Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Diệt Vong

DIỆT VONG là tiểu thuyết cuối cùng và đen tối nhất của Thomas Bernhard. Xuyên suốt tác phẩm là tự sự của Franz-Josef Murau, con cừu đen trí thức trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Áo, bị ám ảnh bởi căn tính của mình, căm ghét gia đình mình, ghê sợ tôn giáo của mình, yêu quí đất nước Áo, nhưng lại căm thù nhà nước Áo, Murau đã phân tích thấu đáo thực trạng vừa giả tạo vừa đê tiện vừa phù phiếm của xã hội, nhưng bên cạnh đó là những nhận thức bản thể tự thân, ông lý giải về sự tồn tại của bản thân trong tâm trí chính chúng ta và sự tồn tại của chúng ta trong mắt tha nhân. Với một phong cách phóng túng cường điệu, lối kể chuyện tinh tế, tri kiến sâu rộng, cùng thủ pháp độc thoại monologue bậc thầy, Thomas Bernhard được coi là người khổng lồ hùng mạnh nhất của văn học Đức ngữ kể từ sau chiến tranh thế giới II. -- “Với sự dữ dội ngạt thở... Qua tiếng nói của Murau, Thomas Bernhard tấn công thế giới hiện đại, được minh họa bởi nơi chôn rau cắt rốn của ông, nước Áo. ” Chicago Tribune "Sự tinh tế khác biệt của Diệt vong nằm ở sự mô tả ý thức trong hành động: Murau, hóa ra, có thể yếu đuối, đáng ngưỡng mộ, khó hiểu hoặc độc địa, nhưng tâm trí của anh ta, như được mô tả trên trang giấy, dường như hoàn toàn đúng với cuộc sống. " - Washington Post Book World “Không phải mọi kẻ điên đều là thiên tài. Nhiều người được gọi thế nhưng số người thực sự như vậy thì rất ít. Đó là một câu lạc bộ riêng biệt, nhưng Bernhard đã bước chân vào đó... Giống như Swift, Bernhard viết như một con quái vật thiêng liêng... Ông là một nghệ sĩ biểu diễn văn học xuất chúng: một người đi đến cực đoan bằng cách truyền sức sống cho ý thức của chúng ta về khả năng của con người, tuy nhiên lại mang tính phá hoại." The Wall Street Journal *** Với "Diệt vong", Thomas Bernhard viết ở một tầm cao khác, vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, sống động và bất ngờ, điên rồ và tàn bạo, quái dị và phức tạp. Khi Franz-Josef Murau nhận được tin cha mẹ và anh trai vừa chết trong một tai nạn xe hơi, ông biết ngay mình sẽ được thừa kế lâu đài - đất đai - tài sản của dòng họ để lại. Ông khởi sự viết một cuốn sách độc thoại dài gần 500 trang chỉ để trả lời cho câu hỏi: “Làm cách nào để thoát khỏi cái mớ bòng bong thừa kế tự nhiên rơi vào đầu như thế?”. Để trả lời cho câu hỏi đó, ông liệt kê toàn bộ oán hận của mình với gia đình, với anh em họ hàng, và cả với đất nước của mình, và quá khứ phát xít của dân tộc Áo cũng được ông đưa ra để bình xét, không những thế ông tìm mọi chủ đề phê bình từ trí thức nhà thơ nhà văn đến người công nhân lao động bình thường, cả những thợ săn cho đến cô hầu gái, người phục vụ… cũng không thoát khỏi con mắt soi mói đầy phán xét của ông, tất cả chỉ để phục vụ cho mục đích duy nhất: là chối bỏ thừa kế.  Dĩ nhiên những chủ đề ám ảnh như vậy đòi hỏi một hình thức cũng ám ảnh không kém. Trong cuộc đấu tranh để mô tả ý thức hành động, Thomas Bernhard mài giũa một liên minh tinh tế về cấu trúc và ý tưởng. Diệt vong trở thành một cuộc độc thoại liên tu bất tận, cả cuốn sách gần năm trăm trang chỉ chia làm hai đoạn, những dòng chữ chảy tràn, không một ngắt đoạn, không xuống dòng, những câu văn dường như vô tận, kéo dài từ chủ thể này sang chủ thể khác mà không cần tạm dừng để thở, người đọc như bị kéo vào hình thức tàn bạo đặc biệt. Và điều đó làm tổn thương mọi cảm xúc từ sự trầm ngâm đến sự cuồng loạn. Người ta cảm giác người kể chuyện Franz-Josef Murau, con cừu đen trí thức trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Áo, đang bị mắc kẹt trong tâm tưởng của mình, mắc kẹt trong những lời chỉ trích của chính mình, ý thức về sự giả dối và xấu xa của bản thân, nhưng ông không muốn và không chịu nhìn nhận một cách khách quan. Thomas Bernhard là bậc thầy trong việc phát triển độc thoại. Ông dựng nên những nghịch cảnh, và đặt người ta vào những biên cảnh ngặt nghèo, để khám phá sự khác biệt của mọi người ở mọi hoàn cảnh, tận hưởng niềm vui khi có tin xấu, tận