Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Zaches Tí Hon Mệnh Danh Zinnober - E. T. A. Hoffmann

Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober là một trong những truyện trào lộng hay nhất của văn học lãng mạn Đức, một tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần suốt hai trăm năm qua ở châu Âu và nhiều quốc gia trên thế giới. Chắc chắn bạn sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc... *** E.T.A. Hoffmann (Ernst Theodor Amadeus Hoffmann, 1766 - 1822) là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng Đức có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với các trào lưu văn học lãng mạn ở châu Âu trong thế kỷ XIX. Với tác phẩm Tiểu thư Scuderi, ông được nhìn nhận là cây bút khởi xướng cho dòng văn học trinh thám và hình sự. Với những truyện cổ tích huyễn tưởng như Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober, Chiếc âu vàng, Công chúa Brambila, Thống lĩnh Bọ Chét..., E.T.A. Hoffmann được đánh giá là vị tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, thậm chí ông còn được tôn vinh là nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa siêu thực. Trong thế kỷ XIX, hiếm có nhà văn Đức nào lại có nhiều tác phẩm bán chạy nhất và được công chúng chờ đón như E. T. A. Hoffmann, bởi lẽ, văn chương của ông rất lạ, vừa thực vừa ảo, vừa ly kỳ rùng rợn lại vừa rất hiện thực, xuất phát từ đời sống xã hội thời ông sống, và hơn thế, các câu chuyện mang sắc màu cổ tích lãng mạn được ông viết ra trong những lúc tỉnh tỉnh say say lại vô cùng hấp dẫn không những với thiếu nhi mà còn cuốn hút đông đảo các độc giả lớn tuổi. Các nhà văn Pháp nổi tiếng rất thích đọc Hoffmann, chẳng hạn như T. Gautier, A. Dumas, Musset, G. Nerval, thậm chí đại văn hào H. Balzac còn tôn vinh Hoffmann là “Nhà ảo thuật của phương Đông”. Và ở nước Nga, Puskin, Gogol và nhất là Doxtoevxki luôn tìm đọc Hoffmann. Cũng ở nước Nga, nhạc sĩ thiên tài Traikopxki đã vô cùng thích thú khi đọc truyện Vua chuột và Chàng cắn hồ đào của Hoffmann và sau đó, dựa trên tác phẩm này, Tchaikovsky đã sáng tác một vở nhạc vũ kịch nổi tiếng thế giới, công diễn lần đầu tại Xanh Petecbua ngày 6 tháng 12 năm 1892. Còn nhạc sĩ Pháp J. Offenbach, một người rất yêu mến Hoffmann, đã đưa các nhân vật kỳ dị của ông lên sân khấu âm nhạc, sáng tác ra vở nhạc kịch nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Cho đến nay, Những câu chuyện Hoffmann (sáng tác năm 1811) của Offenbach vẫn luôn được trình diễn trên nhiều nhà hát kịch thế giới... Và giờ đây, bạn đọc yêu quý, bạn đương cầm trên tay mình cuốn truyện kỳ thú Zaches Tí Hon... của Hoffmann, một trong những truyện trào lộng hay nhất của văn học lãng mạn Đức, một tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần suốt hai trăm năm qua ở châu Âu và nhiều quốc gia trên thế giới. Chắc chắn bạn sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc. Xin chúc bạn đọc có nhiều niềm vui với Zaches Tí Hon và nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. *** Bạn đọc thân mến, bây giờ đến lúc người ghi chép lại những trang sách này cho bạn phải chia tay mất rồi, anh ta bỗng thấy buồn và băn khoăn e ngại, bởi lẽ, anh còn biết rất nhiều chuyện lạ lùng về Zinnober và thực sự có hứng thú muốn được kể hết cho bạn nghe, như anh đã viết lại câu chuyện này bởi một sự thôi thúc nội tâm không thể nào cưỡng lại được. Nhưng mà thôi! Nhìn lại tất cả các sự kiện diễn ra trong chín chương vừa qua, anh cảm thấy trong đó có quá nhiều điều kỳ dị, huyễn hoặc ngược lại với lý trí thông thường, đến nỗi nếu anh cứ tích tụ thêm những chuyện tương tự như thế nữa, chắc sẽ có nguy cơ làm mất lòng bạn đọc và lạm dụng sự độ lượng của bạn. Vì vậy, khi phải viết dòng chữ “Chương cuối cùng” như thế này, lòng anh bỗng nhiên thấy buồn bã và bâng khuâng, ngần ngại muốn được thỉnh cầu bạn đôi lời: xin bạn hãy để cho mình đọc truyện này với một tâm trạng thật thoải mái và vô tư để nhận xét các nhân vật kỳ dị đến với bạn, vâng, thậm chí hãy làm bạn với chúng, bởi các nhân vật ấy đến với nhà văn nhờ anh ta linh cảm được sự hiện hình dị thường của chúng, còn gọi là trí tưởng tượng, và có lẽ anh ta cũng để mình bị cái bản tính dị thường và thất thường của chúng cuốn hút theo. Xin bạn đọc đừng vì thế mà giận dỗi nhà văn và cái bản tính thất thường kia! Bạn đọc thân yêu, nếu trong lúc đọc truyện thỉnh thoảng bạn lại tủm tỉm cười thầm về điều này điều nọ, thì đó chính là bạn đã ở trong tâm trạng mà người viết những trang sách này hằng ước mong, và anh ta tin rằng, bạn đã coi nhà văn có những điều tốt đẹp! Thực ra câu chuyện này có thể kết thúc bằng cái chết bi thảm của thượng thư Zinnober nhỏ bé. Nhưng thay cho một đám tang buồn bã lại là một đám cưới tươi vui trong đoạn kết có phải còn thú vị hơn không? Vì vậy xin bạn đọc dành ít phút nghĩ tới chàng Balthasar và nàng Candida kiều diễm. Giáo sư Mosch Terpin vốn là người từng trải việc đời và đã được khai sáng, ông hành động theo một câu châm ngôn rất thông thái là: “Không có gì làm ta phải ngạc nhiên” và quả vậy, từ rất nhiều năm nay ông không hề ngạc nhiên trước bất kỳ chuyện gì xảy ra trên thế gian. Nhưng bây giờ khác rồi, ông đành phải chối bỏ sự uyên bác của mình và liên tục phải ngạc nhiên hết chuyện này đến chuyện khác, đến nỗi sau cùng ông ca thán về việc mình không còn biết gì nữa, không biết ông có đúng là giáo sư Mosch Terpin hay không, có đúng là ông từng điều hành việc nghiên cứu các vấn đề thiên nhiên của quốc gia hay không, có đúng là ông đang thực sự ngẩng đầu nhìn trời cao và đang dạo bước trên đôi chân của chính mình không? Trước hết giáo sư Mosch Terpin ngạc nhiên khi thấy Balthasar giới thiệu với ông rằng tiến sĩ Prosper Alpanus là ông chú của chàng, và ông chú này lại chìa cho ông xem các giấy tờ trao tặng toàn bộ tài sản cho Balthasar, biến chàng thành chủ nhân của một trang ấp cách thành Kerepes chừng một giờ với đầy đủ cả nhà cửa, ruộng vườn và rừng cây; rồi ông lại ngạc nhiên không tin vào mắt mình khi xem bản liệt kê tài sản với vô số những đồ đạc quý giá cùng rất nhiều, rất nhiều những thỏi vàng thỏi bạc mà giá trị của nó vượt xa cả kho báu của quốc vương! Ông càng ngạc nhiên hơn khi cầm chiếc kính một mắt và một gọng của Balthasar soi vào chiếc quan tài lộng lẫy mà Zinnober đang nằm và chợt nhận ra rằng: trên đời này chưa từng có một quan thượng thư Zinnober nào cả, chỉ có một gã nhóc thô lỗ, ương ngạnh mà người đời đã ngộ nhận là ngài thượng thư Zinnober uyên bác và thông minh. Sự ngạc nhiên của giáo sư Mosch Terpin đã đạt tới đỉnh điểm khi Prosper Alpanus dẫn ông đi tham quan ngôi nhà, chỉ cho ông thấy thư viện của mình và nhiều vật dụng khác, thậm chí còn biểu diễn cho ông xem một vài thí nghiệm cực kỳ lý thú với những động vật và thực vật lạ lùng. Giáo sư chợt nảy ra ý nghĩ là mọi công việc nghiên cứu của ông chẳng là gì hết cả, và hiện ông đương ở trong một thế giới huyền ảo rực sắc màu như đang ở trong một quả trứng vàng vậy. Ý nghĩ này làm ông thấy tủi thân, đến nỗi ông kêu than và sau cùng oà lên khóc như một đứa bé con. Ngay tức khắc Balthasar dẫn giáo