Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hòn Đảo Phía Chân Trời (Trần Nhuận Minh)

Tác phẩm kể về nghề biển và những người dân chài trong công cuộc xây dựng làng mới trên hòn đảo Mõm Cá Sấu thân yêu của tổ quốc.

Từ những nhân vật phụ: Ông Trương Sần kì dị, điều khiển được rắn độc, lại có giọng hò đến say lòng người hay người ông nội kiệm lời, cổ hủ nhưng đã quyết định ra đảo, mang theo cả cỗ hậu sự của mình… cho đến nhân vật chính, cậu bé Nhụ, con trai một gia đình đánh bắt cá trên sông Bạch Đằng, tất cả đều sinh động và ấn tượng.

Một sức sống mới đã bừng lên nơi hòn đảo cù lao khô cằn với những con người ấy…

***

Hòn đảo phía chân trời thực chất là tiểu thuyết, gồm hai phần, có hai bối cảnh khác nhau, thông qua một gia đình làm nghề cá trên sông Bạch Đằng. Nhân vật trung tâm là Nhụ, con thứ ba của gia đình. Tìm mua: Hòn Đảo Phía Chân Trời TiKi Lazada Shopee

Thằng Nhụ, mà ông Trương Sần gọi là cu Cõn, không ngờ rằng, một phần cuộc đời nó lại gắn bó mật thiết với ông, một người có cuộc sống lạ lùng, làm cái nghề lạ lùng. Ông không gia đình, không vợ con, chuyên bắt rắn độc, nuôi rắn độc, và chạy chữa cho người bị rắn độc cắn. Cũng chính ông, có giọng hò đến say lòng người, từ hồi còn chèo đò trên sông Bạch Đằng. Có thể nói Trương Sần là nhân vật chính, nhìn ở góc độ khác. Giả sử tiểu thuyết Hòn đảo phía chân trời, thiếu nhân vật này, chưa chắc cuốn sách đã đứng được. Càng về cuối tác phẩm, vai trò ông Trương Sần càng quan trọng. Ngòi bút Trần Nhuận Minh dữ quá một chút nữa, ông Trương Sần sẽ biến thành phù thủy. Nhưng thật may, điều đó đã không xảy ra.

Trong Phần Một: Ngôi nhà bên cửa sông, tác giả mô tả ngôi nhà của Nhụ nằm sát mép nước, mỗi lần tàu chạy qua, sóng sông Bạch Đằng lập tức dào lên, vỗ oàm oạp vào bậc đá dưới thềm nhà. Vấn đề mà phần đầu sách khơi mở, chính từ ngôi nhà đó, bắt nguồn từ người ông. Nhà Nhụ có bốn chị em. Chị Chim sau đổi thành Chiêm, anh Thu, bộ đội hải quân, Nhụ và thằng Đé 5 tuổi. Thằng Đé thường ngủ muộn, bật dậy là bám vào chấn song cửa sổ, vén quần đái vo vo ra sông. Nó có biết gì đâu. Nhụ thì biết. Nhụ biết trong tâm trí ông nó, đang giằng co, về việc đi hay ở, đi là đến làng mới trên đảo xa. Việc hệ trọng đến vậy, ông cũng chỉ nói với Nhụ, kèm một chi tiết khá độc đáo, khiến Nhụ cứ ớ ra. Ông hay ngồi uống rượu trên tấm phản, nguyên là cỗ áo quan, ông tự chuẩn bị cho mình. Ông bảo Nhụ: Nhà ta từ đời thượng cổ đến giờ, chưa ai khuất sóng mà lại được chôn trong một cỗ áo quan. Có lẽ ông là người đầu tiên đây... Khi chết, không bị thả xác xuống biển... mà được chôn trên đất liền, là điều đặc biệt thiêng liêng đối với người dân chài. Ông bám chắc vào cỗ áo quan dành cho mình, là có ý ngầm phản đối việc con trai ông, đang đi tìm miền đất mới trên biển khơi. Hình ảnh bố mẹ Nhụ ở phần đầu sách, chỉ thấp thoáng, đây là sự sắp đặt có chủ ý. Trong điện ảnh, người ta gọi đó là thủ pháp mờ chồng, không chủ yếu, song không thể bỏ qua. Người đọc dễ dàng nhận thấy, tác giả có chút rộng rãi với nhân vật, đôi khi thả lỏng, cho nhân vật hoạt động ngoài tầm kiểm soát của ngòi bút, làm cho một số chương buộc phải nới lỏng dung lượng.