hưởng hạnh phúc trong hoàn cảnh tồi tệ. Ông theo đuổi chủ nghĩa duy mỹ, phương châm của ông là châm biếm và trả thù, ông thích để con người chống lại con người, đẩy con người đến điểm cực hạn cho tới khi người ta phải bật trở lại. Ông giống như một nghệ sĩ cường điệu, đẩy mọi ý tưởng đến cùng cực, đòi hỏi một dạng chủ nghĩa cực đoan tương tự. Người ta bảo Thomas Bernhard bạo lực ngôn ngữ cũng không có gì sai, câu châm ngôn nổi tiếng của Wittgenstein “giới hạn ngôn ngữ của tôi là giới hạn thế giới của tôi” rất đúng với trường hợp của ông, Bernhard đã cố gắng mở rộng giới hạn bên ngoài của ngôn ngữ của mình đến mức nó có thể bao gồm cả những hình thái cực đoan nhất trong trải nghiệm của con người. Thomas Bernhard viết ở một tầm cao khác, vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, sống động và bất ngờ, điên rồ và tàn bạo, quái dị và phức tạp, tất cả đã tạo nên một cuốn Diệt vong tối thượng ảm đạm.  Tác giả Thomas Bernhard là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch người Áo. Ông được coi là tác gia Đức ngữ quan trọng nhất thời hậu chiến. Được đánh giá cao ở nước ngoài nhưng tại Áo, ông lại bị chỉ trích là kẻ “vạch áo cho người xem lưng” khi các tác phẩm của ông thẳng thắn chỉ ra và cay nghiệt phê phán các thói tật của quê hương, bao gồm của quá khứ Quốc xã. ***  trên đồi Pincio nhằm khớp lịch học tháng Năm với anh học trò Gambetti của tôi, một thanh niên mà trí thông minh tuyệt vời vẫn làm tôi phải kinh ngạc ấy - ông Franz-Josef Murau viết - lòng tôi trở nên khoan khoái và vui vui cùng ý nghĩ, mình quả thực đã sống từ lâu ở Rome rồi chứ không còn ở Áo nữa, niềm vui làm tôi phấn chấn đến mức trái thói quen thường ngày, tôi không đi ngay qua phố Condotti để về nơi tôi ở tại Piazza Minerva nữa, mà vòng qua ngả Flaminia và Piazza del Popolo, đi dọc cho hết cả dãy đại lộ Corso mới về tới căn hộ tôi ở, là nơi khoảng hai giờ trưa tôi nhận được bức điện tín báo tin về cái chết của bố mẹ và ông anh trai Johannes. Bố mẹ và anh Johannes bị tai nạn chết. Caecilia, Amalia, cầm bức điện trên tay, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, tôi bình thản bước đến bên cửa sổ phòng làm việc nhìn xuống Piazza Minerva vắng tanh không một bóng người. Tôi đã đưa Gambetti năm quyển sách mà tôi tín chắc là trong mấy tuần tới sẽ có ích và cần thiết cho anh ta, đồng thời yêu cầu anh ta đọc hết sức cẩn thận, cũng có nghĩa là thật thong thả, cả năm quyển sách đó: Luật sư Siebenkäs của Jean Paul, Vụ án của Franz Kafka, Amras của Thomas Bernhard, Người đàn bà Bồ Đào Nha của Musil, Gã Esch hay chủ nghĩa vô chính phủ của Broch, và bây giờ, sau khi mở toang cửa sổ cho dễ thở, tôi nghĩ tôi đã quyết định đúng khi đưa đúng năm quyển ấy, chứ không phải quyển nào khác cho Gambetti, bởi năm quyển ấy sẽ mỗi lúc một quan trọng hơn trong quá trình học, rằng tôi đã rất kín đáo mách khéo, lần tới tôi sẽ cùng anh ta phân tích mổ xẻ cuốn Tình đầu ý hợp chứ không bàn đến cuốn Thế giới như là ý chí và biểu tượng. Chuyện trò với Gambetti đối với tôi cũng lại là một hứng thú lớn, sau bấy nhiêu cuộc trò chuyện nặng nề, khó nhọc, loanh quanh độc những nhu cầu thường nhật, hết sức riêng tư và tầm thường với gia đình tôi ở Wolfsegg. Từ ngữ tiếng Đức như những quả cân bằng chì treo vào ngôn ngữ Đức, tôi đã bảo Gambetti vậy, và chắc chắn sẽ đè tư duy xuống một bình diện vốn rất có hại cho chính tư duy ấy. Cả tư duy Đức lẫn tiếng nói Đức đều bị tê liệt rất nhanh dưới sức nặng phi nhân của ngôn ngữ Đức, một gánh nặng đè bẹp mọi ý nghĩ ngay trước khi chúng được phát ngôn thành lời, như lịch sử hàng trăm năm lao tâm khổ tứ của dân Đức đã cho thấy. Do bị nằm đè dưới ngôn ngữ ấy, nền tư tưởng Đức dường như đã rất khó phát triển và không bao giờ có thể bột phát toàn diện, ngược hẳn nền tư tưởng Roman dưới ngôn ngữ Roman. Mặc dù tôi đánh giá tiếng Tây Ban Nha cao hơn, có lẽ chỉ vì tôi thạo nó hơn chăng, nhưng buổi sáng hôm đó Gambetti đã lại cho tôi một bài học quý giá về tính nhẹ nhàng, thanh thoát lẫn sự linh hoạt vô cùng tận của tiếng Ý. Đem thứ tiếng này so với tiếng Đức cũng giống như đem so một đứa trẻ hoàn toàn tự do lớn lên trong một gia đình khá giả và hạnh phúc với một đứa trẻ xuất thân từ gia đình nghèo khó, bần cùng, bị đè nén, bị đánh đập mà đâm ra lươn lẹo. Bởi thế, càng phải đánh giá cao công sức của các triết gia và văn sĩ của chúng tôi, tôi bảo Gambetti vậy. Mỗi một từ tức khắc sẽ níu suy nghĩ của họ xuống, câu nào cũng đè ý nghĩ của họ xuống đất, bất kể họ dám nghĩ điều gì, và như thế bao giờ cũng có nghĩa là đètất tật xuống đất. Chính vì thế mà triết lý của họ, cũng như những gì họ sáng tác ra, đều như thể bằng chì hết cả. Tự dưng tôi xướng to để Gambetti nghe một câu của Schopenhauer trích từ Thế giới như là ý chí và biểu tượng, bằng tiếng Đức trước, tiếng Ý sau, nhằm thử minh họa cho anh ta, Gambetti, thấy bên tay trái tôi, tượng trưng cho đĩa cân đặt tiếng Đức bị vít thấp xuống đến mức nào, trong khi tay phải tượng trưng cho đĩa cân bên đặt tiếng Ý được hất cao bổng lên ra sao. Trong sự khoái chí của tôi lẫn của Gambetti, tôi nói vài câu của Schopenhauer bằng tiếng Đức trước, rồi bằng tiếng Ý do chính tôi dịch ứng khẩu, đoạn đặt chúng lên hai đĩa cân ở hai bên tay tôi ấy cho toàn thể thiên hạ, nhưng trước hết là cho Gambetti, nhìn rõ điều đó; rồi dần dần nó biến thành mộttrò chơi mà tôi đẩy lên đến tột đỉnh, một trò chơi rốt cuộc kết thúc bằng các câu nói của Hegel và cách ngôn của Kant Thật đáng tiếc, tôi bảo Gambetti, không phải những từ ngữ nặng nề bao giờ cũng thuyết phục nhất đâu, y hệt các câu nặng nề không phải bao giờ cũng thuyết phục nhất. Trò chơi này chẳng mấy chốc làm tôi kiệt sức. Đứng dừng lại trước khách sạn Hassler, tôi kể Gambetti nghe ngắn gọn về chuyến đi Wolfsegg, nhưng càng về cuối, tôi lại càng thấy câu chuyện đâm ra chi li đầy đủ quá, vâng, thậm chí ba hoa quá. Tôi định dọn chỗ, đặt anh ta trước một buổi cân đong, so sánh giữa hai gia đình, đặt yếu tố Đức của gia đình tôi ở bên này, đối diện với yếu tố Ý trong gia đình anh ta ở bên kia; song, rốt cuộc tôi lại để gia đình tôi đối đầu với gia đình anh, khiến câu chuyện tôi kể bị méo mó, và làm Gambetti, thay vì được dạy dỗ, được khai minh chỗ này điều nọ, chắc lại bị quấy rầy khó chịu lắm. Gambetti là người rất biết lắng nghe và có đôi tai thật thính, lại được tôi dạy thêm thủ thuật nghe sàng lọc về nội dung sự thật cũng như về tính nhất quán của bất cứ một cuộc thuyết trình nào. Gambetti là học trò của tôi, nhưng ngược lại, tự tôi cũng là học trò của Gambetti. Ít ra tôi cũng học được ở Gambetti bấy nhiêu bài học, ngang đúng số bài Gambetti học được ở tôi. Quan hệ giữa hai chúng tôi là quan hệ lý tưởng, bởi lần này tôi là thầy của Gambetti và anh ta là trò của tôi, lần sau Gambetti là thầy, tôi là trò, và một tình huống rất hay xảy ra là cả hai chúng tôi đều không biết lúc ấy Gambetti là trò, tôi là thầy, hay ngược lại. Đó chính là lúc tình huống lý tưởng nảy sinh. Nhưng đằng thẳng ra thì bao giờ tôi cũng là thầy học của Gambetti vì tôi được Gambetti, hay nói đúng hơn là được ông bố giàu có của Gambetti trả công dạy học. Hai ngày sau khi trở về từ đám cưới của Caecilia em gái tôi với tay chủ xưởng sản xuất nút chai vang ở Freiburg, tức là chồng nó, bây giờ thành em rể tôi, tôi lại phải xếp lại chỗ quần áo tôi vừa bỏ ra, mới hôm qua chứ đâu, chưa kịp dọn, còn nằm ngổn ngang trên chiếc ghế bành kê cạnh bàn làm việc của tôi vào túi xách du lịch và quay lại Wolfsegg - cái chốn từ mấy năm trở lại đây tất tật mọi thứ thật sự trở nên ít nhiều đáng ghê tởm đối với tôi, tôi nghĩ bụng, lúc vẫn đang đứng bên cánh cửa sổ mở toang nhìn xuống Piazza Minerva không một bóng người - vì một duyên cớ lúc này không còn nực cười và lố bịch nữa, mà là một duyên cớ thật kinh khủng. Thay vì được ngồi chuyện trò với Gambetti về Luật sư Siebenkäs và Người đàn bà Bồ Đào Nha, tôi sẽ phải nộp mình cho hai con em gái đang đợi tôi ở Wolfsegg, tôi tự nhủ, thay vì được trao đổi với Gambetti về Tình đầu ý hợp, tôi sẽ phải bàn chuyện với hai đứa chúng nó về chuyện chôn cất bố mẹ và ông anh, cũng như về tài sản họ để lại. Thay vì được cùng Gambetti đi qua đi lại trên đồi Pindn, tôi sẽ phải lui tới văn phòng Thị trưởng, ra vào nghĩa địa hay nhà thờ rồi cãi nhau với hai con em gái về việc thu xếp đám tang. Trong lúc xếp số quần áo hôm qua tôi vừa lôi ra vào túi, tôi cố hình dung xem các hậu quả sinh ra từ cái chết của bố mẹ tôi cùng cái chết của anh trai tôi sẽ như thế nào, nhưng chẳng hình dung được gì. Song, tất nhiên tôi rất hiểu cái chết của ba người, mà chí ít xét trên giấy tờ, cũng là gần gũi nhất với tôi ấy, sẽ đòi hỏi những gì ở tôi: tức là toàn bộ sức lực, toàn bộ sức mạnh ý chí của tôi. Sự bình thản trong tôi lúc tôi lần lượt nhồi nhét các thứ cần thiết cho chuyến đi vào túi xách, cũng như sự bình thản trong lòng tôi lúc suy tính đến tương lai bị rung chuyển ngay sau tai nạn chắc chắn là kinh khủng đó, mãi một lúc lâu, sau khi đã đóng túi lại, tôi mới thấy là kỳ quái. Cái câu hỏi, liệu tôi có thương yêu bố mẹ và anh trai không, tuy bị ngay cái từ dĩ nhiên gạt đi - không những chỉ là chung chung, mà nói cho đúng - vẫn chưa được trả lời. Đã từ lâu rồi, cả đối với bố mẹ lẫn đối với ông anh trai, tôi không còn có mối liên hệ nào gọi là tốt đẹp nữa cả, mà phải gọi là căng thẳng thì đúng hơn, và dần dần, cho đến những năm gần đây, trở nên hờ hững. Tôi chẳng thiết gì đến Wolfsegg, như thế cũng có nghĩa là không thiết gì đến bố mẹ và ông anh tôi nữa, thì ngược lại, bố mẹ và ông anh cũng chẳng thèm quan tâm gì đến tôi nữa; đó là sự thật. Xuất phát từ một nhận thức như thế, các mối liên hệ của chúng tôi chỉ còn được đặt trên một nền tảng ít nhiều đủ để gọi là có nữa mà thôi. Tôi nghĩ, hai chục năm trước ông bà già mày không những để mày tuột khỏi Wolfsegg, là nơi ông bà định buộc xích vào chân mày suốt đời, mà ông bà mày còn để mày tuột hẳn khỏi lòng dạ ông bà nữa kia. Ông anh tôi ghen tị khôn nguôi với tôi suốt hai chục năm trời ấy, vì tôi đã bỏ đi, vì tính tự lập đầy hoang tưởng của tôi, như gã có lần đã đốp thẳng mặt tôi như thế, vì các đòi hỏi được tự do đến độ tàn nhẫn của tôi; tóm lại, gã căm ghét tôi. Còn hai con em gái tôi chỉ dành cho tôi mối nghi ngờ bao giờ cũng lớn hơn mối nghi ngờ thường có giữa anh chị em, chúng nó dõi theo tôi với những cặp mắt hằn học, ngay từ thời điểm tôi quay lưng lại với Wolfsegg để ra đi, cũng là lúc quay lưng lại với chúng nó. Đó là sự thật. Tôi nhấc cái túi xách lên, như mọi khi, nó nặng trình trịch, quá nặng, tôi nghĩ bụng, mà thật ra thì nó cũng chẳng để làm gì, vì ở Wolfsegg tôi có đủ mọi thứ kia mà. Tha nó theo làm quái gì chứ? Tôi quyết định không mang túi về Wolfsegg nữa và lôi các thứ trong túi ra xếp lại vào ngăn kéo. Chúng ta vẫn thường thương yêu bố mẹ một cách tự nhiên, và vẫn thường thương yêu các anh chị em chúng ta, cũng một cách tự nhiên như thế - tôi tự nhủ, lúc tôi lại đến đứng bên cửa sổ nhìn xuống Piazza Minerva vẫn không một bóng người ở dưới kia - mà không nhận thấy rằng, đến một thời điểm nhất định nào đó, ta bắt đầu căm ghét họ, hoàn toàn trái với ý muốn của chính ta, nhưng cũng hoàn toàn tự nhiên y như lúc trước đó ta yêu thương họ vậy, xuất phát từ tất cả những nguyên do mà phải nhiều năm sau, thường là hàng chục năm sau, ta mới vỡ nhẽ. Ta không thể xác định được chính xác cái thời điểm từ đó trở đi ta không còn yêu thương bố mẹ và anh chị em ta nữa mà xoay ra căm ghét họ là lúc nào, và chúng ta cũng không còn cất công tìm cho ra cái thời điểm ấy nữa làm gì, vì xét cho cùng, ta rất sợ tìm ra nó. Những ai đã trái ý nguyện người thân để từ bỏ họ ra đi, thêm vào đó, lại ra đi theo một cách hết sức ác độc như tôi đã ra đi, thì tất phải tính đến lòng căm ghét của họ, và tình thương yêu trước đó dành cho ta lớn lao bao nhiêu thì bây giờ, khi ta đã hoàn thành những gì ta đã định, sự căm ghét của họ càng sâu sắc bấy nhiêu. Hàng chục năm trời tôi từng đau khổ vì bị người nhà căm ghét, giờ đây tôi tự nhủ, song những năm gần đây, chẳng còn chút đau đớn nào nữa cả, tôi quen bị căm bị ghét rồi và không còn vì thế mà bị tổn thương nữa. Lòng căm ghét mà cả nhà đổ lên đầu tôi ấy, không thể