Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giọt Lệ Trong Hồn (Kim Hyun Hee)

Trong công trình sử học “Sách đen về chủ nghĩa cộng sản” (Le livre noir du communistme, Robert Laffont, Paris 1997), tác giả Rémi Kauffer - một chuyên gia về tình báo và khủng bố - đã dành bảy chương sách để nói về mối quan hệ giữa các thể chế “cộng sản hiện thực” (hiểu theo nghĩa: các thể chế tự nhận mình là “cộng sản”, không nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx) và chủ nghĩa khủng bố.

Tác giả cuốn sách trên khẳng định: trong hai thập niên 20 và 30, phong trào cộng sản thế giới dốc toàn lực để chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa vũ trang nhưng đều thất bại. Do đó, trong thập niên 40, họ đã lợi dụng cuộc chiến chống phát-xít Đức và giới quân phiệt Nhật, và trong hai thập niên 50 và 60, họ đã nhân danh những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để tạo dựng những đội du kích chính qui, dần dần biến thành những đạo quân thực thụ để giúp các Đảng Cộng sản cướp chính quyền tại nhiều xứ như Nam Tư, Trung Hoa, Bắc Hàn…

Tuy nhiên, phải đương đầu với sự chống đối của các thế lực thân Hoa Kỳ, thất bại của phong trào “du kích” Nam Mỹ đã khiến một số phe, nhóm cộng sản nhận thấy họ nên trở lại những phương pháp khủng bố “truyền thống”. Lấy danh nghĩa “đấu tranh giải phóng dân tộc”, ở nhiều nơi trên thế giới, khủng bố và chiến tranh du kích đã được hòa quyện một cách “hữu hiệu” trong các hành động vũ trang, như trong trường hợp Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria hoặc các tổ chức khủng bố Palestine.

Có thể tranh luận với các luận điểm trên của tác giả Rémi Kauffer, tuy nhiên, lần giở kho lưu trữ mật được “bạch hóa” sau khi Liên Xô sụp đổ, có thể thấy trong không ít trường hợp, Liên bang Xô-viết đã trợ giúp và ủng hộ một cách hữu hiệu các nhóm khủng bố ở Trung Đông và Mỹ - La Tinh.

Đặc biệt, trong nhiều năm liền, Ilich Ramirez Sanchez, một trùm khủng bố khét tiếng từng hoành hành ngang dọc ở các nước Ả Rập và phương Tây, đã được sự che chở của hầu hết các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” ở Đông Âu: bằng những tấm thông hành và hộ chiếu giả, y đã sử dụng thủ đô Budapest (Hungary) như một địa bàn chính yếu để tổ chức và tham gia các vụ khủng bố đẫm máu. Tìm mua: Giọt Lệ Trong Hồn TiKi Lazada Shopee

Dầu vậy, cần phải nói là bản thân các quốc gia “xã hội chủ nghĩa” (cũ) ít khi đứng ra tổ chức khủng bố, vì mức độ mạo hiểm quá lớn. Một ngoại lệ là trường hợp Bắc Hàn: trong những năm tháng căng thẳng dưới thời “Chiến tranh lạnh”, xứ này đã thường xuyên cử các mật vụ ra nước ngoài để ám sát, giết chóc, bắt cóc và thực hiện những hành vi khủng bố, nhất là đối với các nhân vật Nam Hàn.

Nhiều phụ nữ Nhật đã bị bắt cóc và đưa về Bình Nhưỡng để đào tạo thành những điệp viên kiêm khủng bố. Đó là chưa nói đến chuyện trong hai thập niên 60 và 70, Bắc Hàn là nơi ẩn mình của vô số nhóm khủng bố Nhật, Palestine, Phillippines…, với một mục tiêu chính yếu là “lật đổ chế độ tư bản thối nát”. Có thể nói trong một thời gian dài, Bắc Triều Tiên là quốc gia cộng sản duy nhất đã chủ trương khủng bố một cách có hệ thống ở cấp nhà nước.

Trong số các hành động khủng bố đẫm máu nhất của Kim Nhật Thành, cần phải kể đến vụ ám sát 16 người xảy ra ở Rangun (trong số đó có bốn bộ trưởng Nam Hàn), hoặc vụ nổ máy bay Hãng hàng không Korean Airline ngày 29-11-1987, gây nên cái chết của 115 hành khách vô tội.

Kim Hyun Hee là một trong hai thủ phạm chính của vụ nổ máy bay nói trên. Cùng một điệp viên đứng tuổi và dày dạn kinh nghiệm (Kim Soung Ir), người phụ nữ trẻ trung 25 tuổi và xinh đẹp đó được nhận nhiệm vụ phải “dạy cho Hán Thành một bài học”: mục đích chính của vụ khủng bố là hạ uy tín Nam Hàn, khiến nước này “mất mặt” và chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Hán Thành không đủ sức để giữ gìn an ninh cho Thế vận hội 1988, sẽ được tổ chức sau đó ít tháng.

Tuy nhiên, ý định đó của nhà độc tài Kim Nhật Thành đã hoàn toàn phá sản. Thế vận hội Hán Thành 1988 thành công mỹ mãn, trở thành một biểu tượng của hòa bình và hữu nghị, khi các vận động viên “tư bản” và “xã hội chủ nghĩa” lại bắt tay nhau trên tinh thần bằng hữu và thể thao sau hai kỳ Olympic không trọn vẹn (1980: Moscow, và 1984: Los Angeles).

Sau vụ đặt bom, nhóm khủng bố bị phát hiện: Kim Soung Ir uống độc dược tự tử, còn Kim Hyun Hee định tẩu thoát nhưng bị bắt giam. Sau một thời gian dằn vặt nội tâm và đấu tranh với chính mình, cô gái trẻ tuổi đã cung khai mọi sự trước nhà chức trách Nam Hàn. Về sau, họ Kim đã thuật lại chi tiết những hoạt động gián điệp và khủng bố của mình trong cuốn hồi ký “Giọt lệ trong hồn” (The Tears Of My Soul, 1993), khiến thế giới phải kinh hoàng trước sự tàn ác của các nhà lãnh đạo Bắc Hàn.

Cho dù, vì những lý do dễ hiểu, cuốn hồi ký chưa thể nói lên hết được những gì tại hậu trường các sự kiện của 20 năm trước, nhưng đây là một nguồn tư liệu có độ xác tín tương đối cao về một xã hội, một thể chế khép kín mà thế giới có rất ít thông tin. NCTG xin giới thiệu đến quý độc giả “Giọt lệ trong hồn”, thông qua bản dịch tiếng Hung ( “Kémek iskolája: Egy terroristanő vallomásai”, fordította: Gálvölgyi Judit, JGX Kiadó, Budapest 1994).

Xin tặng cuốn sách này cho người nhà các nạn nhân chuyến bay 858 của Hãng Hàng không Triều Tiên.

Mọi thu nhập xuất phát từ cuốn sách đều dành cho họ.

Kim Huyn Hee

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Giọt Lệ Trong Hồn PDF của tác giả Kim Hyun Hee nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Mao- The Unknown Story (Jung Chang Và Jon Halliday)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mao- The Unknown Story PDF của tác giả Jung Chang Và Jon Halliday nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mao Trạch Đông - Ngàn Năm Công Tội (Tân Tử Lăng)
Cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành, ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn tháng 6-2008, là một trong những cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt. Tác gia Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động, về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá. Đầu năm 2008, khi đề cập đến bối cảnh ra đời cuốn sách trên, Tân Tử Lăng nêu rõ: Công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã thu được những thành tựu lớn lao, đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề nghiêm trọng, đáng chú ý là việc không thể ngăn cản có hiệu quả nạn tham nhũng, việc phân phối của cải không công bằng dẫn đến xã hội bị phân hóa, khiến dân chúng rất bất mãn, nhiều người thậm chí công khai tỏ ra luyến tiếc thời đại Mao. Các thế lực cực tả ở Trung Quốc hiện nay muốn lợi dụng tâm trạng bất mãn này để phát động cuộc “Đại cách mạng văn hóa lần thứ hai”, gây cản trở cho việc thực thi các chính sách hiện hành. Nhân ngày giỗ Mao Trạch Đông 13-9-2005, nhiều cuộc mít tinh đã được tổ chức tại 18 thành phố lớn trong đó có Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân… với mục đích phê phân ban lãnh đạo hiện nay đã phản bội chuyên chính vô sản, phục hồi chủ nghĩa tư bản. Những người tham gia các cuộc mít tinh đã công khai hô các khẩu hiệu thời Đại cách mạng văn hoá, kêu gợi dấy lên bão táp cách mạng. Tình hình trên khiến tác giả thấy cần phải làm cho mọi người thấy rõ thực trạng đời sống chính trị, xã hội và kinh tế của Trung Quốc dưới thời Mao, để từ đó có thể đánh giá một cách công bằng những công lao cũng như sai lầm của Mao đối với đất nước Trung Hoa, nhằm loại bỏ sự chống đối của phái cực tả đối với tiến trình cải cách mở cửa. Tuy nhiên, trong khi cố gắng làm điều đó, tác giả lại làm nổi lên một vấn đề quan trọng khác là: quan điểm của Trung Quốc về “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” thực chất là gì? Và đâu là lối thoát chỗ Trung Quốc hiện nay? Nhiều trong số những vấn đề được nêu ra trong cuốn sách như đánh giá về công lao và sai lầm của Mao, cuộc Đại cách mạng văn hoá, cái gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa trên bạo lực của Mao, chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, hay việc chuyển từ chủ nghĩa xã hội không tưởng sang chủ nghĩa xã hội dân chủ… hoàn toàn là những quan điểm riêng của tác giả. Tìm mua: Mao Trạch Đông - Ngàn Năm Công Tội TiKi Lazada Shopee Đây là cuốn sách có tính chất tham khảo về nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử và vấn đề lý luận của nước Trung Hoa đương đại, nhằm giúp bạn đọc có được những cái nhìn nhiều chiều về những vấn đề đang được nhiều người quan tâm này.***Nhà cách mạng vĩ đại - người xây dựng thất bại Cuốn sách này tiếp theo cuốn “Mao Trạch Đông toàn truyện" (Nhà xuất bản Lợi Văn, Hồng Công. Bản in đầu tiên năm 1993), bổ sung sử liệu về Đại tiến vọt và Đại cách mạng văn hoá, tăng thêm phần bình luận, nhóm ủng hộ việc Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ đánh giá lại Mao Trạch Đông trong nhiệm kỳ của ông. Cuộc đời Mao Trạch Đông dựng nước có công, xây dựng mắc sai lầm, Đại cách mạng văn hoá có tội. Đó là lời Trần Vân, bậc nguyên lão chỉ nói chân lý, không nói thể diện, rất được kính trọng trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đánh giá Mao sai lầm lớn hơn công lao đó có cơ sở quần chúng. Năm 1994, Ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ, Phòng Nghiên cứu chính trị Trung ương, Phòng Nghiên cứu chính sách Viện Khoa học Xã hội và Uỷ ban Giáo dục quốc gia đã phối hợp tiến hành một cuộc thăm dò dư luận về hai vấn đề. Một là Mao Trạch Đông công lao lớn hơn sai lầm, hay ngược lại? Hai là cơn sốt Mao Trạch Đông có bình thường không? Kết quả là:a- Cán bộ cấp cao: 37% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao. 30% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm. 33% không trả lời.b- Trí thức cấp cao: 67% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, 8% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 25% không trả lời.c Nhà báo và những người làm công tác lý luận: 48% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao 18% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 34% không trả lời.d- Giáo chức và học sinh: 40% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, 34% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 26% không trả lời. Khái niệm chung là sai lầm lớn hơn công lao. Về vấn đề cơn sốt Mao Trạch Đông, 63% đến 72% cho rằng không bình thường.Những người không trả lời trên thực tế cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, nhưng họ sợ công khai bày tỏ sẽ gặp rủi ro. Nếu gộp những người không trả lời vào số người cho rằng Mao Trạch Đông sai lầm lớn hơn công lao, thì số người này chiếm 70% cán bộ cấp cao, 92% trí thức cấp cao, 82% nhà báo và những người làm công tác lý luận, 66% giáo chức và học sinh, bình quân số người cho rằng Mao Trạch Đông sai lầm nhiều hơn công lao là 77,5%. Khái niệm chung là 3 phần công lao, 7 phần sai lầm.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mao Trạch Đông - Ngàn Năm Công Tội PDF của tác giả Tân Tử Lăng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mảnh Vụn Văn Học Sử (Bằng Giang)
Cho một bộ văn-học sử Việt-nam Từ sau hiệp định Giơ-neo năm 1954 cho đến nay, ở miền Nam Việt-nam chỉ có hai bộ văn học sử được kể là hoàn thành, hiểu với nghĩa là được biên soạn từ đầu cho đến năm 1945 và đã được xuất bản trọn: - Việt-nam văn-học sử giản ước tân biên (ba cuốn, 1961-1965) của PHẠM THẾ NGŨ, khi tái bản đổi tựa lại là Lịch sử văn-học Việt-nam tân biên giản ước. - Bảng lược đồ văn-học Việt-nam (hai cuốn, 1967) của THANH LÃNG, vốn là bài giảng khóa cho lớp dự bị Việt đại cương trường Đại học văn khoa Sài-gòn. Ngoài ra, còn vài bộ chỉ ra được một, hai cuốn rồi đình lại khá lâu mà chưa thấy tiếp tục ấn hành: Tìm mua: Mảnh Vụn Văn Học Sử TiKi Lazada Shopee - Lịch sử văn-học Việt-nam (mới có hai cuốn, 1956) của LÊ VĂN SIÊU. - Việt-nam văn học toàn thư (mới có hai trong mười cuốn, 1959) của HOÀNG TRỌNG MIÊN. - Văn-học Việt-nam (1960) của PHẠM VĂN DIÊU chỉ mới đến đầu thế kỷ XIX. Dầu đã hoàn thành hay chưa, đó cũng là những cố gắng khai phá một miếng đất quá mới mẻ 1 hay khai thông một môn học « mới chỉ ở giai đoạn phôi thai » 2 hay « còn ở trong thời kỳ phôi thai ». 3 Đó là những cố gắng đáng ca ngợi vì những người đặt chân vào khu vườn văn-học sử Việt-nam hẳn đã biết trước sẽ gặp phải nhiều gai gốc mà đứng hàng đầu là vấn đề tài liệu. Ở Việt-nam không có nạn « phần thư » ác liệt như dưới thời nhà Tần bên Trung-hoa, nhưng chỉ nói gần đây thôi, non một phần ba thế kỷ khói lửa, kể từ năm 1945 đã khiến cho tài liệu đã hiếm lại càng thêm hiếm. Thư viện của nhà nước, phần bị mất cắp, phần bị cướp đoạt, nhiều thư viện gia đình tiêu tan trong khói lửa. Không nói chi xa, chỉ kể từ năm 1954 trở lại đây (1974), thử hỏi mấy ai giữ được trọn bộ tuần báo Tiến Thủ 4 trong đó có bài « Một thế kỷ mấy vần thơ » của TRUY-PHONG mà SƠN NAM nhận xét là « một trong những bài thơ đẹp nhất của thế kỷ hai mươi này »? Vì không có đủ trong tầm tay những tài liệu cần thiết để phối kiểm những điều mình viết nên các soạn giả dễ lặp lại những sai lầm của nhau. - Chẳng hạn như HUÌNH TỊNH CỦA không hề có một tác phẩm nào nhan là Gia lễ quan chế mà nhiều sách của ta đến ngày nay vẫn cứ ghi như vậy và học trò cứ phải học mãi như vậy. - Một giai thoại về hai câu đối của chúa Trịnh và Cống Quỳnh được đem gán cho CAO BÁ QUÁT: « Nước trong leo lẻo cá đớp cá, Trời nắng chang chang người trói người. » - NGUYỄN CÔNG TRỨ mất năm 1858 hay 1859? NGUYỄN KHUYẾN, năm 1910 hay 1909? - TẢN-ĐÀ nổi tiếng là « con người của hai thế kỷ » vậy mà theo sách vở đang lưu hành, thì nhà thi sĩ của chúng ta có tới những hai năm sanh và bốn ngày mất. Còn PHẠM QUỲNH sanh năm 1890, 1891 hay 1892? - Tờ Tri Tân tạp chí được hầu hết các sách giáo khoa khai tử cho nó ở số 127 đầu năm 1944 trong lúc nó thọ cho đến giữa năm 1946. THIẾU-SƠN được ghi là một cọng sự viên của