Sang Phần Hai: Làng mới trên đảo biển, tiểu thuyết chặt chẽ hơn, đẩy các nhân vật vào hoạt động đa tuyến. Từ bối cảnh một làng đảo mới hình thành, ở địa danh lạ lẫm là Mõm Cá Sấu, cùng nhiều chi tiết, để lại nhiều dấu ấn.

Nhụ đã theo bố chuyển ra làng đảo. Ở làng biển, Nhụ có thêm mấy người bạn: Đức, Ngạnh. Mỗi người bạn của Nhụ, có một cảnh đời khác nhau. Đức, con nhà khá giả hơn, phải đeo kính, hai mắt cách xa nhau. Đức biết thương người, còn thương cả con chó Róc, bị cáy cắp chảy máu mũi...

Ngạnh thì khác. Ngạnh là thằng bé già trước tuổi. Vì nó sớm phải đối mặt với một cuộc đời buồn. Và càng buồn hơn, mười ba tuổi đầu, Ngạnh chưa hề biết chữ... Cần nói ngay rằng, ngòi bút Trần Nhuận Minh dễ làm xiêu lòng người đọc, ở các trang thể hiện tâm trạng. So với hai bạn, Nhụ có vẻ hiểu biết hơn. Cả ba đứa đều kết thân với chú Thuận, chiến sĩ bộ đội biên phòng, đóng trên đảo. Chú Thuận đã dạy Ngạnh biết đọc biết viết. Mõm Cá Sấu chỉ là một hòn đảo cù lao khô cằn, hoang vu, khi có con người đến sinh cơ lập nghiệp, sự sống mới bừng lên. Hãy nghe ba đứa trẻ đang đi trên mép sóng, bỗng reo to: Chúng ta phải đi báo với chú Thuận. Ngọc trai trước biến đi, bây giờ ngọc trai lại về...

Tháng sau, chú Thuận rời quân hàm xanh về làm Chủ tịch lâm thời xã đảo. Nhà văn phòng Ủy ban rất sơ sài, nổi bật lên trên hết là ngọn quốc kỳ. Hai lần Trần Nhuận Minh viết về lá cờ, cả hai đều hay: Lá cờ đỏ sao vàng động gió, bay như hát trên bầu trời. Và lần khác: Cờ đỏ sao vàng, chủ quyền của đất nước đối với hòn đảo, bay như một đốm lửa, lấp loáng cháy ở lưng trời... Các chi tiết này rất quan trọng, vì nó minh chứng cho việc hình thành thể chế của chính quyền nhân dân Việt Nam, được thiết lập trên hòn đảo rất xa đất liền.

Mọi việc đang được xúc tiến trôi chảy. Các đội tàu cá, dưới sự chỉ huy của bố Nhụ, một tướng cá, với các chuyến đánh bắt ở khơi xa, thì xã đảo xảy ra một chuyện buồn. Một đêm giông, tàu chở Chủ tịch xã vào đất liền, va vào cồn đá, gẫy bánh lái...Cả xã đảo buồn. Nhụ và hai thằng bạn là buồn nhất. Chúng nó truyền tin cho nhau: Đồn biên phòng đang xin trực thăng đi tìm xác chú... Ở đây, tác giả đã nói một điều rất hợp lôgic cuộc sống: Thành công nào mà chả có mất mát hi sinh.

Người đọc lại chú ý một nhân vật phụ: Ông Quang. Ông già bán kẹo kéo ở cạnh cây lim Giếng Rừng (đầu tác phẩm), không ai ngờ lại chính là bố chú Thuận. Chú Thuận, đứa con duy nhất, chỗ dựa duy nhất của ông, không còn. Ông ra đảo, rồi tình nguyện ở lại đảo, nơi con trai ông đã hi sinh. Rồi ông Nhụ cũng ra đảo ở với con, với cháu. Ông đem theo cả cỗ hậu sự. Chi tiết này thật đắt. Cũng vẫn con người ấy, sự việc ấy, song tác giả hướng cái nhìn vào một quan niệm mới.