tránh khỏi, đã đương nhiên khơi dậy trong tôi sự căm ghét dành cho cả nhà. Và, từ mấy năm gần đây, cũng chẳng ai còn đau khổ vì bị tôi căm ghét nữa. Cả nhà khinh bỉ cái thằng thành Rome, cũng như tôi coi thường bọn Wolfsegg vậy, và nói cho cùng, chẳng ai nhớ đến tôi, cũng như tôi không mấy khi nhớ đến ai trong nhà. Cả nhà chỉ toàn gọi tôi là thằng bịp bợmhay thằng ba hoa, một kẻ ăn bám cả gia đình lẫn thiên hạ. Còn tôi, tôi chỉ còn mỗi một từ lũ đần độn để gọi mọi người trong nhà. Cái chết của cả ba người, chắc chỉ có thể là do tai nạn xe hơi mà thôi ấy, tôi tự nhủ, chẳng mảy may làm thay đổi sự thật đó. Tôi chẳng hề lo ngại tôi sẽ vì thế mà sinh ra đa sầu đa cảm. Đôi tay tôi thậm chí còn chẳng run rẩy chút nào khi cầm đọc bức điện tín, thân thể tôi chẳng mảy may rung động, dù chỉ một phút giây ngắn ngủi. Tôi sẽ báo tin để Gambetti biết, bố mẹ và anh trai tôi đã chết, nên tôi phải bỏ qua vài buổi dạy, tôi nghĩ thầm, chỉ vài ngày thôi, bởi tôi sẽ chẳng lưu lại Wolfsegg lâu hơn vài ba ngày; cùng lắm chỉ một tuần là đủ, ngay cả khi có bao nhiêu thủ tục rắc rối không lường trước được cũng vậy thôi. Tôi đã thoáng có ý nghĩ, hay là đưa Gambetti đi theo, bởi tôi cảm thấy e ngại trước số đông vượt trội của đám người ở Wolfsegg và muốn có lấy ít nhất một người về phe mình, một người có thể giúp tôi đủ sức chống đỡ cuộc tấn công ồ ạt của đám người Wolfsegg, một con người, một đồng đội tương ứng với tôi trong tình thế có thể sẽ là vô vọng ấy, nhưng tôi lại gạt ngay ý nghĩ đó đi, vì tôi muốn tránh cho Gambetti cuộc đối mặt với Wolfsegg. Bởi có thể anh ta sẽ thấy tất cả những gì suốt mấy năm qua tôi nói với anh ấy về Wolfsegg thật là vô hại so với sự thật và thực tế mà anh ta sẽ được chứng kiến, tôi nghĩ bụng. Lúc nãy tôi vừa định kéo Gambetti đi cùng, lúc sau lại thôi, không đưa anh ta theo nữa. Rốt cuộc tôi nhất quyết không đem anh ta theo. Mang Gambetti theo, tôi tự nhủ, thể nào tôi cũng gây nhiều ồn ào ở Wolfsegg và nhất là gây một vố náo động giật gân mà đối với tôi, nói chung, chắc chắn sẽ rất đáng ghê tởm. Một người như Gambetti, đám Wolfsegg sẽ không bao giờ hiểu nổi. Ngay cả với những người lạ hết sức hiền lành, bọn họ ở Wolfsegg bao giờ cũng đón tiếp một cách ghê tởm và hằn học, tất tật những ai lạ mặt đều bị họ khước từ, họ không bao giờ hành động như tôi, vốn vẫn quen trong chớp mắt đã có thể sà ngay vàotìm hiểu một cái gì đó lạ lẫm hay làm quen với một người lạ mặt nào đấy. Đưa Gambetti về Wolfsegg sẽ có nghĩa là cố tình đối xử bất nhã với anh, và nói cho cùng, là xúc phạm anh ta một cách nặng nề. Đến chính tôi còn chưa đủ sức thanh toán xong mọi sự với Wolfsegg, huống hồ một con người đầy cá tính như Gambetti. Sự đối đầu giữa Gambetti với Wolfsegg biết đâu sẽ dẫn tới một tai họa thật sự, tôi nghĩ bụng, và nạn nhân không chừng sẽ chẳng là ai khác ngoài Gambetti. Lẽ ra tôi đã có thể đưa Gambetti về thăm Wolfsegg một lần rồi đấy, tôi thầm nghĩ, nhưng rồi tôi lại thôi, mặc dù tôi vẫn thường tự bảo, sẽ đưa Gambetti về Wolfsegg chơi, may ra, không những sẽ chỉ có lợi cho tôi, mà còn có lợi cho cả Gambetti nữa. Các câu chuyện tôi thuật về Wolfsegg lẽ ra sẽ nhờ đó, nhờ thông qua con mắt tinh tường của chính Gambetti, mang một tính xác thực không thể đạt tới bằng bất cứ cách nào khác. Tôi quen Gambetti, tính đến giờ đã mười lăm năm, nhưng tôi chưa đưa anh về thăm Wolfsegg lấy một lần, tôi nghĩ bụng. Rất có thể Gambetti suy nghĩ về việc đó khác tôi, giờ đây tôi tự nhủ, bắt nguồn từ sự bất thường cũng rất chi là tự nhiên ấy rằng, tôi, trong suốt mười lăm năm trời ấy, không mời và không đưa theo, dù chỉ một lần, con người mà mười lăm năm ròng rã tôi đã ít nhiều trở nên thân thiết ấy, về một nơi vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Tại sao suốt mười lăm năm ấy tôi đã không để Gambetti ngó vào lá bài quê hương của tôi nhỉ? - tôi tự hỏi. Bởi vì tôi đã luôn luôn e sợ, và cho đến tận bây giờ vẫn còn e sợ điều đó. Mời các bạn đón đọc Diệt Vong của tác giả Thomas Bernhard & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Vòng Đồng Đen - Phan Hồn Nhiên
