Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Siêu Trí Nhớ
15 bài tập đơn giản giúp bạn rèn luyện trí nhớ hiệu quả “Trong cuốn sách này, tôi muốn chỉ cho bạn cách rèn luyện trí nhớ. Mục đích không chỉ để thành thạo những bài tập não bộ mà bạn chưa bao giờ nghĩ là mình có thể làm được, mà còn là đòn bẩy giúp tăng sự tự tin của bạn, cũng giống như tôi vậy. Khi bạn đã có ý niệm về tiềm năng bên trong trí nhớ của mình, thì bạn cũng sẽ sớm nhận ra tiềm năng đó còn có thể áp dụng cho những mặt khác của não bộ, từ khả năng tập trung và phản xạ nhanh nhạy (hay còn gọi là “trí thông minh mềm”) cho đến sự tự tin khi kể chuyện, khi diễn thuyết và thậm chí là cả khả năng ứng biến. Bằng cách dẫn dắt bạn đi trên hành trình khám phá của tôi, vẽ ra những cung đường đã đưa tôi đến vị trí ngày hôm nay, tôi hy vọng rằng, tôi có thể trao cho bạn phương tiện để bạn tìm thấy trí nhớ tuyệt đỉnh của mình.” -    Dominic O’Brien Cuốn sách cung cấp những kỹ thuật ghi nhớ có thể cải thiện hoàn toàn trí nhớ của bạn, đồng thời đưa ra những lời khuyên về sức khỏe tinh thần và thể chất để rèn luyện một trí nhớ hoàn hảo. Dominic O'Brien - 8 lần vô địch thế giới về trí nhớ - còn thiết lập 15 bài tập đơn giản đánh giá mức độ tiến bộ không ngừng của bạn xuyên suốt quá trình đọc cuốn sách. Tác giả: Dominic O’Brien nổi danh với những thành tựu ghi nhớ phi thường và những lần qua mặt các sòng bạc tại Las Vegas. Ngoài 8 lần giành được danh hiệu vô địch thế giới về trí nhớ, ông còn được vinh danh là Bộ óc Siêu việt, đồng thời là Kiện tướng Trí nhớ năm 1995. Vào năm 2005, ông đã được trao tặng giải Thành tựu Trọn đời để ghi nhận những công lao trong việc quảng bá nghệ thuật ghi nhớ đến khắp nơi trên thế giới. *** Review sách luyện tập Siêu Trí Nhớ | Domic O’Brien Sách Luyện tập Siêu Trí Nhớ của Dominic O’Brien là cuốn sách rèn luyện trí nhớ hữu ích mà Review Hay Hay muốn giới thiệu với các bạn. Xin chào các bạn, thời gian này thì chương trình Siêu Trí Tuệ Việt Nam mùa 2 đang phát sóng những rất gay cấn. Đó là sự đối đầu của các Siêu Trí Nhớ đã trải qua quá trình luyện tập miệt mài, để chọn ra những người xuất sắc nhất vào đội hình Siêu Trí Tuệ Việt Nam đi thi đấu Quốc Tế. Nhờ ảnh hưởng chương trình Siêu Trí Tuệ, hẳn là nhiều người trong chúng ta muốn tìm hiểu cách các bạn ấy ghi nhớ để vượt qua các thử thách, hay muốn học hỏi, luyện tập để có một trong nhớ tốt hơn. 1. GIỚI THIỆU CUỐN SÁCH SIÊU TRÍ NHỚ 1.1 Tác giả Dominic O’Brien Tác giả cuốn sách, ông Dominic O’Brien là người đã 8 lần vô địch thế giới về trí nhớ, với khả năng ghi nhớ phi thường của mình, ông đã bị các sòng bạc tại Las Vegas cấm cửa. Lúc nhỏ ông ấy bị mắc chứng khó đọc, không tập trung và việc học tập khá chậm chạp. Thầy cô thường nói ông sẽ không làm nên trò trống gì. Sau đó, ông biết đến và luyện tập trí nhớ và trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này. Ông là ví dụ điểm hình cho việc khẳng định trí nhớ có thể rèn luyện được chứ không phải bẩm sinh 1.2 Giới thiệu cuốn sách Siêu Trí Nhớ Cuốn sách cung cấp những kỹ thuật ghi nhớ có thể cải thiện hoàn toàn trí nhớ của bạn, đồng thời đưa ra những lời khuyên về sức khỏe tinh thần và thể chất để rèn luyện một trí nhớ hoàn hảo. Dominic O’Brien – 8 lần vô địch thế giới về trí nhớ – còn thiết lập 15 bài tập đơn giản đánh giá mức độ tiến bộ không ngừng của bạn xuyên suốt quá trình đọc cuốn sách. Cuốn sách sẽ chỉ cho bạn