Cuối cùng là ông Trương Sần cũng ra đảo, sống vui cùng mấy bạn già. Cảm giác như cứ trang viết nào trong cuốn sách, có ông Trương Sần, là trang ấy sinh động hẳn lên. Bởi nhân vật này quy tụ được bọn trẻ. Ông Trương Sần hấp dẫn tụi trẻ ở nhiều lẽ. Câu chuyện bố con ông Trương Sần, vật lộn với con rắn hổ mang to đại, thì cả khu Giếng Rừng, người lớn, trẻ con, đều biết. Từ trong lòng, bọn trẻ rất cảm phục. Bằng những kinh nghiệm sống khổ đau, mất mát, cùng chút niềm vui hiếm hoi, ông truyền dạy cho lũ trẻ cái nhân ái của con người. Ở đây, bất chợt ta gặp một Trần Nhuận Minh - nhà thơ, tác giả tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ, nâng hình tượng Nhân nghĩa và Tự do, lên thành chủ thể của tác phẩm.

Trong tập sách này, Trần Nhuận Minh có những trang viết hay và cảm động, về nhiều mặt của cuộc sống, như: gà đẻ trứng, ông lão chèo đò chống đỡ với con rắn hổ mang..., các trang viết về những câu hò sông nước, về phong tục tập quán, kinh nghiệm người đi biển, về nghề biển v.v... cả những câu thơ, câu hò trong tập sách, người viết dụng công đưa vào, dù rằng, đó là câu hò dân gian hay thơ của Trần Nhuận Minh, cũng đều đáng khích lệ, bởi lời hay, hợp với khung cảnh. Song, về phần thơ, bạn đọc muốn tác giả cân nhắc thêm. Dùng thơ để thể hiện cao trào của tiểu thuyết, xưa nay chưa có ai làm, mà phải bạo tay và vững nghề mới dám làm. Bài thơ đứng một mình Chương kết không đánh số là bài khá, khiến các bạn nhỏ tuổi phải suy nghĩ nhiều, cũng chấp nhận được. Sách có nhiều chương viết sinh động, chứng tỏ tác giả có vốn sống phong phú về nghề biển và người dân chài.

Tạo dựng đời sống hiện thực trong một tác phẩm văn chương về một làng đảo, đâu có dễ. Đây là một thành công trong truyện viết cho thiếu nhi. (Bài đăng báo VĂN NGHỆ. Số 22 ngày 2/6/2001)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hòn Đảo Phía Chân Trời PDF của tác giả Trần Nhuận Minh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Người Đàn Bà Trong Đêm (Cornell Woolrich)
Trong Người Đàn Bà Trong Đêm, người đọc cũng như nhân vật sẽ phải đau đầu vì làm thế nào một người phụ nữ có thể biến mất hoàn toàn như vậy, đến nỗi mọi người xung quanh cũng chối bỏ sự tồn tại của cô? Mỗi chương của cuốn sách là nỗ lực tìm kiếm và cũng là sự thất vọng.***Cornell Woolrich (1903-1968) - cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám đen, bậc thầy của sự hồi hộp. Với cách kể và dẫn dắt đầy lôi cuốn, mỗi tác phẩm của ông không hẳn là cuộc kiếm tìm chân dung kẻ sát nhân mà còn đưa lên sân khấu những nghịch lý về sự thật bị che giấu và những bất ngờ không đoán trước. Cornell Woolrich được coi là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn, đưa thể loại truyện noir fiction (tiểu thuyết đen) đến đỉnh cao của sự thành công. Ông cũng là tác giả trinh thám có số lượng truyện chuyển thể thành phim nhiều nhất thế giới, trên trang IMDB có tới 103 bộ phim được ghi tên ông. Những bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Woolrich thường trở thành đề tài nghiên cứu sáng giá liên quan đến “kỷ nguyên của thể loại phim noir”. Tấn công, hoang tưởng, mối đe dọa, cái chết, là những chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của Woolrich. Ngoài ra, khi nói đến tiểu thuyết của tác giả này, hình tượng người phụ nữ với “tính nữ” cũng là một nét tiêu biểu. Trong truyện của ông có những nỗi sợ hãi chẳng rõ ràng, cảm giác luôn bị đe dọa. Các nhân vật thì luôn trong một cuộc chạy đua với thời gian. Theo đó là những nỗi tuyệt vọng ngày càng lấp đầy. Điều đặc biệt trong truyện của Woolrich chính là những “anh hùng” thường là nạn nhân, bị buộc tội về tội ác mà họ không thực hiện, hoặc phạm tội vì những đau buồn, tuyệt vọng và bất công trong cuộc sống. Tìm mua: Người Đàn Bà Trong Đêm TiKi Lazada Shopee Thế giới Woolrich tạo ra giống như một mê cung, đánh lạc hướng suy luận của người đọc. Tác giả đặt ra những “cái bẫy” cho các nhân vật chính không may mắn của mình và sau đó chờ đợi nhân vật chính sa vào bẫy và độc giả bị đánh lừa. Đầu tiên là tính bất khả thi. Tính “không thể” được sử dụng Woolrich làm cho tình huống trở nên khó hiểu hơn, che giấu sự thật đằng sau. Dường như, trong các tác phẩm của Woolrich các nhân vật ban đầu bao giờ cũng khởi điểm từ tình yêu, sự chung thủy, từ những điều tốt đẹp nhưng sau đó, bởi vì sự "tham lam" mà dần dần đánh mất đi bản ngã của chính bản thân mình. Kết hợp với đó, yếu tố bạo lực cũng được áp dụng triệt để để mang đến cảm xúc mãnh liệt cho người đọc. Với sự khai phá mới cho tiểu thuyết trinh thám, Cornell Woolrich đã cung cấp những ẩn dụ về sinh mệnh con người thật rẻ mạt, cái thứ đạo đức trắng đen lẫn lộn. Bằng lối kể hấp dẫn, luôn giấu kín sự thật, mỗi tác phẩm của ông luôn làm người xem phải tò mò. Ở Việt Nam, nhiều truyện ngắn của Cornell Woolrich đã được dịch và đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay vào cuối thập niên 1990, Cô Dâu Đen (The Bride Wore Black) được xuất bản năm 2018. ***Chín rưỡi. Đến giờ này thì dòng người xếp hàng cũng đã vãn hẳn, một vài người chen ngang cũng đã được mời ra ngoài. Trong cửa hàng lúc này không có ai, hoàn toàn yên tĩnh, ngoài Lombard và người phụ tá trẻ tuổi. Lombard ngồi ngả người trên ghế, trề môi dưới ra và thổi một hơi dài từ cằm lên trán, khiến cho những sợi tóc lòa xòa trên trán bay tung lên. Ông ta mặc vest, cổ áo sơ-mi để mở. Ông ta lấy từ trong túi - lúc này đang bị kẹp trên ghế do bị ngồi đè lên - ra một chiếc khăn tay, đưa lên chấm chấm chỗ này, chỗ kia trên mặt. Xong việc thì chiếc khăn có thêm những vệt xám. Mọi người chẳng buồn phủi bụi mấy thứ đó khi quẳng xuống trước mặt ông ta. Có vẻ như họ nghĩ rằng bụi càng dày thì sẽ được tính giá càng cao. Lombard dùng khăn lau tay rồi vứt nó đi. Ông ta ngoái đầu lại, nói với người nào đó ở khuất sau chồng chương trình nhà hát cao như núi. “Cậu về được rồi, Jerry. Sắp hết giờ rồi. Nửa tiếng nữa thì tôi cũng đóng cửa thôi. Qua giờ cao điểm rồi.” Một cậu thanh niên gầy gò, tầm khoảng mười chín tuổi, nắn chỉnh lại một vài tờ chương trình trên núi rồi bước ra, mặc áo khoác vào. Lombard lấy một ít tiền. “Đây là mười lăm đô-la tiền công cho ba ngày, Jerry.” Cậu thanh niên tỏ ra thất vọng. “Ngày mai ông không cần tôi nữa à?” “Không, ngày mai tôi cũng không còn ở đây,” Lombard trầm ngâm. “Tôi nói với cậu thế này. Cậu có thể bán đống này như bán giấy vụn, gọi đồng nát đến, chắc cậu cũng kiếm thêm được một ít.” Cậu thanh niên trố mắt nhìn Lombard. “Trời. Ông ngồi đây tìm mua ba ngày liền chỉ để vứt đi hay sao?”Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Trong Đêm PDF của tác giả Cornell Woolrich nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Đàn Bà Trong Cồn Cát (Kobo Abe)
“Người đàn bà trong cồn cát” được xuất bản vào năm 1961 và đem về cho tác giả Kobo Abe (1924-1993) giải văn chương danh giá Yomiuri của Nhật, đã đưa tên tuổi của Abe lên hàng quốc tế sau khi bản dịch Anh ngữ được phát hành. Ông là tác giả Nhật được dịch ra tiếng ngoại quốc nhiều nhất. Một cuốn phim cùng tên, do chính tác giả viết truyện phim và Hiroshi Teshigahara (1927-2001) đạo diễn, được trình chiếu vào năm 1964, cũng đã đoạt giải Special Jury Prize tại Cannes Film Festival, 1964. Năm sau, cuốn phim đã được đề cử, nhưng không trúng, giải Oscar cho Best Foreign Language Film Oscar, và giải Oscar cho Best Director. Đó là câu chuyện về một anh giáo viên vô danh tiểu tốt ở Tokyo, tên Niki Jumpei, và là một tay sưu tập côn trùng tài tử. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tham vọng, đó là có thể tìm được một con côn trùng nào mà chưa ai kiếm ra, để tên anh sẽ được gắn liền với con côn trùng đó và được đi vào bách khoa tự điển. Ước vọng này đã đưa anh đến một làng ven biển vào một dịp nghỉ. Mải mê tìm côn trùng, anh không để ý là đã lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về thành phố. Khi ngỏ ý với ba người đàn ông anh gặp trên đụn cát là liệu anh có thể nghỉ qua đêm tại nhà một dân làng nào đó để sáng mai tiếp tục đi kiếm côn trùng, họ liền tỏ ra sẵn sàng giúp và đưa anh ta tới một căn nhà xiêu vẹo ở duới sâu trong lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, một người đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nước cho anh. Niki không ngờ đấy là một cái bẫy mà định mệnh đã dành cho anh. Nguyên ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của người đàn bà ở bìa làng sát biển, như một thứ tiền đồn, cần phải giữ cho đừng bị cát chôn vùi, vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà cả làng sẽ bị xóa sổ. Xúc cát là công việc hàng đêm - phải làm ban đêm vì lúc đó cát ẩm, dễ xúc vào xô, để người ta tới kéo những xô cát này lên và đem đi bán. Ngoài sứ mệnh bảo vệ làng, qua tinh thần "Yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình”, châm ngôn của làng, người đàn bà được trả công bằng thực phẩm, nước và những thứ cần thiết khác. Từ ngày chồng và con của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trước, chị làm việc xúc cát một mình không xuể. Và người ta đã lừa bắt cóc Niki để điền vào chỗ nhân sự thiếu hụt đó. Khi biết ra, Niki đã tìm mọi cách để thoát. Thoạt đầu anh ta trói người đàn bà lại làm áp lực dân làng. Đáp lại, dân làng ngưng cung cấp nước và thực phẩm cho hai người. Niki đành làm cái việc xúc cát trong khi âm mưu tìm cách trốn. Một lần anh ta đã leo lên được trên miệng hố và tìm cách thoát khỏi ngôi làng, nhưng bị bắt lại và buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ban đêm để rồi ban ngày cát khô bị gió thổi tiếp tục đe dọa ngôi nhà của người đàn bà, như nhân vật Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp bị buộc làm cái việc vô tận: đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không được ngừng. Dù vậy, Niki cũng vẫn chưa bỏ cuộc. Biết rằng nước là vũ khí dân làng dùng để khuất phục anh, nếu anh không chịu ngoan ngoãn làm theo ý họ, họ sẽ cúp nước, Niki tìm cách triết nước từ cát ẩm. Cũng trong thời gian âm thầm nghiên cứu việc này, Niki và người đàn bà, như lửa gần rơm lâu ngày phải bén, trở nên gần gũi hơn, sống với nhau như vợ chồng. Khi người đàn bà mang bầu và khám phá ra là đã mang thai ngoài dạ con, dân làng phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đưa đi nhà thương cấp cứu. Niki ở lại cái hố. Anh ta đã không tin ở mắt mình khi thấy dân làng sau khi đưa ngưòi đàn bà đi nhà thương đã không rút cái thang lên. Anh mon men lại bên cái thang, rồi leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu từ khi bị bắt cóc bỏ xuống hố cát, anh ta nhìn thấy biển. Niki đi lang thang trên miệng hố, rồi lại leo trở xuống hố cát. Anh xem xét công trình triết nước và thấy nước uống được giữ lại trong thùng chứa, như vậy dự án triết và trữ nước của anh đã thành công. Anh ta không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay. Anh nghĩ anh sẽ ở lại để cho dân làng biết về việc này. Tìm mua: Người Đàn Bà Trong Cồn Cát TiKi Lazada Shopee Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố người đàn ông đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách người bị mất tích, để lại cho người đọc một câu hỏi “tại sao Niki chọn ở lại” to lớn, và những nhà nghiên cứu về tác giả và tác phẩm mặc sức lý giải tại sao!***Trong khi Haruki Murakami và Banana Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), tác giả đạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998, có viết: “Lớp nhà văn này đã tích lũy trong mình cảm nghĩ về thực hạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, v.v., ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hóa đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941, Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đây Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhẩt các kỹ thuật của chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943, Kobo Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami, tác giả Rừng Na Uy, viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ của ông bao gồm Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng của Kafka càng rõ rệt trong hai tác phẩm Kabe (Bức tường) và S. Karuma Shino Hanzai (Tội lỗi của S. Karuma) sáng tác vào năm 1951. Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hóa thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh ta bị tòa án lôi ra phán xử. Năm 1947, Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chi thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết, Owarishi Michi No Shirube Ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi Đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Nhật Bản. Những tác phẩm mang tính trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, Aai Mayu (Cái kén đỏ, 1950), Kabe (1951) và S. Karuma Shino Hanzai (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn F. Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiếu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant-garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không thực tế, và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau đây của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Dai - Yon Kampyoki (1959), Moetsukita Chizu (Tấm bản đồ rách, 1967), Mikkai (1977) và Hako Otoko (Người đàn ông trong chiếc hộp, 1974). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Women in the Dunes (Người đàn bà trong cồn cát, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1964). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã bị ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muốn loài, nhưng tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài, không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hóa thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thế chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thế thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Ở Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực. Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thế những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người. Kobo Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện (Niki Jumpei), rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self-awareness) về sự phi lý của thân phận con người. [1] Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Huoshi, cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đã giành Giải thưởng Đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đó đã trở nên nổi tiếng trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Huoshi còn cộng tác với Kobo Abe để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (Cạm bẫy khó lường, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1966). Abe còn sáng tác một số vở kịch và điều hành một công ty biểu diễn do ông thành lập ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch như Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khâu có một cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio, được mời lưu diễn tại New York City vào năm 1979. Abe mất vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng năm 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay), tác phẩm vừa mới xuất bản đã ngay lập tức được truy tặng giải thưởng trong năm 1993. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.Hà Nội, Mùa hạ 2009Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Kobo Abe":Bọn Chiếm ĐóngChiếc Thuyền Nô-ÊKhuôn Mặt Người KhácNgười Đàn Bà Trong Cồn CátĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Trong Cồn Cát PDF của tác giả Kobo Abe nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Đàn Bà Đang Yêu (D. H. Lawrence)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Đang Yêu PDF của tác giả D. H. Lawrence nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Người Đàn Bà Đáng Ngờ (Erle Stanley Gardner)
Cô Ambler cứ nằng nặc đề nghị vạch bụng cho luật sư trứ danh Perry Mason xem vết sẹo với sự chứng kiến của nhà thám tử tài ba Paul Drake. Ngay sau đó Ambler ra phi trường Los Angeles bắn ba phát súng đạn giả ở nơi đông người rồi chạy biến vào khu vệ sinh. Cảnh sát ập tới bắt được một cô gái có thân hình, mặt mày, trang phục giống hệt như Ambler nhưng lại là - cô gái triệu phú Minerva Minden … ***Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại.- Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour Tìm mua: Người Đàn Bà Đáng Ngờ TiKi Lazada Shopee Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Erle Stanley Gardner":Bí Ẩn Vụ Song SinhCon Mồi Táo BạoĐôi Tất NhungKẻ Giết Người Đội LốtKẻ Hùn VốnNgười Đàn Bà Đáng NgờNgười Đàn Bà Đáng SợNgười Được Minh OanThe Case Of The Spurious SpinsterTiếng Chó Tru Trong ĐêmVị Giám Mục Nói LắpVụ Án Hoa Hậu Áo TắmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Đáng Ngờ PDF của tác giả Erle Stanley Gardner nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.