sư vào một hầm rượu rộng thênh thang, nơi ông nhìn thấy vô số các thùng rượu lấp lánh và các chai rượu vang óng ánh. Chàng nói rằng ở đây ông có thể làm thí nghiệm tốt hơn nhiều so với hầm rượu của quốc vương, và ở khuôn viên tươi đẹp ngoài kia ông tha hồ được nghiên cứu thiên nhiên. Thế là giáo sư đã tĩnh tâm trở lại. Đám cưới Balthasar được tổ chức trong tòa biệt thự của trang ấp. Balthasar, các bạn của chàng, Fabian và Pulcher, tất cả đều kinh ngạc trước vẻ đẹp lộng lẫy của Candida, trước sức hấp dẫn kỳ diệu về tư chất cũng như về trang phục của nàng. Quả thực có một phép màu vây quanh nàng, vì tiên nữ Rosabelverde đã quên đi mọi chuyện bực mình và tới dự lễ cưới với tư cách tiểu thư Hoa Hồng Đẹp trong tu viện. Tiên nữ đã đích thân mặc quần áo cho Candida, trang điểm cho nàng bằng những bông hồng kỳ lạ, đẹp mắt nhất. Hiển nhiên quần áo Candida mặc rất vừa một khi có đôi bàn tay tiên điều khiển nó. Rosabelverde còn tặng cho cô dâu một chiếc vòng đeo cổ lấp lánh rất đẹp, chiếc vòng này có phép màu đặc biệt: ai đeo nó bên mình thì người đó sẽ không bao giờ bực dọc hay khó chịu về những chuyện vặt vãnh, chẳng hạn về một dải ruy băng bị thắt nút, một đồ trang sức trên tóc bị xô lệch hay một vết bẩn trên áo quần và đại loại như vậy. Chính phép màu này làm gương mặt Candida có một vẻ diễm kiều và tươi tỉnh đặc biệt đáng yêu. Chú rể và cô dâu đắm mình trong hạnh phúc ngất ngây, nhưng họ vẫn không quên dành ánh mắt và ngôn từ cho bạn bè thân tới dự lễ. Prosper Alpanus và Rosabelverde cũng góp sức để có những chuyện thần kỳ nhất làm tươi vui cho ngày cưới. Khắp nơi, từ cây cối đến bờ bụi, chỗ nào cũng thấy ngân nga những âm điệu yêu thương ngọt ngào, trong khi đó thì các bàn tiệc óng ánh bày đầy các món ăn ngon lành nhất cùng với các chai bằng pha lê chứa rượu vang thượng hảo hạng rót lửa nồng sự sống vào huyết mạch của các khách đến mừng. ... Mời các bạn đón đọc Zaches Tí Hon Mệnh Danh Zinnober của tác giả E. T. A. Hoffmann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Cười của Thánh nhân - Nguyễn Duy Cần
Cái Cười Của Thánh Nhân không chỉ là một quyển biên khảo về văn chương u mặc phương Đông, mà còn hàm chứa trong nó những giá trị nhân văn. Những câu chuyện cổ, những bài văn u mặc trong quyển sách cho ta thấy cuộc đời dưới một lăng kính khác hài hước hơn, thú vị hơn và sâu sắc hơn. Một cuốn sách không chỉ để mua vui mà còn khiến người đọc phải suy ngẫm. "Cái cười của Thánh nhân" là tiếng cười của người thoát vòng tục lụy, tiếng cười vang của con người tự do, tiếng cười vang vọng ngàn năm khắp mấy cõi trời... Đó là tiếng cười của Lão Tử, của Trang Tử và của bao hiền nhân khác biết tung tăng đùa chơi với cuộc đời. Nguyễn Duy Cần đã mượn chuyện ngàn xưa để cười chuyện thời nay đó! Chúng ta đang ở trong một thế giới vật chất đầy đủ nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng tinh thần của chúng ta mệt lắm, khổ lắm bởi tầm nhìn, tầm nhận thức của chúng ta. Chúng ta đang sống vì những việc mà mình cho là quan trọng lắm, giá trị lắm, cần thiết lắm và những cuộc tranh giành, chiến tranh, đau khổ cũng vì đó mà diễn ra... Dường như cuộc sống đang thiếu vắng dần sự bình yên, thiếu vắng dần hạnh phúc! Đọc Cái cười của Thánh Nhân để chúng ta biết cười mình, biết xót xa thân phận của mình và biết tự giải thoát để có tiếng cười đầy hoan lạc trong cuộc đời. - Bác sĩ Trương Thìn, 27/02/2012 *** Một nhà văn tây phương có viết: “Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện” Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn… đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn… mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác… theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình… đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã “cười to” với câu nói bất hủ này: “Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!” Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu “u mặc đại sư” có nói: “U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện”. U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là “văn minh nhất” lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: “Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái “trống không” của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế… Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. ... Mời các bạn đón đọc Cái Cười của Thánh nhân của tác giả Nguyễn Duy Cần.
Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen - Stefan Zweig
Nhớ lần đầu đọc Bức thư của người đàn bà không quen do bạn giới thiệu, đọc không thể dứt và đọc xong buốt lạnh cả sống lưng! Thật không thể hình dung được một chuyện như vậy lại có thể xảy ra và người ta (cô gái, ông nhà văn, thượng đế hay thánh Allah, Phật tổ) có thể để nó xảy ra như vậy. Tôi cố gắng hình dung và gọi tên mối tình của người con gái ấy nhưng không sao làm được, nó khác tất cả mọi mối tình từng được mô tả trong sách báo, thơ văn và cả ngoài đời. Không phải chỉ là lãng mạn vì cô gái hiểu rõ người đàn ông kia, rõ từ cái hay, cái dở, cho đến từng giây từng phút trong thói quen sinh hoạt của ông ta. Phải, khi cô còn bé, sống trong sự thiếu thốn tình cảm, có thể tình cảm đó xuất phát từ sự lãng mạn + ngưỡng mộ + nhu cầu giao cảm. Nhưng rồi cô lớn lên, cô trải nghiệm cuộc sống, cô hiểu bản thân và hiểu người tình của mình rất rõ, tình yêu của cô vẫn như vậy, thậm chí còn nồng nàn hơn bởi nó đã mang dáng dấp tình yêu của một người phụ nữ với tư cách là một người phụ nữ hoàn chỉnh. Từ chỗ không thể gọi tên mối tình câm lặng ấy, tôi đâm ra nghi ngờ không biết liệu có thể có thật hay không - một tình cảm trong bối cảnh như vậy. Tôi đọc lại bức thư, đọc lại nhiều lần nữa và nhận thấy, nó có thể, có thể có thật vì tất cả diễn ra đều rất logic và có thể hiểu được. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể nào gọi tên hay mô tả tình yêu của cô gái một cách ngắn gọn được. Đã có lúc tôi tự hỏi tay nhà văn kia có phải người xấu không, có xứng đáng được nhận một tình cảm như vậy hay không? Có lẽ nếu tay nhà văn đó không xứng đáng thì tôi cũng nhẹ đi một chút, có chỗ để mà xỉ vả cho bõ tức - thói xấu muốn trút tình cảm vào một cái gì đó mà. Nhưng đọc đi đọc lại, tay nhà văn đó cũng chả có gì xấu hết. Bác ấy sống phóng túng trong tình cảm, sống trong sự đầy đủ về vật chất, viết văn, và chả hề có ý định che dấu các điểm hay, điểm dở trong phong cách của mình. Lúc nào cũng thế, tình cảm và phớt lạnh, nồng nàn và hời hợt - không che giấu chút nào. Và cô gái yêu đúng con người đó, không phải một hình tượng mà nhà văn cố tình tạo ra để thu hút, cũng không phải cô gái chủ động vẽ lên để mê hoặc bản thân. Đoạn kết, nhà văn nhìn bình hoa và không thể nào hình dung ra rõ rệt bất cứ điều gì về người con gái ấy. Một mình trong căn phòng vắng lặng với bình hoa mà trong những năm trước, có một hình bóng âm thầm cắm những bông hoa trắng cho ngày sinh nhật của ông. Không hiểu nhà văn cảm nhận sự mất mát đó như thế nào khi mà ông chưa bao giờ biết rằng mình có để mà biết mình có thể mất... Cuốn sách này gồm 2 truyện vừa, bên cạnh Bức thư của người đàn bà không quen là 24 giờ trong đời một người đàn bà, đều đã được dựng thành phim. Bên cạnh nguyên tác văn học, cuốn sách còn cung cấp thông tin và hình ảnh đẹp về các bộ phim làm theo hai câu chuyện đầy bi kịch về tình yêu đơn phương không được đền đáp của những người phụ nữ. 24 giờ trong đời một người đàn bà là hồi ức của một người phụ nữ lớn tuổi kể về mối quan hệ tình cờ và kỳ dị với một chàng trai mê cờ bạc. Giằng co giữa niềm tin đạo đức và sự tha hóa của con người, những nhân vật trong truyện dường như tuyệt vọng trong việc chiến thắng định mệnh, để rồi số phận đẩy đưa đến những lối rẽ không dừng được. Một trích đoạn nhỏ trong 24 giờ trong đời một người đàn bà, thay cho lời kết của bài viết này: “… Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh oan và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tội, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khứ, đè chặt lấy quá khứ không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ”… *** Stéfan Zweig (28 tháng 11, 1881 - 22 tháng 2, 1942) là một nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch và nhà viết tiểu sử người Áo nổi tiếng trên thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả gốc Do Thái ở thành phố Viên, Áo. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Thế chiến thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930 ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Tháng 2 năm 1942 , trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro ( Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stéfan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948  truyện Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen Biết đã được dựng thành phim có tựa “Letter from an unknown woman", với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. *** Lời Dịch Giả: Với tôi, cái tên Stéfan Zweig, ngoài biểu tượng văn chương tuyệt đỉnh của loài người, còn gợi cho tôi nhiều kỉ niệm về quá khứ, về tuổi trẻ, về chiến tranh... Tôi “biết” Stéfan Zweig từ khá sớm: Thuở mười tám đôi mươi, tức là hơn sáu mươi năm trước. “Biết” đây tất nhiên không hiểu theo nghĩa cụ thể - quen biết - bởi chúng tôi cách nhau bao xa cả về thời gian lẫn không gian, mà là có cơ hội tiếp xúc với tác phẩm của ông. Năm 1951, trong chiến dịch Hà Nam Ninh, tôi “gặp” Stéfan Zweig: Tôi tìm thấy trên bàn giấy của viên đồn trưởng một cuốn sách nhan đề Amok, ou le fou de Malaisie (Amok hay gã điên ở Malaysia). Đó là một tập gồm 3 truyện vừa: Amok, Bức thư của người đàn bà không quen và Ngõ hẻm dưới ánh trăng. Tôi bắt đầu “mê” Zweig từ dạo ấy.  Tôi chọn “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" của S. Zweig. Tôi dịch ngay tại chỗ, tại phòng đọc của thư viện. Tôi viết thẳng vào một cuốn sổ tay, ngòi bút cứ như tự động lia đi. Liền một mạch 3 ngày. Những trang cuối, tôi vừa dịch vừa khóc. Dịch xong, đọc lại, hầu như không sửa một đoạn nào. Lúc ấy, tôi không nghĩ đến việc đưa xuất bản, mà chỉ làm như để giải toả một kìm nén. Sau này, khi nhà xuất bản đề nghị in, tôi cứ đưa nguyên cuốn sổ tay cho đánh máy lại. Cho tới nay, bản dịch đã được tái bản có lẽ không dưới 10 lần, theo nhiều dạng khác nhau: In riêng, gộp cùng một, hai truyện khác. in với hình ảnh minh hoạ trích từ phim dựng theo truyện, tuyển tập...Cho tới nay, trong số gần 60 tác phẩm dịch “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" vẫn là một trong những bản dịch tôi hài lòng nhất.   Mời các bạn đón đọc Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen của tác giả Stefan Zweig.
Bão đồng - Cao Năm
Nhà văn Cao Năm đã sáng tác hàng chục truyện ngắn, phần nhiều về nông thôn; cùng thời gian này, anh lặng lẽ đặt bút viết tiểu thuyết. Đeo đuổi suốt 25 năm qua, cuối cùng một cuốn tiểu thuyết dầy dặn của Cao Năm cũng đã ra mắt bạn đọc với nhan đề tập truyện "Bão Đồng". Đọc truyện bạn đọc sẽ được dẫn dắt đến những miền cảm xúc mới mẻ, lạ kỳ những thân thương.  Ý tưởng nghệ thuật nảy ra từ một cơn gió lốc dữ dội không kém một trận bão mạnh tràn qua một vùng thôn quê rộng lớn, gây nhiêu thiệt hại. Nhưng chính cơn lốc kinh hoàng ấy đã lật tẩy tất cả những gì từng được coi là tốt đẹp mà bấy lâu được sơn phết bằng những từ ngữ mĩ miều, trong những bản báo cáo dài thượt luôn luôn khẳng định thành tích năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước. Ẩn sau những gì màu mè hoa mĩ ấy là không ít chuyện xấu xa, trụy lạc, tha hoá, biến chất, và đi liền với nó là những thói hư, tật xấu, lợi dụng chức quyền, cấp đất sai nguyên tắc nhằm chiếm dụng đất công... Viết tiểu thuyết "Bão đồng", nhà văn Cao Năm không chỉ phê phán kịch liệt những mặt xấu xa, thói hư tật xấu ở một bộ phận cán bộ, đảng viên - những người đang giữ chức vụ chủ chốt ở xã, ở huyện - mà quan trọng hơn, còn giúp bạn đọc thấy được nhiều người dân, nhiều cán bộ, đảng viên tốt ở nông thôn, như bố con cụ Mải, anh Cải, cô Dậm, anh Túc,... một lòng một dạ gắn bó với tập thể, với cộng đồng làng xã, đêm ngày lo làm sao cho mọi người có bát ăn bát để, quên đi quyền lợi, và cả danh dự cá nhân, để bảo tồn sự trong sạch, uy tín của tổ chức Đảng ở địa phương. Đúng là trong gian nan mới thấy người ngay kẻ gian, người hiền kẻ hèn, còn bình thường cũng khó mà biết người tốt, kẻ xấu.  Truyện khắc hoạ được những nhân vật góc cạnh và đầy tính biến hoá, hiểu theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực, với một chuỗi tình huống bất ngờ, đan xen, mà nhiều chỗ đã nâng lên thành kịch tính. Tỉ như chuyện tấm ảnh của liệt sĩ Bao - hi sinh ở chiến trường năm 1968 - được ông Thàng ở Bắc Cạn cất giữ. Sau cơn bão, Bính - con trai ông Bao - cùng Điền và Liểu được xã cử đi mua sắn về cứu đói cho dân, lại tình cờ nhìn thấy ảnh bố mình trên ban thờ nhà ông Thàng, rồi xin mang ảnh bố mình về... Hoặc tình huống Cải đến nhà vợ chồng Thuật. Thuật hiện là chủ tịch xã, được người em rể là chủ tịch huyện che đỡ, đã lấy hàng nghìn mét vuông đất công lập sinh phần gia tộc. Lợi dụng lúc giáp hạt đói kém, hắn mượn xã viên đào đất vượt sinh phần không phải trả công. Cải vốn là tình địch của Thuật. Hồi Thuật đi chiến trường, đơn vị pháo cao xạ của Cải về lập trận địa ở xã. *** Điền và Cải len vào được một chỗ thuận lợi thì đứng như chôn chân ở đó, nhìn dán mắt vào mấy người đàn ông cởi trần, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi màu nâu thẫm, ngang lưng thắt mảnh vải hồng điều. Hai anh em len vào được một chỗ mãi phía vòng trong, thế mà không biết có phải do cái áo sơ mi trắng cộc tay rất nổi của Điền mách lối, mà Dậm và một cô bạn, cũng người ngoài Phương Lưu, chẳng biết bằng cách nào cũng chen vào được gần, đứng đằng sau. Rồi cũng chẳng biết bằng cách nào, hay có con mắt để sau gáy, Điền bỗng nhiên thấy nhồn nhột phía sau, liền quay lại, nhận ngay ra Dậm. Em cũng vào mãi trong này xem à? Đi với ai thế? Điền nhìn Dậm nhỏ nhẹ hỏi. Dậm đánh mắt nhìn Điền, giọng mềm đi, định bảo vào mãi trong này xem mới gặp được anh chứ, hỏi thế mà cũng hỏi. Lại thao thiết nói, không vào mãi trong này xem thì còn xem ở đâu. Rồi hai tay như đẩy vai cô bạn về phía Điền, hỏi, anh không nhận ra chị Lư à. Điền nhìn lại một thoáng, nói thác, tối trời, nhìn mãi không nhận ra ai. Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng, quay lại, nhưng tối trời, không nhận ra cô Đội trưởng Phương Lưu. Vả lại, Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng thì quay lại theo cảm tính, chứ thực, còn mải để tâm theo dõi hai người đàn ông đang tay năm tay mười nhào lặn đất, vo tròn thành bánh pháo to bằng cái mâm. Khi hai người đàn ông nhào lặn xong đống đất, vo tròn thành bánh pháo bằng cái mâm, thì thình lình Cải nghe ba tiếng trống "thùng, thùng, thùng" như ba tiếng súng thần công khai hoả cất lên vang trời dậy đất. Bỗng tất cả mọi người trên sân như nín thở, hàng trăm cặp mắt đổ dồn về chỗ hai người đàn ông ngang lưng thắt dải hồng điều, đang lấy hết sức gượng nhẹ hai tay bốc bánh pháo đất lên khỏi mặt sân, nâng lên ngang người, đẩy lên ngang đầu, rồi dồn hết sức lực giơ thẳng hai tay bê bánh pháo cho cao lên, cao nữa, cao mãi. Cao nữa, cao mãi đến hết cỡ tay, hai người đàn ông bất ngờ tung mạnh bánh pháo lên không trung. Trong tích tắc, một tiếng nổ dễ ngang tiếng sấm đánh bùng một phát, làm hàng trăm người trên sân như cũng bùng cả lên. Sau tiếng nổ là một vành pháo đất văng ra như con trăn nằm cuộn trên sân, rồi tiếng người hò reo, tiếng trống thúc bật lên vang dậy, tưởng vỡ vụn cái sân gạch rộng đến mấy sào. Giữa tiếng reo hò của người xem, hai người trong ban tổ chức cầm thước dây chạy đến chỗ bánh pháo vừa văng xuống, chăm chú, cẩn trọng đo từng vết nứt, chỗ gấp, khoảng văng xa của pháo. Cũng giống như nhảy cao, chạy xa trong điền kinh, luật chơi pháo đất lấy độ văng xa của vành bánh pháo làm kết quả cuối cùng để đánh giá tài nghệ của người chủ pháo. Hết đợt pháo của hai người đàn ông thắt dải hồng điều, đến lượt hai người đàn ông cũng chỉ mặc chiếc quần đùi nâu, nhưng ngang lưng thắt dải vải xanh màu lá mạ, như để phân biệt với hai người thắt vải hồng điều ban nãy. ... Mời các bạn đón đọc Bão đồng của tác giả Cao Năm.
Mặt Trận Phía Sau - Nguyễn Thế Duyên
Đường càng ngày càng bớt dốc. Những cánh rừng gỗ tạp rậm rì chằng chịt những dây leo thưa dần ra, cuối cùng nhường chỗ cho những cánh rừng khọoc bạt ngàn quang đãng mở ra nom thật thích mắt. Những cây khọoc to lớn, lực lưỡng, mùa khô đã trút gần hết lá lao thẳng lên giữa nền trời đầy nắng và gió. Mặt đất bằng lì được trải dưới một lớp lá khô giòn tan như bánh đa mới nướng làm rừng vừa sạch sẽ lại vừa phóng khoáng. Nắng! Ngước nhìn lên chỉ thấy những chiếc lá khọoc cuối cùng đang quắt lại, lay lắt, run rẩy trong những đợt gió dữ dội của cánh Nam. Mới đầu mùa khô mà bầu trời không lấy một gợn mây. Những đám mây đen dày đặc ngự trị bầu trời suốt sáu tháng nay như đã bị mặt trời đốt cháy. Mặt trời không còn rõ nét. Chỉ thấy một vành mờ sáng trắng, lóa lên những vầng lửa hung hãn thiêu đốt mặt đất đã khô cong. Những con suối nhỏ đã cạn hết nước. Lòng suối khô khốc phơi ra những tảng đá trắng mốc lên hơi hầm hập. Họa hoằn lắm mới gặp một vũng nước còn sót lại mà những đám rêu quanh đấy đã bị dẫm nát bởi muôn vàn những dấu chân người, chân thú. Văn đặt ba lô lên một gốc cây đổ men theo dòng suối đến vũng nước. Một đàn bướm đông nghịt, đủ các mầu sắc đang đậu trên những miếng đất ẩm ướt giật mình tung lên. Những cánh bướm quạt nắng chấp chới “ Còn em thương bên tây anh mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ….” Văn chợt nhớ đến bài hát “Trường Sơn đông, Trường sơn tây” Mà anh rất thích. Chính cái cảnh này đây đã làm anh “Say miền đất lạ” và bây giờ anh đã gặp nó rồi. Hồi Văn vào là cuối mùa mưa, mùa măng đã qua. Rừng tre chỉ còn lại những cây măng nhọn hoắt, cao vút. Cô gái giao liên một lần nhìn thấy bữa cơm ăn với canh ruốc lèo tèo vài ngọn rau tàu bay của bọn Văn đã bảo. - Sao các anh không đi lấy măng về mà ăn? - Măng năm ngoái à, Đồng chí? Văn đã lém lỉnh hỏi lại. Tất cả cười ồ. Cô giao liên cũng cười một cách dễ dãi. - Các anh không biết đấy thôi. Đến cuối tháng mười mới hết vụ măng cơ mà. Bọn Văn ngớ người không biết cô gái nói gì. Về sau hỏi lại mới biết ở Trường sơn này măng có ba vụ. Đầu mùa mưa, những chiếc măng mới nhú lên khỏi mặt đất như những chiếc sừng nghé. Muốn ăn, người ta phải đào xuống đất lấy cả củ măng mang về vụ ấy gọi là vụ măng đào. Vào giữa mùa mưa, những ngọn măng đã mọc khá cao, muốn ăn chỉ việc lấy chân đạp gẫy ngọn măng bỏ vào gùi nên gọi là vụ măng đạp. Vụ này là vụ măng chính. Măng vừa nhiều, vừa ngon lại dễ lấy. Còn bây giờ, những ngọn măng đã mọc cao tít tắp, người ta phải rung cây măng cho ngọn rụng xuống mang về ăn. - Mà lấy măng rung các anh nhớ phải lấy mũ cứng đội vào không ngọn măng rơi vào đầu thì khốn. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Trận Phía Sau của tác giả Nguyễn Thế Duyên.