cách rèn luyện trí nhớ. Mục đích không chỉ để thành thạo những bài tập não bộ mà bạn chưa bao giờ nghĩ là mình có thể làm được, mà còn là đòn bẩy giúp tăng sự tự tin của các bạn. Khi bạn đã có ý niệm về tiềm năng bên trong trí nhớ của mình, thì bạn cũng sẽ sớm nhận ra tiềm năng đó còn có thể áp dụng cho những mặt khác của não bộ, từ khả năng tập trung và phản xạ nhanh nhạy (hay còn gọi là “trí thông minh mềm”) cho đến sự tự tin khi kể chuyện, khi diễn thuyết và thậm chí là cả khả năng ứng biến. 2. NỘI DUNG CUỐN SÁCH SIÊU TRÍ NHỚ 2.1 Tổng quan nội dung Nội dung cuốn sách Siêu Trí Nhớ rất thực tế, nó cung cấp các bài tập để chúng ta có thể rèn luyện trí nhớ. Những bài tập này gắn liền với hành trình của tác giả Dominic O’Brien từ khi bắt đầu luyện tập tới lúc vô địch thế giới về trí nhớ. Từ việc ông gặp những khó khăn nào trong việc luyện tập và cách chúng ta chăm sóc bộ não như ăn ngon, chơi bời quá mức (ăn nhậu, bar, chất kích thích…) hay thức khuya… cũng được đề cập ở trong sách. 2.2 Các phương pháp ghi nhớ Từng phần trong cuốn sách còn có những bài tập để chúng ta thực hành luôn các phương pháp mà ông truyền tải. Những phương pháp mà ông đề cập đi từ đơn giản đến phức tạp như: Phương pháp liên kết: là liên kết các sự vật/sự việc cần nhớ lại với nhau thành một câu chuyện mà ta ấn tượng, chúng ta chỉ cần nhớ câu chuyện đó là sẽ nhớ các sự vật, sự việc khác. Phương pháp hành trình: tạo ra một hành trình như trải nghiệm thực tế của chính mình cho các sự vật/sự việc cần nhớ, hành trình này theo thứ tự cần nhớ và logic với nhau. Phương pháp mã hóa nhị phân: Mã hóa thông tin cần nhớ thành số nhị phân. Ví dụ Trong sách còn có một số phương pháp khác nữa, phần này các bạn mua sách về khám phá nha. Tác giả có đề cập đến thử thách nhớ 52 lá bài, giống vớ thử thách mà anh….tham gia cuộc thi Siêu Trí Tuệ có tham gia, mình thấy phần thử thách này rất thú vị và áp dụng nhiều phương pháp ghi nhớ lại với nhau. 2.3 Đánh giá nội dung Với việc đề cập nhiều phương pháp thực tế và bài tập để thực hành, thì theo mình những người mới bắt đầu, chưa biết gì về ghi nhớ cũng có thể áp dụng và rèn luyện trí nhớ của mình. So sánh với cuốn sách Giải Mã Siêu Trí Nhớ của Mai Tường Vân thì mình thấy khá nhiều điểm tương đồng trong các phương pháp ghi nhớ. Tuy nhiên cuốn sách Siêu Trí Nhớ thì đi sâu vào việc giải thích và tường thuật cách tác giả luyện tập, còn sách của Mai Tường Vân có những điểm riêng biệt để người Việt có thể luyện tập như cung cấp bảng mã hóa bằng tiếng Việt. Các bạn nào có thắc mắc về nội dung thì hãy để lại bình luận bên dưới, mình sẽ check và phản hồi các bạn nhé. 3. ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT SÁCH SIÊU TRÍ NHỚ 3.1 Những ai nên đọc Có một trí nhớ tốt là rất hữu ích đối với tất cả chúng ta, vậy nên cuốn sách Siêu Trí Nhớ là một cuốn sách mà những người chưa biết cách ghi nhớ hay có vấn đề về việc ghi nhớ trong học tập và cuộc sống hằng ngày. Cuốn sách Siêu Trí Nhớ với cơ sở khoa học và nhiều bài tập để chúng ta có thể thực hành và luyện tập trí nhớ. 3.2 Giá và chất lượng Cuốn sách này cũng có thể được coi là “vỡ lòng” đối với những bạn có mong muốn rèn luyện trí nhớ và đi thí đấu. Chất lượng giấy của cuốn sách khá tốt, giá bìa là 99k. Mình có để đường link mua sách ở bên dưới, các bạn có thể click vào và mua nha. Mời các bạn đón đọc Siêu Trí Nhớ của tác giả Dominic O’Brien & Thảo Trâm (dịch).
Phương Pháp Học Tập Ở Đại Học
Giáo sư John Vũ - Nguyên Phong, là một nhà khoa học nổi tiếng ở Mỹ, đứng trong Top 10 người sáng tạo nhất thế giới (mà đứng đầu là Bill Gates và Steve Jobs). Ông chính là người dịch tác phẩm nổi tiếng Hành trình về Phương Đông, một trong những tác phẩm hay nhất về phương Đông từ trước đến nay. Giáo sư John Vũ cũng là một người rất quan tâm đến khoa học công nghệ, với trên 10.000 bài viết đã được đăng trên blog Science-Tecnology.  Giáo sư John Vũ là một người Mỹ gốc Việt có những đóng góp rất lớn về nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đối với thế hệ trẻ. Xin giới thiệu một Ebook về phương pháp học tập ở đại học được lấy từ trang science-technology.vn. *** Một cuốn sách hữu ích của Giáo sư John Vu (Nguyên Phong – Tác giả sách “Muôn kiếp nhân sinh” và nhiều cuốn sách “bom tấn” khác.) dành cho những bạn đang là sinh viên hoặc chuẩn bị bước vào cánh cửa Đại học. *** Nhiều thầy vẫn dùng phương pháp dạy tập trung vào lí thuyết và ghi nhớ thay vì phương pháp giảng dạy mới chú trọng vào áp dụng. Khó thay đổi phương pháp giảng dạy khi hàng nghìn thầy giáo được đào tạo theo truyền thống cũ và nhiều người không thoải mái khi phải thay đổi. Hệ thống giáo dục thay đổi chậm chạp và phải mất mười hay hai mươi năm nữa mới có thể thích nghi phương pháp dạy mới nhưng nếu như thế chúng ta có thể vụt mất cơ hội để tiến bước cùng thời đại số. Nhiều sinh viên thường chờ tới trước kỳ thi cuối kỳ rồi “nhồi nhét” mọi thứ một lúc. Đó là lí do tại sao họ có thể biết “vài thứ” đủ để qua được môn học nhưng không thể phát triển được kĩ năng rất cần là ứng dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sự thật là khi dùng lối tắt để học và không có kiến thức sâu sắc, SV không thể giải quyết được vấn đề họ gặp khi ra trường. Hiện nay nhiều sinh viên chỉ nghĩ về việc qua được kì thi, có được bằng cấp, nhưng KHÔNG nghĩ đủ xa vào tương lai nơi họ phải xây dựng nghề nghiệp. Không có phương hướng học tập rõ ràng, không có kế hoạch học tập, nên nhiều người tốt nghiệp không tìm được việc làm là phải. Mời các bạn đón đọc Phương Pháp Học Tập Ở Đại Học của tác giả John Vu.
Nghệ Thuật Lắng Nghe Trong Giao Tiếp
Việc trở thành một người lắng nghe tốt hơn có ý nghĩa thế nào đối với bạn? Cuộc đời bạn sẽ thay đổi ra sao nếu bạn biết lắng nghe hơn? Trong thế giới hiện đại ngày nay, dường như chúng ta đã quá quen với việc chạy theo những lợi ích cá nhân và dần quên đi sự quan trọng của việc dừng lại và lắng nghe. Khả năng lắng nghe người khác thực sự có thể được coi là kỹ năng quan trọng nhất, giúp thay đổi cuộc đời của bạn và những người xung quanh bạn. Trong giao tiếp đời thường, kỹ năng lắng nghe sẽ giúp bạn xây dựng các mối quan hệ dựa trên nền tảng tiếp nhận thông tin; trong công việc, lắng nghe không chỉ giúp bạn tiếp nhận kiến thức, kinh nghiệm từ những người có chuyên môn, mà còn giúp bạn thấu hiểu đồng nghiệp hơn và từ đó có thể giúp đỡ nhau cùng phát triển, đạt hiệu suất cao. Với những ví dụ sinh động, các kỹ thuật dễ học và bài tập thực tế, hãy cùng học lại cách lắng nghe hiệu quả từ bậc thầy về giao tiếp – Dale Carneige thông qua cuốn sách “Nghệ thuật lắng nghe trong giao tiếp”. Bạn có thể tự đánh giá khả năng lắng nghe của bản thân thông qua bài kiểm tra “Bạn có nghe tôi nói không?”. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng sẽ giới thiệu các đặc điểm thường thấy từ bảy lọai hình người nghe để từ đó gợi ý cho bạn cách thức giao tiếp sao cho phù hợp. Trong chương 3, tác giả sẽ phân tích bốn kiểu lắng nghe, bao gồm: Giả vờ lắng nghe, lắng nghe để đáp trả, lắng nghe học hỏi và lắng nghe đồng cảm.Tất nhiên, đây không phải là danh sách tuyệt đối về các loại hình lắng nghe. Chỉ cần lướt nhanh một vòng trên Internet là bạn có thể thấy hằng hà sa số những cái tên và những mô tả cho các loại hình lắng nghe khác nhau. Tuy nhiên bốn loại hình trên đây có thể bao hàm cho các loại còn lại. Hãy tận hưởng trong quá trình đọc và đắm chìm trong những kiến thức chứa đựng trong cuốn sách này. Món quà tuyệt vời nhất mà bạn có thể dành tặng cho người khác chính là trở thành phiên bản tốt hơn của chính bản thân bạn. Và điều đó bắt đầu với việc trở thành một người lắng nghe hiệu quả hơn. *** [Bookademy] Review Sách Có khi nào bạn cảm thấy không muốn nói chuyện với bố mẹ hay người thân vì họ không lắng nghe bạn không? Có khi nào bạn cãi nhau với đứa bạn thân vì hiểu sai ý nhau không? Hay có bao giờ từ bỏ một mối quan hệ vì không thể giao tiếp? Frank Tyger, nhà báo và nhà vẽ tranh biếm họa người Mĩ, từng nói: “Thính giác là một trong năm giác quan của con người. Nhưng lắng nghe là cả một nghệ thuật.” Thật vậy. Nhiều người cho rằng việc nghe dễ hơn nói bởi họ không phải nghĩ nên và không nên nói gì. Những người không biết cách trò chuyện lại càng lấy cớ lắng nghe để đẩy trách nhiệm cho đối phương. Tuy nhiên, việc lắng nghe cũng quan trong như việc nói vậy, bởi để giao tiếp thành công cần có sự tương tác hai chiều giữa hai bên đối thoại. Người nghe cần thấu hiểu, hay ít nhất là nắm bắt được chủ đề người nói đang đề cập tới, từ đó khiến người nói có cảm giác thoải mái và tạo dựng được một mối quan hệ tốt đẹp. Lắng nghe, trên thực tế, là một kĩ năng khó. Nhưng cuốn sách “Kĩ năng lắng nghe trong giao tiếp” của Hiraki Noriko sẽ dạy bạn mọi thứ bạn cần để dành 50% chiến thắng trong đời. Tại sao lắng nghe lại quan trọng? Mới đây thôi, tôi đã cắt đứt quan hệ tình bạn với một người. Có nhiều lí do dẫn đến kết quả này, nhưng một trong số đó lại là vấn đề giao tiếp giữa chúng tôi. Tôi đã qua tuổi 18, em vẫn còn là một đứa nhỏ cần sự quan tâm và thấu hiểu. Tôi có thể lờ đi mọi thứ khiến bản thân bực bội, em thì thích để chúng vào mắt. Tôi ở một góc độ nào đó đã thấu hiểu sự bất công của thế giới, em thì lại quá nhạy cảm. Mỗi lúc trông thấy tôi, em sẽ quấn quit kể về những điều em trông thấy, cảm thấy và những chuyện xảy ra trong ngày hôm đó. Sẽ không có gì đáng nói nếu tôi không càng ngày càng phát ngán với những câu chuyện tưởng chừng bất tận về cùng hay vài chủ đề luẩn quẩn. Em hay kể những chuyện khiến em không thoải mái, những điều tôi chẳng quan tâm, những thứ tôi đã dặn em đừng làm nữa nhưng em vẫn ngang bướng không nghe. Và tôi bắt đầu hờ hững với em, hờ hững lắng nghe những câu chuyện em kể. Có quá nhiều khác biệt giữa chúng tôi khiến việc chấm dứt chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng tôi đã nghĩ đến một cái kết trong êm đẹp, chứ không phải bắt đầu bằng việc tổn thương em bởi sự hờ hững ích kỉ này. Thế đấy, bạn của tôi ạ, lắng nghe quan trọng bởi nó có thể giúp bạn giữ lại dù chỉ một chút kỉ niệm đẹp về đối phương, để bạn không phải ngày ngày canh cánh trong lòng hai chữ “xin lỗi”, và nếu bạn không phải là một kẻ xấu xa như tôi, có thể bạn sẽ hàn gắn được mối quan hệ đang rạn nứt này với tình yêu thương và tấm lòng thông cảm, bao dung. Như đã đề cập ở trên, lắng nghe là một trong hai chiều của giao tiếp. Nếu việc nói giúp bạn bộc lộ bản thân và chia sẻ quan điểm thì việc nghe giúp bạn hiểu đối phương, từ cách suy nghĩ đến tính cách và thái độ của người đang cùng bạn trò chuyện, rồi dựa vào đó mà khéo léo tạo dựng được những mối quan hệ phù hợp, có thể khiến bạn được yêu mến nữa (Bởi là thôi nào, có ai mà không yêu mến người khiến mình thoải mái trò chuyện và được thấu hiểu chứ?)  Như Johann Wolfgang von Goethe có nói: “Nếu bạn muốn hiểu tư duy của ai đó, hãy nghe anh ta nói.” Tác giả Hiraki Noriko cũng cho biết: Những người không biết cách lắng nghe, không nắm bắt được chủ đề đối phương đang nói, tuy không phải là người xấu nhưng cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong giao tiếp. Nói một cách cực đoan thì họ sẽ không tạo dựng được mối quan hệ với mọi người trong gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp, thậm chí những việc đơn giản như mua đồ tại cửa hàng cũng trở nên khó khăn với họ. Hơn thế nữa, những người như vậy cũng khó có thể hi vọng rằng mình sẽ có một mối quan hệ thân thiết hay sự đồng cảm sâu sắc với người khác. Từng ấy lí do đã đủ khiến lắng nghe trở nên quan trọng chưa? Về đối tượng hướng đến Theo từ điển Oxford, giao tiếp (communication) là hành động hay quá trình cung cấp thông tin, diễn đạt suy nghĩ và cảm xúc đến mọi người. Trong tiếng Anh, “communication” (giao tiếp) và “community” (cộng đồng) có cùng từ gốc Latin “communis”, mang nghĩa chung, phổ biến. Bên cạnh đó, tiếng Latin còn có từ “communicare”, nghĩa là khiến cái gì đó trở nên phổ biến với nhiều người, chia sẻ, truyền đạt, chia ra. Do vậy, ta có thể suy ra bản chất của giao tiếp chính là sự sẻ chia. Theo tâm lý học, giao tiếp là hoạt động xác lập, vận hành các mối quan hệ giữa người với người nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội, là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến khi mất đi. Con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa, đạo đức, chuẩn mực xã hội thông qua giao tiếp. Như vậy, con người không thể tồn tại mà không có giao tiếp, và ai cũng cần quan tâm đến cách lắng nghe. “Kĩ năng lắng nghe trong giao tiếp” của Hiraki Noriko phù hợp với mọi đối tượng. Dù bạn là cô gái tuổi đôi mươi hay đã là phụ huynh của hai nhóc tì, thậm chí là một ông lão tóc bạc trắng, dù bạn có đang gặp khó khăn trong giao tiếp nói chung và kĩ năng lắng nghe nói riêng hay không, dù bạn có muốn thay đổi hay không, bạn vẫn có thể đọc hiểu và áp dụng cuốn sách này. Ở mỗi chương đều có những hình minh họa tóm tắt và ví dụ cụ thể mà người đọc dễ dàng liên hệ vào thực tế. Càng đọc những lời khuyên của Hiraki Noriko, tôi càng nhận ra bản thân đã mắc quá nhiều lỗi trong việc lắng nghe như thế nào, dù tôi luôn nhận mình là đứa giỏi nghe hơn nói. Chà, nghe mỉa mai nhỉ? Nhưng đó là sự thật. Bởi tôi đã nhầm tưởng về việc lắng nghe như bao người ngoài kia. Tôi nhận ra, nghe và hiểu điều đối phương muốn đề cập không phải là tất cả, đáp lại đối phương như thế nào cũng vô cùng quan trọng. Nếu bạn đã từng gắt gỏng với bố mẹ, từng không muốn trò chuyện với gia đình vì không ai hiểu cách suy nghĩ của bạn hay từng đánh mất một mối quan hệ và cách lắng nghe là một trong nhiều vấn đề dẫn đến rạn nứt, giống như tôi, thì bạn nên ra hiệu sách và mang cuốn này về, bởi nó sẽ giúp bạn nhiều hơn bạn tưởng tượng về một cuốn sách kĩ năng. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Lắng Nghe Trong Giao Tiếp của tác giả Dale Carnege & Ngân Nga (dịch).
Nghệ Thuật Làm Vợ
Nghệ thuật làm vợ là nghệ thuật biến một người phụ nữ bình thường thành niềm ao ước của đại đa số đấng mày râu. Một nửa thế giới còn lại mong muốn gì về những người vợ như chúng ta? Làm vợ, đơn giản là trở thành một hình mẫu lý tưởng trong lòng các quý ông chồng. Vậy, bạn có đang nằm trong Top những người vợ lý tưởng ? Người vợ như thế nào là người vợ đáng để mơ ước. Làm vợ là cả một nghệ thuật và người phụ nữ trong thế giới hiện đại luôn hướng tới chuẩn mực nhất định. Sự dịu dàng, thông minh, đảm đang, ngăn nắp hay biết nấu ăn,.. chưa hẳn là yếu tố làm vợ, làm mẹ một cách hoàn hảo. Làm vợ được trải qua thời gian khá dài, làm tròn bổn phận và trách nhiệm của một người vợ khiến ai ai cũng phải ngưỡng mộ quả là điều không đơn giản. Cuốn sách này chắt lọc kinh nghiệm của những "người vợ" đi trước, là cẩm nang hữu ích giúp bạn trở thành người vợ đảm đang trong gia đình hạnh phúc. *** Làm vợ! Hai tiếng ngắn gọn và giản dị đó bao hàm biết bao trọng trách thiêng liêng của người phụ nữ. Ngay từ lúc cúi lạy trước bàn thờ tổ tiên là đôi lứa đã cảm thấy cuộc đời cả hai thuộc về nhau rồi. Cũng từ giây phút ấy, bạn sẽ không còn nghĩ và làm cho riêng cá nhân nữa, và chồng bạn cũng vậy... Hai con người riêng rẽ đã tiến đến bên nhau để cùng đi chung một cuộc đời. Bạn và chồng bạn phải cùng nhau gánh vác nhiệm vụ xây dựng gia đình mà trong đó cả hai sẽ cùng nhau chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn, phải hòa hợp với nhau cả tâm hồn và thể xác. Cuộc sống ấy không hoàn toàn thơ mộng đẹp đẽ như bạn tưởng tượng trước đó, nhưng nó cũng sẽ là một "mái ấm vô cùng tuyệt vời" cho bạn và chồng bạn nếu cả hai cùng yêu thương, cảm thông nhau và cùng có một nghị lực phấn đấu trước các chông gai thử thách của cuộc đời. Nhưng để được như vậy, trước hết bạn phải làm đủ trọng trách của một người làm vợ. Hãy làm sao cho căn nhà của bạn là một tổ ấm mà chồng bạn phải nhớ tới, phải cần tới để được thoải mái nghỉ ngơi, làm cho mọi người cảm thấy được hạnh phúc bên nhau... Tất cả là do nghệ thuật làm vợ của bạn. Cuốn Nghệ Thuật Làm Vợ sẽ phân tích và hướng dẫn cho các bạn rõ những vấn đề trên. Với Nghệ Thuật Làm Vợ, mong rằng khi bạn đã trao tay cho chàng đeo nhẫn là bạn đã quên tất cả để sống với chồng cho trọn vẹn, và là lúc bạn sẽ đem tất cả sự khôn ngoan, tế nhị cũng như lòng nhân ái vốn có của phụ nữ làm hành trang đi vào đời. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Làm Vợ của tác giả Lan Anh (biên soạn).