tại sao ông ta không muốn từ bỏ thiếu nữ này, phải vậy không? Khi Achilles yêu cầu Agamemnon trả cô gái lại cho cha cô ta để vuốt giận Apollo, vị thần vốn đang vì việc cô gái bị bắt cóc mà nổi đóa lên giết người đến nơi, Agamemnon từ chối: ông ta sẽ chỉ đồng ý nếu Achilles giao cho ông ta cô gái của anh để bù lại. Thế là Achilles bốc hỏa. Achilles bừng bừng sát khí: người đàn ông dễ nổi giận nhất trong số những gã man di dễ nổi khùng mà một nhà văn từng được sung sướng mô tả lại; đặc biệt khi chuyện đó lại liên quan đến uy tín và dục vọng của anh ta, cỗ máy giết người siêu nhạy cảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Achilles lừng danh: cảm thấy cô độc và bị ruồng bỏ bởi một sự xúc phạm tới danh dự. Achilles anh hùng vĩ đại, người, bằng sức mạnh cơn thịnh nộ trước sự lăng mạ - sự lăng mạ vì không cứu được cô gái - đã tự cô lập mình, tự đặt mình một cách ngang bướng bên ngoài chính cái xã hội mà anh ta là người bảo vệ đầy vinh quang và sự hiện diện của anh là vô cùng cần thiết. Cuộc cãi cọ ngày ấy, một cuộc cãi cọ hung bạo về một thiếu nữ và thân xác trẻ trung của cô ta cùng những niềm khoái lạc của sự mê đắm tình dục: nó, dù xấu dù tốt, trong cái hành động xúc phạm quyền lợi của dương vật, phẩm giá của dương vật, của nguồn sinh lực sung mãn nơi một ông hoàng chiến binh, chính là cách mà nền văn học hư cấu vĩ đại của châu Âu khởi đầu, và đó là lý do mà hôm nay, sau gần ba ngàn năm, chúng ta sẽ bắt đầu ở câu chuyện của hai bọn họ…” Coleman nằm trong nhóm thiểu số người Do Thái trong đội ngũ giảng dạy ở Athena khi ông được nhận vào làm và có lẽ cũng là một trong những người Do Thái đầu tiên được phép dạy tại khoa văn học Hy La ở bất cứ đâu trên nước Mỹ; một vài năm trước đó, người Do Thái duy nhất của Athena là E. I. Lonoff, nhà văn viết truyện ngắn hầu như đã bị quên lãng và cũng là người mà, từ hồi tôi còn là một tác giả tập sự mới được xuất bản, vẫn còn chật vật và đang hăm hở tìm kiếm sự công nhận của một bậc thầy, tôi đã từng có một chuyến viếng thăm đáng nhớ. Trong suốt những năm tám mươi và lẹm cả vào thập niên chín mươi, Coleman cũng là người Do Thái đầu tiên và duy nhất từng công tác tại Athena trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên; rồi, vào năm 1995, sau khi từ chức chủ tịch để quay lại sự nghiệp giảng đường, ông quay lại dạy hai lớp trực thuộc chương trình ngôn ngữ và văn chương tích hợp vốn đã nuốt trọn cả khoa văn học cổ điển Hy La và được giáo sư Delphine Roux điều hành. Trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên, và với sự ủng hộ hết lòng của vị hiệu trưởng mới đầy tham vọng, Coleman đã dẫn dắt trường đại học cổ hủ, tù hãm, Lờ Đờ Trũng Thấp này và, không phải là không mạnh tay nghiền nát, đặt dấu chấm hết cho cái vai trò trang trại giải khuây cho các quý ông của nơi này bằng cách huỵch toẹt khuyến khích những người vô dụng trong số vệ binh già của hội đồng giáo sư tính chuyện về hưu sớm, và tuyển mộ những phó giáo sư trẻ nhiều tham vọng, đồng thời cách mạng hóa chương trình giảng dạy. Hầu như chắc chắn rằng đến lúc ông về hưu, tại bất cứ thời điểm nào mà ông muốn, và nếu không có rắc rối gì, thì hẳn sẽ có một tuyển tập những bài viết được xuất bản để vinh danh ông, hẳn sẽ ra đời một chuỗi Bài giảng Coleman Silk mở cửa cho công chúng, sẽ có một cái ghế trong khoa văn học cổ điển mang tên ông, và có lẽ - xét đến tầm quan trọng của ông đối với việc phục hưng nơi này trong thế kỷ hai mươi - cả tòa nhà dạy các môn khoa học xã hội hoặc thậm chí giảng đường North Hall, công trình trọng điểm của trường, cũng sẽ được đổi tên để vinh danh ông sau khi ông mất. Trong thế giới hàn lâm nhỏ bé này, nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời mình, đáng ra ông đã thôi không còn bị ghét bỏ hoặc thậm chí sợ hãi hoặc trở thành chủ đề đàm tiếu, mà thay vào đó là được chính thức xiển dương mãi mãi. Mời bạn đón đọc Vết Nhơ Của Người của tác giả Philip Roth & Phạm Viên Phương(dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thầy Lazaro Phiền