Cách đây 10 năm, tôi nhận được một đề nghị khá lạ: Hãy thử viết một tác phẩm dài hơi, hoàn toàn độc lập, hấp dẫn, dành cho tween hoặc teen! Một thử thách thực thụ, vào thời điểm ấy. Tôi chưa từng kinh nghiệm làm việc trên một tác phẩm dài. Quỹ thời gian để viết gần như zero. Sẽ viết gì, viết như thế nào. Và câu hỏi then chốt làm tôi căng thẳng nhất: mình có làm được không? Ở một khía cạnh nào đó, khi các nhân vật bé nhỏ của Chiếc vòng đồng đen khởi sự chuyến phiêu lưu trong thế giới fantasy, cũng là lúc tôi bắt đầu bước trên con đường mới, với các yêu cầu đặt ra về xây dựng cốt truyện, miêu tả tâm lý… Lần đầu tiên, nên không ít bước đi loạng choạng, cảm giác lạc hướng, nỗi lo âu bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng, thật may mắn, một người cạnh bên hỗ trợ tôi rất nhiều – họa sĩ Phan Vũ Linh. Không những giúp sức bồi đắp ý tưởng, tháo gỡ vướng mắc, bạn cũng là người minh họa cho Chiếc vòng đồng đen ở lần xuất bản đầu tiên. Đúng 10 năm sau, bạn trở lại minh họa và vẽ bìa cho bản sách này, nhưng ở trình độ mới, vượt bậc. Giờ đây, vững tin hơn khi thực hiện thể loại fantasy, tôi vẫn nhớ lời đề nghị làm việc đầy tin cậy năm ấy, nhớ những trợ giúp chân thành của bạn, và cũng không quên một trải nghiệm đáng giá về sau: một khi can đảm đi bước đầu tiên, ta có thể đi tiếp, ngày càng xa, khám phá vô số bất ngờ trên con đường mới. *** Bắt tay vào kể một câu chuyện không bao giờ là dễ dàng với tôi. Càng khó hơn khi tôi dự định sẽ kể một câu chuyện dài, hồi hộp và buồn cười cho các bạn nghe. Khi viết những dòng đầu tiên cho Chiếc vòng đồng đen, tôi thật sự bị áp lực. Chưa bao giờ tôi viết một truyện dài cả. Nhưng có lẽ, kinh nghiệm của rất nhiều truyện ngắn đã giúp tôi có chút can đảm vượt qua những rào cản của thói quen, của sự bận rộn và khơi dậy một ước ao được dấn thân vào một cuộc thử thách mới. Tôi quyết định bỏ qua các động tác cần thiết như xây dựng cốt truyện, lập một đường dây hay những gì tương tự. Tôi nghĩ rằng sẽ thoải mái hơn khi cứ để cho câu chuyện dẫn dắt mình đi, tới những vùng đất bất ngờ của trí tưởng tượng. Cũng như nhân vật trong câu chuyện Chiếc vòng đồng đen, tôi không phải du hành một mình. Bạn của tôi - Phan Vũ Linh, cũng là họa sĩ minh họa tập truyện này - đã cùng tôi chạy dọc theo những diễn biến cuộc phiêu lưu của Nhô và An Chi. Tôi đóng vai người tường thuật trong từng chương sách, kể chuyện cho Linh nghe. Bạn tôi là người có đôi tai thông minh. Nếu đoạn nào tôi cảm thấy không thích, Linh cũng bảo hãy viết lại. Đôi khi tôi sa vào tình cảnh tắc tịt vì đi lạc giữa hàng đống quan hệ rắc rối, các phép thần thông biến hóa... và Linh đã đưa ra những gợi ý mở đường tuyệt vời. Nếu bạn đọc thích thú với tính cách vừa tương đồng, vừa trái ngược nhau của Nhô và An Chi, đó là vì tôi với Linh đã tranh cãi nhau loạn xạ để có những nhân vật vừa sát với cuộc sống thật, vừa phù hợp với một thế giới kỳ ảo. Thực sự, chưa bao giờ tôi ngồi viết trước máy mà lại được bơi thật lâu trong cảm giác mơ mộng, được tự do bay bổng hoàn toàn như khi viết Chiếc vòng đồng đen. Tôi yêu thích các nhân vật của mình vô cùng. Dù biết là rất khó nhưng tôi nghĩ rằng, sẽ thật vui sướng biết bao nếu mỗi bạn nhỏ của tôi đều tìm thấy chút nào hình ảnh bản thân mình, những suy nghĩ, những vui buồn của mình trong các nhân vật chính. Trong hoàn cảnh hiện nay, các bạn nhỏ thường phải học rất nhiều, ít có điều kiện để vui chơi thỏa thích, để thử nghiệm óc sáng tạo, phát huy trí tưởng tượng và khám phá các khả năng tiềm ẩn trong bản thân một cách vui nhộn. Vậy thì Chiếc vòng đồng đen là những giây phút thoải mái các bạn đi chơi với tôi, tưởng tượng và hồi hộp cùng tôi nhé! Câu chuyện tôi kể cho các bạn nghe chưa có một kết thúc hoàn hảo bởi vì thật sự, vẫn còn rất nhiều bí mật về cuộc phiêu lưu của Nhô, An Chi và con Tô tô mà tôi muốn kể tiếp. Để tạm dừng, tôi muốn gửi đến các bạn của tôi một điều bình dị nhưng có lẽ chẳng bao giờ cũ: Khi có bạn bên mình, tất cả những khó khăn nguy hiểm chỉ có thể đe dọa, nhưng chúng chẳng bao giờ khuất phục được chúng ta. PHAN HỒN NHIÊN Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Đồng Đen của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Cánh Trái - Phan Hồn Nhiên