Tri Tân trong lúc ông không có viết một dòng nào cho tờ này. - Một câu nói để đời của ông NGUYỄN VĂN VĨNH « Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ » được nhiều tác giả ghi lại khác nhau, khi sai một chữ, khi thiếu, khi dư. - Bài « Tôn phu nhơn qui Hớn thơ » do « TÔN THỌ TƯỜNG ngụ ý » đăng ở số 2 tờ Miscellanées năm 1889 (trang 16) của TRƯƠNG-VĨNH KÝ về sau có cả chục bản sai biệt nhau. Bản nào đúng, bản nào sai? Và còn nhiều nữa, rất nhiều… Ngoài trở lực tài liệu còn có lắm nguyên nhân chủ quan về phía người viết: - Chưa đủ thận trọng chăng? - Quá tin ở uy danh một tên tuổi nào đó chăng? - Thiếu phương pháp làm việc chăng? - Tinh thần trách nhiệm chưa đúng mức chăng?… Trong tình trạng thiếu thốn, nhập nhèm, bất nhứt của tài liệu đó, một cá nhơn đơn độc chắc phải dành hết cả một đời người, mà phải là một người thọ nữa, họa may mới hoàn thành một bộ văn-học sử tránh được những sai lầm tuy nhỏ nhặt nhưng lại dễ làm mất lòng tin cậy của độc giả. Cái gì cũng gần như là có dị biệt, sai sót, nghi vấn hết thì tin làm sao được? Cứ đả kích TÔN THỌ TƯỜNG ở hai chữ trau tria trong câu « Về Hớn trau tria mảnh má hồng » trong lúc câu của họ TÔN đúng là « Về Hớn đành trau phận má hồng ». Dựa vào một văn bản sai, khen chê đều là những đòn đỡ đánh trong gió. Về mặt văn-học sử, nhận định hay quan niệm có thể dị biệt giữa các tác giả nhưng sự kiện không thể có tính cách lưỡng khả, trích dẫn phải trung thực, sử dụng nên kiểm soát, nếu cần và có thể… Một nhà viết văn-học sử khó thể đơn độc đính chánh hết những sai lầm, đánh tan được hết những nghi vấn trong suốt quá trình diễn tiến của văn-học Việt-nam từ chữ hán qua chữ nôm đến chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ý thức trước điều đó mà nhiều vị đã tỏ ra khiêm tốn, ít ra cũng ở cái tựa, nào là sử yếu, nào là giản ước, nào là lược đồ. Chúng tôi nghĩ rằng văn-học sử cũng gần như tự điển, nếu được biên soạn tập thể chắc sẽ đầy đủ và tránh được nhiều vấp váp hơn, mỗi người phụ trách một hay hai vấn đề, một giai đoạn hay nhiều lắm là một thời đại. Điều này tuy khó thực hiện nhưng không phải là một điều bất khả. Khó ở chỗ một tập thể như vậy đòi hỏi phải có một quan điểm đồng nhứt. Nếu thực hiện được, có một điều lợi rõ ràng là tác phẩm có thể hoàn thành sớm hơn và có đủ cả hai chiều rộng và sâu. Một cá nhân có thể mất nhiều thì giờ hơn, dễ được bề rộng mà khó tránh khỏi vấp váp như trong một quyển văn-học sử nọ. NGUYỄN KHUYẾN ở một trang trước mất năm 1909, ngay trang sau, năm 1910, Việt-nam cổ văn-học sử của NGUYỂN ĐỔNG CHI biến thành Việt-nam văn-học cổ sử, Khổng giáo phê bình tiểu luận của ĐÀO DUY ANH biến thành Phê bình Khổng giáo tiểu luận v.v… Viết văn-học sử khó như vậy vì ngoài khả năng chuyên môn, còn phải có thì giờ và tiền bạc cho công việc xê dịch, sưu tầm, sao chép hay mua lại những tài liệu quí hiếm. Cách đây mấy năm, một anh bạn cho chúng tôi hay một người ngoại quốc đã mua được trọn bộ Tri Tân tạp chí với giá sáu trăm ngàn đồng Việt-nam. Hội đủ những điều kiện trên không có được bao nhiêu người. Từ năm 1954 đến nay, riêng ở miền Nam chỉ mới có hai bộ đã hoàn thành, còn bao nhiêu bộ khác đếm không hết mấy đầu ngón tay, còn đang dang dở mà không biết có cặp được bến bờ hay không. Công việc đòi hỏi tương đối ít thời giờ hơn và có thể có nhiều người đóng góp được, giúp ích cho những nhà viết văn-học sử sau này, có tính cách rời rạc, có khi vụn vặt nữa nhưng rất cần thiết.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mảnh Vụn Văn Học Sử PDF của tác giả Bằng Giang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Lược Sử Nước Việt Bằng Tranh (Nhiều Tác Giả)
Cuốn sách điểm những mốc cơ bản và nổi bật nhất, những hình dung khái quát nhất của lịch sử Việt Nam từ thời hồng hoang dựng nước cho đến tận ngày nay. Khuôn khổ sách theo dạng paranoma, trải dài như một dòng chảy liên tục. Các tranh minh họa được họa sĩ đầu tư rất công phu, kĩ lưỡng, mang đậm chất lịch sử. Với giọng văn kể chuyện nhẹ nhàng, sáng rõ, “Lược sử nước Việt bằng tranh” sẽ giúp các em hiểu và yêu thêm lịch sử nước nhà.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Lược Sử Nước Việt Bằng Tranh PDF của tác giả Nhiều Tác Giả nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.