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản. Truyện thầy Lazaro Phiền, tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản, được cho là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài Gòn xuất bản năm 1887. Tác giả là người Công giáo trong thời gian giáo dân còn rất ít, và truyện có rất nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo. Truyện tuy ngắn (bản in chỉ trên 50 trang) nhưng có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết Tây phương, và có chủ đề tâm lý nội tâm, là bước đột phá ra khỏi khuôn cấu trúc của truyện xưa. Hồ Biểu Chánh gọi Truyện thầy Lazaro Phiền là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiến ông hướng về nghiệp viết văn. (Hai cuốn kia là Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.) Trong đất thánh làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa có một nghĩa địa điêu tàn. Bên cạnh những ngôi mộ các thánh tử vì đạo, có một ngôi với chiếc thánh giá đơn sơ mang tên "Thầy Lazaro Phiền". Thầy Lazaro Phiền quê tại Đất Đỏ. Năm Phiền ba tuổi thì mồ côi mẹ. Khi đó, giáo dân bị cấm đạo, bị bắt bớ tù đày rất nhiều. Khi Pháp đánh tới Bà Rịa thì 300 giáo dân trong nhà lao bị thảm sát, nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn mười người sống sót, trong đó có Phiền. Phiền được một quan ba người Pháp đem về Gia Định cho một linh mục nuôi ăn học. Học trường d'Adran, Phiền kết bạn với Vêrô Liễu, con một ông trùm họ ở Cầu Kho. Qua Vêrô Liễu, Phiền quen cô em họ của Liễu và đem lòng yêu cô này. Lớn lên, hai người kết vợ chồng, chung sống trong nhà Liễu. Sáu tháng sau, Phiền đi làm thông ngôn tại Bà Rịa. Tại đây, Phiền gặp một cô vợ người Việt của một quan ba Tây. Nàng đem lòng thương yêu Phiền nhưng Phiền cự tuyệt. Nàng ấy bèn viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền tư tình với Vêrô Liễu. Phiền về điều tra, khám phá thư của Liễu hẹn hò với vợ mình. Nhân dịp được lịnh dẫn lính đi phục kích một vụ cướp ghe, và cùng lúc Liễu đi ghe về Sài Gòn, Phiền sắp đặt cho lính "bắn lầm" giết Liễu. Xong, Phiền về nhà, đánh thuốc độc cho vợ chết. Vợ bị thuốc độc hành hạ hơn mười một tháng mới chết. Trước khi tắt thở, vợ thầy bình tĩnh nói: "Tôi biết làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa tha thứ cho thầy!" Giết được "đôi gian phu dâm phụ" nhưng lòng Phiền vẫn không an, chán đời đen bạc, Phiền bỏ việc đi tu tại nhà thờ họ Tân Định. Phải mười một năm sau, thầy Phiền ghé qua Bà Rịa thăm chốn cũ nơi xưa, Phiền mới nhận được thư một phụ nữ. Đó là thư của vợ quan ba Tây năm xưa. Bà thú tội đã vu cáo vợ thầy, giả nét chữ của Liễu và gài thư giả mạo trong áo vợ thầy Phiền. Nhưng vẫn không toại nguyện vì thầy không đến với bà mà lại bỏ đi tu. Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Phiền chết đi trong nỗi ân hận không nguôi với tội ác tày trời của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản.
Ông Cử
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ông Cử của tác giả Hồ Biểu Chánh. Truyển kể về ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm. Ông vì thương một cô „ả đào“ và vì quá tin vợ nên bị phá sản. Vợ ly dị dẫn theo con bỏ ông và lập gia đình với một người khác. Ông buồn rầu, bỏ quê lên một xóm lao động ở Sài Gòn sống và tìm cách giúp đỡ những người sống chung quanh. Vì vậy ông rát được họ tôn trọng và gọi ông là Ông Cử. Mười năm sau khi cô con gái của ông lớn lên, học xong và muốn lập gia đình. Cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông. Qua đó ông Cử có điều kiện gặp lại người vợ cũ, cô con gái bây giờ đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Hồ Biểu Chánh xây dựng ở đây một cốt truyện khá cảm động xảy ra giữa vợ chồng, cha con, trong cuộc sống của người dân lao động nhiều tình nghĩa, cuộc sống trần tục và ý muốn thoát ly của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm *** Gần 20 tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh được chuyển thể thành phim: Con nhà nghèo, Khóc thầm, Nợ đời, Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời..., nhận được sự yêu mến từ khán giả. Tiểu thuyết Ông Cử của Hồ Biểu Chánh là tác phẩm gần nhất mới được chuyển thể thành phim truyền hình với tên gọi Thế thái nhân tình. Câu chuyện phản ánh bức tranh xã hội, con người Nam Bộ những năm 1930-1940. Truyện kể về ông cai tổng Ngô Minh Tâm, vì thương ả đào và quá tin vợ nên bị phá sản. Vợ ly dị và lập gia đình với một người khác. Ông buồn rầu, bỏ quê lên một xóm lao động ở Sài Gòn sống và tìm cách giúp đỡ những người sống xung quanh. Vì vậy ông rất được họ tôn trọng, gọi là Ông Cử. Mười năm sau khi con gái của ông lớn lên, học xong và muốn lập gia đình, cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông. Ông Cử có điều kiện gặp lại vợ cũ, con gái đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thường có cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, rất Nam Bộ từ giọng văn đến miêu tả con người. Khi ông mất, hai nhà thơ Đông Hồ và Mộng Tuyết đã lấy tên những tác phẩm tiêu biểu của ông sáng tác thành hai câu đối độc đáo đến phúng viếng: Cay đắng mùi đời, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên, Vì nghĩa vì tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tỉnh mộng, mấy Ai làm được? Cang thường nặng gánh, cơn Khóc thầm, cơn Cười gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi, Thiệt gia gia thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn tình còn Ở theo thời. *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Ông Cử" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của ông Cai-Tổng Ngô-Minh-Tâm, một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông Tâm vốn là một người đàn ông thành đạt, có vợ đẹp, con ngoan. Tuy nhiên, vì quá tin vợ và thương một cô "ả đào", ông đã bị vợ bỏ rơi, dẫn theo con gái đi theo người khác. Ông Tâm đau khổ, buồn bã, bỏ quê lên Sài Gòn sống. Tại đây, ông sống cuộc sống của một người lao động bình thường, làm thuê cho một người chủ giàu có. Ông Tâm cũng tham gia vào các hoạt động thiện nguyện, giúp đỡ những người nghèo khổ, khó khăn. Mười năm sau, cô con gái của ông Tâm lớn lên, học xong và muốn lập gia đình. Cô cần một giấy cho phép đính hôn của ông Tâm. Ông Tâm đồng ý, và vì vậy ông có điều kiện gặp lại người vợ cũ, cô con gái bây giờ đã trưởng thành và chàng rể tương lai. Hai vợ chồng ông Tâm gặp lại nhau, và họ đã tha thứ cho nhau. Ông Tâm cũng chấp nhận cho con gái kết hôn với người mà cô yêu. Review Tiểu thuyết "Ông Cử" là một tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ông Cử" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ông Cử" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ông Tâm là một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông cũng là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ông Cử" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Đánh giá Tiểu thuyết "Ông Cử" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, đặc biệt là cốt truyện hấp dẫn, nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Ông Cử" được xây dựng theo mô típ "tình yêu trắc trở" quen thuộc, nhưng được Hồ Biểu Chánh xử lý một cách khéo léo, mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Ông Cử" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ông Tâm là một người đàn ông hiền lành, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Ông cũng là một người có tấm lòng nhân hậu, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Ông Cử" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Tác phẩm có giá trị lịch sử "Ông Cử" được viết vào đầu thế kỷ 20, khi xã hội Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Tác phẩm đã phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội đương thời, đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Cử của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Vợ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh. Trước thời Pháp thuộc, xã hội Việt nam xem xét giá trị hôn nhân trong khuôn khổ văn hóa truyền thống, thứ thường nhấn mạnh sự phục tùng của cá nhân với lợi ích gia tộc, và đi kèm quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.” Khi người Pháp đô hộ Việt Nam, các giá trị hiện đại coi trọng tự do cá nhân khi kết hôn bắt đầu lan rộng. Vấn đề hôn nhân thời thuộc điạ chịu sự giằng xé giữa truyền thống và hiện đại. Tại Nam Kỳ thuộc Pháp, chuyện kết hôn của con cái vẫn phụ thuộc vào cha mẹ. Tuy nhiên, các tranh cãi về tự do luyến ái và sự hình thành luật pháp còn lỏng lẻo về hôn nhân đã dẫn đến sự phóng túng trong việc kết hôn và ly dị. Xã hội do đó cũng theo đuổi dục vọng hơn là cam kết các giá trị nhân bản bằng cách “hô hào” quyền tự do để đi dây giữa truyền thống lễ giáo và lối sống tân thời. Đây dẫu là hệ quả từ quyết định của mỗi cá nhân, song những chuyển biến của thời đại phần nào đã tiếp thêm sức mạnh cho xu hướng theo đuổi tự do luyến ái. Thông qua hai câu chuyện điển hình, Hồ Biểu Chánh đặt ra hai vấn đề. Thứ nhất, ông chỉ ra các động lực đen tối ẩn sau lớp vỏ phong tục hôn nhân và hậu quả của nó. Thứ hai, ông lột tả cách con người khước từ các giá trị nhân bản để theo đuổi dục vọng cá nhân thông qua tập tục cưới hỏi. Đầu tiên, sự ép buộc, tiền bạc và danh vọng ẩn sau lớp áo hôn nhân đều đem lại nỗi đau cho người phối ngẫu. Trong Đóa Hoa Tàn, Cai tổng Bình là một viên chức mới nổi, tham vọng, hám danh lợi. Vì muốn kết thông gia với một gia đình quyền thế, Bình ép gả con gái là Túy Nga cho một chàng trai giàu có nhưng vô trách nhiệm. Vì vậy, cuộc hôn nhân vỏn vẹn hai năm khiến Túy Nga đau buồn vì người chồng lạnh nhạt, thậm chí còn đệ đơn ly hôn cô nhiều lần. Nghiêm trọng hơn, nó khiến Túy Nga rơi vào sự mặc cảm về thân phận gái một đời chồng và nghi ngờ về hạnh phúc trong hôn nhân, đến mức không dám chấp nhận yêu Hải Đường, một kỹ sư tài năng mà cô đem lòng yêu từ lâu. Những chuyện này khiến cha cô ân hận. Câu nói của Túy Nga nói lên điều mà các thế hệ phải nằm lòng: “Theo ý tôi, cưới vợ lấy chồng phải vì tình vì nghĩa, chớ không nên vì quyền thế, vì bạc tiền.” Với trường hợp khác, Hồ Biểu Chánh khắc họa lớp người lợi dụng khuôn khổ hôn nhân truyền thống để theo đuổi tư lợi. Trong Từ Hôn, Tất Đằng là một sinh viên du học Pháp ngành bác vật nhưng không có bằng cấp và thất nghiệp. Là một người ưa thích chủ nghĩa "không làm mà vẫn có ăn," Đằng vừa khích bác tất cả những phong tục và định kiến giới về lao động, vừa mưu cầu cuộc sống nhàn nhã. Cùng lúc, Đằng được người chị đồng hương mai mối cho Bạch Yến, một tiểu thư xinh đẹp và danh giá, hứa hẹn cuộc sống giàu sang cho Đằng. Để cưới được Yến, Đằng phải nói dối về nghề nghiệp và dựng màn kịch hoàn hảo về con đường công danh xán lạn. Nhờ thế, Bạch Yến và mẹ cô nhanh chóng xiêu lòng trước Đằng. Trớ trêu thay, sự dối trá và ích kỷ lại dằn xé tâm trí Đằng, vì anh cũng đem lòng yêu Bạch Yến và không thể nói dối người mình yêu. Cuối cùng, Đằng từ hôn và bỏ khỏi Sài Gòn, để lại nỗi đau không nguôi cho Yến. Trong khi cai tổng Bình che đậy lòng tham sau lớp áo choàng hôn nhân buồn thảm của con gái ông, thì Tất Đằng lại khước từ sự thật và để cho lời nói dối lẫn tiền bạc phủ bóng mối quan hệ tốt đẹp ngay từ đầu. Ở hai trường hợp, nhơn nghĩa đều phải chào thua thiên kim; động lực hôn nhân đều là toan tính vật chất, và nhận về cái kết đau thương. Hồ Biểu Chánh hàm ý rằng người lạm dụng hôn nhân để thỏa mãn dục vọng sẽ bị phán xét, không phải bởi miệng đời hay luân lý xã hội, mà trước hết trước tòa án lương tâm của họ và cái giá mà người họ yêu thương họ phải gánh chịu. Mời các bạn mượn đọc sách Hai Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Hai Thà Cưới Vợ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hai Thà Cưới Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh. Lại là một trở lại với một tác phẩm mới, những đứa con tinh thần của nhà văn Nam Bộ tài năng Hồ Biểu Chánh. Câu chuyện lần này nhân vật chính là một chàng trai 35 tuổi tên là Hai Thà. Hai Thà mồ côi cha đã 10 năm rồi, một mình lo tảo lo tần, lo nuôi mẹ già, lo dựng sự nghiệp, đã mướn lại của Thôn Sáu mà làm hai dây ruộng đồng trên Bình-Lạc, lại còn mướn thêm ba thiên đất rẫy công điền Bình Thành mà làm nữa, làm mấy năm trong nhà có dư lúa ngàn, đã cất được một cái nhà ngói nhỏ ba căn xông vách ván, coi vẻ-vang mà lại còn có ba con trâu, một cặp trâu lớn với một con trâu tơ mới giựt dàm mùa nầy. Thấy Hai Thà tính tình chân chất, lại gia tư phú phong, năm rồi làng có muốn cử làm Thôn Trưởng, Hai Thà từ chối, viện lẽ mắc nuôi mẹ già và mắc lo ruộng rẫy. Người trong làng ai thấy hai Thà làm ăn xân-xẩn cũng đoán anh ta sẽ giàu to. Sau một trận đau đẻ dữ dội kia, vợ Hai Thà không may qua đời, để lại mình anh cùng hai đứa con thơ 6 tuổi và 8 tháng tuổi. Mẹ già con thơ, Hai Thà phải tiếp tục sống ra sao đây khi thiếu đi bàn tay săn sóc của một người vợ? *** Tóm tắt Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" của Hồ Biểu Chánh kể về câu chuyện của Hai Thà, một chàng trai hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Hai Thà mồ côi cha từ nhỏ, một mình lo nuôi mẹ già và dựng sự nghiệp. Anh đã thành công trong việc làm ăn, có ruộng vườn, trâu bò, nhà cửa khang trang. Nhưng rồi, vợ anh không may qua đời, để lại anh cùng hai đứa con thơ. Hai Thà rất đau buồn vì mất vợ. Anh phải lo lắng cho mẹ già và hai đứa con nhỏ. Anh thuê người giúp việc, nhưng vẫn không thể bù đắp được tình cảm của một người mẹ, người vợ. Một hôm, Hai Thà gặp lại Thị Lệ, một cô gái xinh đẹp, hiền lành. Hai Thà và Thị Lệ yêu nhau và quyết định kết hôn. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu. Cô đã giúp Hai Thà chăm sóc mẹ già và hai đứa con nhỏ. Hai Thà và Thị Lệ sống hạnh phúc bên nhau. Review Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, trong đó có thể kể đến: Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng chặt chẽ, hợp lý, có nhiều tình tiết bất ngờ, gây cấn, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Hai Thà là một người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, luôn yêu thương chồng con. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Đánh giá Tiểu thuyết "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh. Tác phẩm có nhiều điểm hấp dẫn, đặc biệt là cốt truyện hấp dẫn, nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn Cốt truyện của "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng theo mô típ "tình yêu trắc trở" quen thuộc, nhưng được Hồ Biểu Chánh xử lý một cách khéo léo, mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, hồi hộp. Câu chuyện xoay quanh những xung đột, mâu thuẫn trong cuộc sống của các nhân vật, đặc biệt là xung đột giữa thiện và ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách riêng Các nhân vật trong "Hai Thà Cưới Vợ" được xây dựng sinh động, có tính cách riêng, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Hai Thà là một người hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Thị Lệ là một người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, luôn yêu thương chồng con. Ý nghĩa nhân văn sâu sắc "Hai Thà Cưới Vợ" là một tác phẩm có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người như lòng yêu thương, sự bao dung, lòng nhân ái. Tác phẩm cũng lên án những thế lực tàn ác, độc ác, chà đạp lên quyền lợi của con người. Tác phẩm có giá trị lịch sử "Hai Thà Cưới Vợ" được viết vào đầu thế kỷ 20, khi xã hội Việt Nam đang có nhiều biến đổi. Tác phẩm đã phản ánh được những mâu thuẫn, xung đột Mời các bạn mượn đọc sách Hai Thà Cưới Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.