Cánh trái là tập truyện ngắn của nhà văn Phan Hồn Nhiên, hội ngộ gần 20 truyện ngắn hay của chị như: Cánh trái, Africa, Vụ mất tích, Giờ xanh, Ván cờ, Sapa, Yên tĩnh tuyệt đối, Hồ Cá, Người chơi gương, Bay về phương Bắc, Thành phố trên cốc, Người đi săn, Cột nước đỏ... Là một cây bút nổi tiếng của báo Hoa Học Trò xưa và nay, Phan Hồn Nhiên đã để lại những ấn tượng khó quên cho độc giả qua những trang viết, truyện ngắn nhẹ nhàng mà sâu sắc, mang đậm dấu ấn của một Phan Hồn Nhiên luôn gần gũi với mọi người... *** Cả tập truyện ngắn Cánh trái gồm 18 "mẩu" được tác giả Phan Hồn Nhiên khéo léo xếp gọn vào 3 gian màu Xanh – Trắng – Đỏ, những gam màu được gọi tên cùng những nhân vật, xuất hiện rồi biến mất trong những câu chuyện kể. Mỗi gian màu là một hình khối sắc nét và có cạnh nhọn hoắt, nó chạm vào đến tận cùng những xúc cảm sâu kín nhất... *** 1. Sảnh đợi vắng lặng. Các mặt ghế nhẵn thín, đỏ chói, liên kết với nhau bằng thanh inox trắng lạnh. Hưng thả người xuống chiếc ghế đầu tiên. Cảm giác cứng đờ ghê tởm truyền thẳng vào da thịt khiến anh nhận ra mặt ghế cũng đúc từ kim loại chứ không phải nhựa hay gỗ. Dù rất mỏi, anh tránh dựa vào lưng ghế lạnh toát. Hưng nhìn chăm chú mặt đồng hồ màu trắng với những chữ số La Mã to khác thường treo trên khoảng tường phía sau quầy tiếp bệnh nhân. Vài phút nữa, 12 giờ khuya. Con trai anh đã được đưa vào phòng cấp cứu đặc biệt. Việc của anh lúc này chỉ là chờ đợi. Có tiếng chân bước hối hả. Một thứ tiếng ồn ngẫu nhiên nhưng gây náo loạn. Sau khúc quanh cuối dãy hành lang, một người lao vụt ra. Anh ta cao và gầy một cách đáng sợ, khoảng ngoài hai bảy. Bàn tay bấu chặt phía dưới cổ, như thể anh ta đang gắng sức kiềm chế hỗn hợp âm thanh sắp buột ra khỏi cuống họng. Bước chậm lại, anh ta nhìn quanh rồi ngồi vật xuống đầu kia dãy ghế, run rẩy dữ dội, đến mức sự rung động thấm vào kim loại lan truyền sang Hưng. Anh ta không ngớt lầm bầm điều gì đó, cái yết hầu nhọn hoắt chuyển động cuồng loạn như sắp xé rách lớp da cổ tái nhợt. Chừng mươi phút sau, ngớt run rẩy, anh ta gục mặt vào hai bàn tay. Một cách kín đáo, Hưng quan sát người lạ. Sự kinh hoàng sầu thảm tựa lớp màng trắng đục khiến mọi đường nét đều nhòe nhoẹt, như nhìn trên màn hình TV bị rối nhiễu. Ngoài tường kính, vẳng lên tiếng còi hụ cùng ánh đèn chớp của một xe cấp cứu đang băng qua khoảng sân bệnh viện. Vài y tá trực túa ra sảnh, chạy không tiếng động theo lối thang bộ. Hưng vẫn ngồi im. Nhưng người lạ đã đứng bật dậy, lách qua cửa xoay rồi biến mất. Bác sĩ đồng ý cho anh đưa con về nhà ngay trong đêm. Đứa bé mười một tháng tuổi đã được tiêm thuốc. Nhịp thở trở lại bình thường. Lúc này nó đang ngủ im bên trong chiếc nôi lớn có quai xách. Trao cho anh túi bìa giấy đựng phim, đơn thuốc cùng một danh thiếp, ông ta giải thích đều đều với Hưng về Ehlers-Danlos type bốn - một bệnh hiếm khởi nguồn từ chứng rối loạn gen. Ngưng một chút, ông ta miêu tả biểu hiện một vài biến chứng nguy hiểm. "Tôi có biết về chúng - anh cắt lời bác sĩ - Một căn bệnh dính líu đến gen di truyền. Ông sẽ nói thế, phải không?". Ông ta im lặng nhìn anh bằng đôi mắt hẹp, vằn đỏ vì thức khuya. "Anh có thể đưa thằng bé đến phòng khám riêng của tôi. Bất kỳ lúc nào. Địa chỉ và điện thoại có trên danh thiếp". Ông bác sĩ quay lưng bỏ đi, chẳng buồn nghe lời cảm ơn. Một lần nữa Hưng cúi nhìn đứa con trong nôi. Sau đó anh bước ra khỏi khu vực cấp cứu, bấm thang máy xuống tầng hầm để xe. Khi anh lái xe ra đường thì đã quá nửa đêm từ lâu. 2. Đối diện cổng bệnh viện, hộp đèn trạm xe buýt phả quầng sáng vàng yếu ớt. Khoảng tối quanh đó thẫm lại, dày đặc hơn. Một người đứng im, bóng đổ dài trên mặt đường nhựa. Chỉ có đồ mất trí mới chờ chuyến xe buýt không bao giờ hiện ra trong đêm, Hưng tự nhủ. Đèn pha xe hơi chiếu thẳng. Anh chợt nhận ra gã trai trẻ ban nãy trong sảnh. Anh cho xe chậm lại, trờ sát lề. Bấm nút hạ kính, Hưng lên tiếng lạnh lẽo: "Có muốn quá giang không?". Mất mấy giây, người đứng một mình mới hiểu ra. Anh ta hấp tấp chui vào xe từ cửa bên kia, khựng lại khi thấy chiếc nôi. Hưng cho biết băng sau bỏ không. Tuy nhiên người lạ rụt rè đề nghị được ngồi ghế trước, ôm đứa bé, còn cái nôi có thể xếp ra đằng sau. Anh ta thu xếp mọi thứ nhanh gọn. Khi anh ta tìm được tư thế thoải mái, tựa hẳn vào lưng ghế, đứa bé vẫn nhắm mắt ngủ yên trên ngực anh ta. - Anh cho xe đi thẳng năm cây số nữa. Ngã tư chạm đường cao tốc, tôi sẽ xuống. - Được! - Hưng gật đầu - Cậu chợp mắt chút đi. Đến nơi, tôi sẽ gọi. - Phiền anh thức tôi vậy! - Nụ cười gắng gượng khiến mặt người lạ có các hốc tối khó coi - Gọi tôi là Đông. Đồng hồ báo xăng vẫn còn đầy. Đường nhựa trơn mượt gây cảm giác cái xe cũ đang trôi xuống dốc. Những vệt đèn pha ngược chiều hung hãn cắt xuyên bóng tối như mắt lũ thú rừng. Tiếng rì rầm của động cơ chỉ lan truyền đến khuỷu tay Hưng. Phần cơ thể còn lại nhúng ngập trong tình trạng không cảm giác. Suốt nửa năm vừa qua, anh sống sót nhờ tìm thấy trạng thái yên tĩnh này. Anh không hiểu nổi nguyên nhân tai họa. Anh không nghĩ hay làm được gì hòng ngăn tai họa diễn ra. Sau đó thì tất cả trở thành chuyện đã rồi. Chỉ có đứa con trai nhỏ của anh như tàn tích sót lại, nằm bên bờ lỗ thủng rỗng hoác của cơn ác mộng. Hưng đưa mắt nhìn con trai. Khuôn mặt nhỏ ngoẹo về một bên, bàn tay bé xíu đặt trên vai người lạ lúc ẩn lúc hiện trong bóng tối. Một hình ảnh quen thuộc. Quen thuộc đến mức ghê khiếp. Hệt như anh lại nhìn thấy An, vào cái hôm anh đón cô và con trai mới sinh từ bệnh viện về nhà. Họ mới ngoài ba mươi. Mọi thứ đang vận hành ổn thỏa. Ngay suốt quãng thời gian mang thai mệt mỏi, An vẫn không mất đi vẻ xinh đẹp và sáng suốt luôn khiến anh ngạc nhiên. Cuộc sống gia đình chẳng có gì phàn nàn. Trước đó không lâu, bằng tiền dành dụm, họ vừa mua chiếc xe mà giờ đây anh đang điều khiển. Ngôi nhà thứ hai của họ. Biểu tượng hạnh phúc của họ. Anh nhớ hôm ấy, buổi sáng, trời mưa lây rây. Xe chạy tốc độ trung bình trên đại lộ thưa thớt. Máy lạnh trong xe điều chỉnh ở khoảng 26 độ C, thích hợp với đứa trẻ vừa chào đời ba ngày. Họ không nói gì. Sự tĩnh lặng chia sẻ. Nhìn nghiêng, vầng trán An trắng xanh, thẳng và mịn. Dựa hẳn vào lưng ghế, tay ôm đứa trẻ, cô bỗng cười khe khẽ, rồi nhoài người lấy đĩa chọn lọc The Beatles đặt vào đầu đọc. When I'm sixty four. You'll be older too. And if you say the word I could stay with you... Giọng hát trầm mượt vang lên thong thả, đượm vẻ chế giễu dịu ngọt. Đúng khi ấy, anh chợt nhận ra không khí trong xe phảng phất một mùi gì đó gợi sự bất an. Vợ anh áp môi lên trán con trai, bình thản: "Mùi máu. Từ người em!". Anh gật đầu. Chưa bao giờ anh thấm thía nỗi buồn bã xót thương như giây phút đó... Nhiệt độ trong xe cũng khoảng 26 độ C. Con trai anh được sưởi ấm trên ngực người lạ, ngủ ngon lành. Đường nét gương mặt nhìn nghiêng của gã quá giang khá đẹp. Hưng rùng mình nghĩ vợ anh có vài nét tương đồng với kẻ xa lạ này. Bất thình lình, Đông mở choàng mắt. Đôi mắt ráo hoảnh cho biết anh ta hoàn toàn không ngủ. Những ngón tay dài mảnh đeo mấy chiếc nhẫn cầu kỳ rẻ tiền gõ nhè nhẹ trên gò má. Lúc này, anh ta đượm vẻ tự tin và làm chủ tình thế, khác hẳn hình ảnh hoảng loạn tại bệnh viện. - Hồi nãy, cậu ở khu cấp cứu có chuyện gì? - Hưng phá vỡ sự im lặng. - Người quen của tôi cần đến bệnh viện. Tôi đưa ông ta đi! - Đông ngập ngừng. - Chỉ vậy thôi sao? - Hưng ngờ vực. - Người đó bị chấn thương sọ não - giọng nói thì thào, rồi đột ngột vang to, the thé - Một vết thương sau gáy làm ông ấy bất tỉnh. Chỗ rách máu chảy nhiều không tin nổi... - Ai gây ra chuyện đó? - Hưng hỏi, dù đoán được lời đáp. - Nếu ông ấy không dọa bỏ rơi tôi, thì tôi đâu có phát khùng! - Gã quá giang úp mặt vào bàn tay, đột ngột khóc nức. Nước mắt anh ta nhiều đến mức rỉ qua các kẽ ngón, biến mất trong mấy cái nhẫn - Dù sao thì tôi cũng đã đưa ông ấy đi cấp cứu và gọi điện báo cho người nhà ông ấy để họ tới bệnh viện... