Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngọn Cỏ Gió Đùa

Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh đã thành công trên bình diện: khắc thảo những chân dung con người đói khổ, khốn cùng, trong xã hội Việt Nam thế kỷ XIX dưới thời nhà Nguyễn, với ảnh hưởng đạo đức và triết lý Á đông, và thảo ra một khuôn mặt Jean Valjean (Những người khốn khổ - Victor Hugo) Việt Nam trong Lê Văn Đó, khuôn mẫu cho những khuôn mặt cùng đinh sau này sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam. Chúng ta cũng có thể dựa vào tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh như một nguồn văn hoá có thể khai thác, để rút ra những bức chân dung, những chủ đề, những phong tục tập quán, những ngôn ngữ, y phục, những trữ lượng thông tin vô cùng quý giá về xã hội Việt Nam thế kỷ XIX. Ngọn cỏ gió đùa ngoài chất bi kịch còn chuyên chở những tư tưởng cải tạo xã hội Việt nam, dựa trên giáo lý nhà Phật và nhà Nho, khác hẳn với tinh thần đạo lý Thiên chúa giáo của Victor Hugo. Hồ Biểu Chánh đã dành 5 năm để dựng truyện Ngọn cỏ gió đùa, và khi dựng xong, ông viết trong vòng 2 tháng. Tác phẩm hoàn tất và in năm 1926. Và thời điểm 1926, ở Việt Nam chưa tiểu thuyết nào có tầm cỡ như Ngọn cỏ gió đùa. Jean Valjean, Việt hóa dưới căn cước Lê Văn Đó, một nông dân khốn cùng, trong thời mất mùa đói kém, không kiếm được việc. Vì không đành lòng nhìn lũ cháu 7 đứa sắp chết đói, Lê Văn Đó lén bưng trộm nồi cháo cho heo ăn, ở nhà một điền chủ giàu, bị người ta bắt, xông vào đánh đập. Lê Văn Đó chống cự lại. Rút cục vẫn bị bắt. Bị đánh đòn 100 trượng, bị tù 5 năm về tội cướp của và hành hung. Nhiều lần vượt ngục, mỗi lần tăng án, tổng cộng 20 năm mới được thả. Từ một anh lực điền hiền lành chất phác, chưa hề biết oán hận lúc vào tù. 20 năm sau, khi ra tù, Lê Văn Đó trở thành một thứ thảo khấu lầm lỳ và hung hãn… Chân dung thứ nhì trong Ngọn cỏ gió đùa là Ánh Nguyệt. Ánh Nguyệt hay Fantine là hai người phụ nữ sống hai xã hội khác nhau trong cùng một thế kỷ. Tâm thức Ánh Nguyệt gắn liền với giáo lý Khổng Mạnh, lấy chữ hiếu làm đầu. Vì hiếu với cha mà nàng mắc vòng ở đợ. Khi bị chồng phản bội bỏ rơi, nàng vẫn giữ trọn phẩm tiết. Không thể bán mình nuôi con như Fantine, trong xã hội Pháp; Ánh Nguyệt chết trong cảnh nghèo khó vì muốn giữ tròn trinh tiết của mình. Tác phẩm cúi xuống những thân phận lạc loài, làm nhiệm vụ cứu khốn phò nguy của những lương tri văn học… *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** (Cảm tác Les Misérables của Victor Hugo) Năm mậu-thìn (1808) nhằm Gia-Long thất niên, tại huyện Tân-Hòa, bây giờ là tỉnh Gò-Công, trời hạn luôn trong hai tháng, là tháng bảy với tháng tám, không nhểu một giọt mưa. Lúa sớm gần trổ, mà bị ruộng khô nên không nở đòng đòng [1], lúa mùa vừa mới cấy, mà bị đất nẻ [2], nên cọng teo lá úa. Cái cánh đồng, từ Rạch-Lá tới Bến-Lội, là vú sữa của nhơn dân trong huyện Tân-Hòa, năm nào cũng nhờ đó mà nhà nhà đều được no cơm ấm áo, ngặt vì năm nay cả đồng khô héo, làm cho dân cả huyện trông thấy đều buồn-bực thở than. Tại Vồng-Tre có nhà bà Trần-Thị bần cùng đói rách, thuở nay trời cho trúng mùa mà nhà bà cũng không được vui, huống chi năm nay mất mùa, thiên hạ nhịn đói, thì nhà bà càng thảm khổ hơn nữa. Bà Trần-Thị đã 65 tuổi rồi, bà góa chồng mà con trai lớn của bà là Lê-văn Ðây cũng bất hạnh, khuất năm trước, để lại cho bà một nàng dâu là Thị-Huyền, với bảy đứa cháu nội, đứa nhỏ hơn hết thì còn bú, đứa lớn hơn hết thì chưa quá 12 tuổi. Bà già yếu, từ đầu năm chí cuối năm thường òi ọp hoài, còn Thị-Huyền thì bị sắp con thơ, đứa dắt, đứa bồng nên có đi làm thì đi hái rau, bắt ốc, một giây một lát mà thôi, chớ không đi làm mướn làm thuê tối ngày cho được. Tuy vậy mà bà Trần-Thị nhờ có thằng con nhỏ, tên là Lê-văn-Ðó, tuổi vừa mới hai mươi, vóc-vạc cao lớn, sức lực mạnh-mẽ hơn người, tánh nó chơn-chất thiệt-thà, trí nó chậm-lục u-ám, song nó hết lòng lo làm mà nuôi mẹ già, nuôi chị dâu, nuôi cháu dại. Khi Lê-văn-Ðó mới được 12 tuổi, thì cha mẹ đem cho ở đợ chăn trâu cho nhà giàu. Hễ trời gần sáng thì Lê-văn-Ðó đuổi trâu ra đồng, rồi khi thì nằm dưới tàng cây lớn, lúc thì ngồi trên lưng trâu cò [3], dầm mưa dang nắng tối ngày, bữa nào cũng như bữa nấy, trời chạng-vạng tối rồi mới về nhà chủ được. Có lẽ Lê-văn-Ðó nhờ ở ngoài đồng luôn luôn hấp thụ thanh khí nên sức lực mạnh-mẽ khác thường, nhiều khi trâu chạy, nó nắm đuôi mà kéo, trâu phải đứng lại, chớ không chạy nổi. Mà có lẽ cũng tại Lê-văn-Ðó ở ngoài đồng luôn luôn, gần-gũi với trâu bò, bạn bè cùng cây cỏ, nên trí tuệ không phát được, không biết lễ nghĩa, mà cũng không thông-thế sự chi hết. Lê-văn-Ðó ở đợ gần 8 năm, đến năm ngoái anh cả là Lê-văn-Ðây chết rồi, mẹ mới đem về để giúp đỡ trong nhà và cho làm mướn làm thuê mà nuôi sắp cháu. Hồi đầu mùa mưa, Thị-Huyền xới đất trồng khoai, vun vồng [4] tỉa bắp chung quanh nhà, còn Lê-văn-Ðó thì đi cày mướn lấy tiền đổi gạo đem về nuôi mẹ và nuôi sắp cháu. Hết cày rồi tới cấy, thì Lê-văn-Ðó lại đi nhổ mạ đắp bờ, làm cực nhọc tối ngày, tuy tiền công không được bao nhiêu, song mẹ với chị dâu tiện tặn, người xúc tôm bắt cá, người đào củ hái rau, khi ít thì để ăn, khi nhiều thì đem bán, nên trong nhà dầu không dư ăn dư để, chớ cũng không đến nỗi hụt thiếu bữa nào. Ðến tháng chín tháng mười, ngoài đồng chẳng còn công việc gì làm nữa, mà trời hạn thất mùa, lúa cao gạo kém, các nông-gia đều ngồi khoanh tay nhau nháu [5], nên cũng không ai mướn làm việc gì trong nhà. Trong huyện Tân-Hoà lúa cũ đã ăn hết rồi, còn lúa mới thì không có mà ăn tiếp. Các nhà nghèo thảy đều khốn-đốn nên có nhiều người phải bỏ nhà dắt vợ con qua xứ khác mà kiếm ăn. Lê-văn-Ðó ngày nào cũng vậy, hễ sớm mai thức dậy thì đi từ xóm nầy qua xóm nọ, kiếm chỗ làm mướn đặng lấy gạo đem về cho mẹ với sắp cháu ăn, mà đi năm ba ngày mới có người ta mướn làm một ngày, lại ngày nào làm được thì họ huờn công (trả công) bằng một vùa gạo (một nửa sọ dừa dùng đong gạo), không đủ nấu cháo cho gia quyến húp mỗi người một chén, có đâu tới nấu cơm chia nhau ăn cho no được. Lúc ban đầu trong nhà còn khoai còn bắp, hễ bữa nào Lê-văn-Ðó kiếm gạo không được thì Thị-Huyền nấu khoai hoặc bắp, rồi chia cho sắp con mỗi đứa con một củ khoai, hoặc đôi ba muỗng bắp mà ăn đỡ, sắp nhỏ ăn không no, đến tối Lê-văn-Ðó đi làm về, chị dâu lấy tộ bắp nấu để dành mà đưa cho Lê-văn-Ðó ăn, thì sắp nhỏ bu lại đứng ngó lom lom, đứa xin cho một vài hột. Thị-Huyền rầy con, biểu để cho chú ăn no, đặng ngày sau có sức đi làm mà kiếm gạo. Sắp nhỏ sợ mẹ nên dang ra, song bụng đói quá, nên mặt buồn xo. Lê-văn-Ðó thấy vậy thương xót, không đành ngồi ăn một mình, day qua bên nầy đút cho đứa nầy một muỗng, trở qua bên kia đút cho đứa khác một muỗng nữa, đút gần hết tộ, té ra cũng không còn đủ cho nó ăn no được. Cách chẳng bao lâu, khoai bắp trong nhà ăn đã sạch hết. Bữa nào không ai mướn Lê-văn-Ðó làm, thì cả nhà đều phải luộc rau luộc cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn. Sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo; còn Trần-Thị đã già yếu rồi, mà trót mấy tháng nay bà lại chịu cơ hàn nữa, nên bà nhuốm bịnh nằm thiêm thiếp không dậy nổi. Một bữa nọ Lê-văn-Ðó đi tối một ngày mà không có ai mướn làm việc chi hết. Lúc trời chạng-vạng tối, nó trở về nhà, hai chơn mỏi rụng, bụng đói xếp ve, lỗ tai lùng-bùng, cặp mắt cháng-váng. Chừng gần tới nhà, nó dừng chưn lại, gục đầu ngó xuống đất một hồi, rồi chậm rãi bước từ bước, dường như nhút nhát không muốn trở về nhà. Mời các bạn đón đọc Ngọn Cỏ Gió Đùa của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hận Lãng Bạc - Trương Thái Du
Trên bệ cao Giao long thuyền, hai chị em Trưng Trắc ưỡn ngực, ngẩng cao đầu đứng sát bên nhau. Trưng Trắc phóng tầm mắt một lượt xung quanh rồi ngước mặt lên hét to: “Đất này của mẹ tổ, trời này của mẹ tiên. Mười năm người Âu Lạc chưa giành lại được thì họ sẽ chiến đấu trăm năm, ngàn năm nhằm khẳng định lẽ phải. Làm sao đao kiếm của bọn xâm lăng có thể lấy đi được lòng can đảm và khí tiết của chúng ta”. Giọng Trưng Trắc vang động khắp non sông. Thời gian ngừng lại khi Hai Bà Trưng buông mình xuống đáy Lãng Bạc, gần ngã ba cửa Hát. Mã Viện thở dài. Y sai tìm mọi cách vớt xác Hai Bà để chôn cất nhằm giảm bớt sự căm thù của nhân dân, song hoài công vô ích. Có lẽ thể phách Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tan lẫn vào hồn thiêng sông núi Âu Lạc. Hán quân đành thỉnh tạm thủ cấp khác của hai nữ chiến binh Âu Lạc, vội vã gói gém để gửi đến Lạc Dương, ngụy tạo là của Hai Bà Trưng. Ngày nô lệ đầu tiên của Âu Lạc đã trôi qua như thế. Mặt trời sẽ lặn nhiều trăm năm… Mời các bạn đón đọc Hận Lãng Bạc của tác giả Trương Thái Du.
Dịu Dàng Là Đêm - F. Scott Fitzgerald
Dịu dàng là đêm là tiểu thuyết của nhà văn Mỹ F. Scott Fitzgerald. Đây là cuốn tiểu thuyết thứ tư và là cuốn cuối cùng trọn vẹn của ông, xuất bản lần đầu vào năm 1934. Tiêu đề rút từ bài thơ Ngợi ca chim sơn ca của John Keats. Năm 1932, vợ Fitzgerald là Zelda Sayre Fitzgerald phải nằm viện ở Baltimore, Maryland vì bệnh tâm thần phân liệt. Tác giả ở thuê vùng ngoại ô Towson để viết cuốn tiểu thuyết này, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong suốt chín năm ròng và là cuốn cuối cùng ông hoàn thành. Trong thời gian viết, đã vài lần ông hết nhẵn tiền, phải vay mượn của chủ bút, đại lý, và viết nhiều truyện ngắn cho các tờ báo có tiếng. Những năm đầu1930, khi đeo đuổi và viết tác phẩm này, chắc chắn là những năm đen tối nhất trong đời ông, vì thế tiểu thuyết có nhiều yếu tố ảm đạm. Dịu dàng là đêm là chuyện tình bi thảm của nữ diễn viên trẻ Rosemary Hoyt và cặp vợ chồng Mỹ hợp thời Dick và Nicole Diver. Là một chuyên gia tâm thần trẻ, ưu tú trong thời mình, Dick vừa là chồng vừa là bác sĩ cho Nicole, người vợ giàu có luôn hối thúc chàng khuôn theo nếp sống không phải của mình, sự tương phản của họ ngày càng sâu sắc, dẫn đến kết cục đau đớn cho Dick. Cuốn tiểu thuyết như một nghiên cứu thâm thúy về quan điểm lãng mạn của nhân vật - vừa trữ tình, vừa bao quát và liên tưởng dai dẳng, buồn thăm thẳm. *** Nhận định Một tác phẩm xuất sắc lạ thường (Hemingway) Có thể nói rằng, Dịu dàng là đêm là cuốn sách ưa thích của tôi, thậm chí tôi thấy nó còn hay hơn Bên này thiên đường của cùng tác giả (Jonh O'Hara) *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ.   Mời các bạn đón đọc Dịu Dàng Là Đêm của tác giả F. Scott Fitzgerald.
Bàn Tay Kỳ Dị - Nigel Richardson
Nigel Richardson là tác giả của ba cuốn sách đã xuất bản: Breakfast in Brighton (Điểm tâm ở Brighton); Dog days in Soho (Những ngày tồi tệ ở Soho) và The wrong hans (Bàn tay kỳ dị) rất được tán thưởng trong năm 2005. Ông là biên tập viên về du lịch của tờ The Daily Telegraph trong suốt mười ba năm và vẫn viết cho nhiều tờ báo. Ông cũng viết nhiều vở kịch, một phim bộ nhiều tập và một loạt phim tài liệu cho BBC radio 4. Thang dây là cuốn tiểu thuyết thứ hai của ông do nhà xuất bản Oxford University Press ấn hành. Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Kỳ Dị của tác giả Nigel Richardson.
Tương Lai Xán Lạn - Catherine Cusset
Một lối viết tinh tế, không quá cổ điển cũng không quá hiện đại, vừa thanh thoát, vừa lắng đọng. Catherina Cusset tỏ ra xuất sắc từ trang đầu tới trang cuối. Nhận định “Đây là một cuốn sách hay, bởi kết cấu và tham vọng của nó… Một chủ đề như thế đòi hỏi một lối viết tinh tế, không quá cổ điển cũng không quá hiện đại, vừa thanh thoát, vừa lắng đọng. Catherina Cusset tỏ ra xuất sắc từ trang đầu tới trang cuối …” (Nhật báo le Parisien) “Catherine Cusset tiếp nối chủ đề gia đình rất gắn bó với bà và không ai hơn bà trong việc mô tả bộ ba mẹ - con trai - con dâu giữa những ganh đua và hiểu lầm.” (Tuần báo L ‘Express) “Trong "tương lai xán lạn", nhà viết tiểu thuyết hoà giải một người phụ nữ Mỹ gốc Rumani với con dâu bà, một phụ nữ Pháp sống ở Mỹ. Một giải Goncourt tuyệt vời.” (Tuần báo Le Nouvel Observateur) *** Để tưởng nhớ John Jenkins (tên khai sinh Bercovici) và Rubin Berkovitz. Tặng Jérôme Cornette, 1969-2008. Bị lưu đày dưới lòng đất giữa những tiếng reo hò, Đôi cánh khổng lồ cản bướcnó đi. Gửi tới Ann, Vlad và Claire. Tôi ngày càng có cảm giác rằng thời gian tuyệt đối không tồn tại, ngược lại chỉ có những khoảng không gian xen lẫn nhau [...], rằng những người sống và những người chết tùy theo tính khí của họ có thể chuyển từ không gian này sang không gian khác, và càng nghĩ về điều đó, tôi càng thấy rằng hình như chúng ta, những kẻ đang còn sống, theo nhãn quan của những người chết, chúng ta là những sinh vật không có thực. W.G. SEBALD (Austerlitz) Mời các bạn đón đọc Tương Lai Xán Lạn của tác giả Catherine Cusset.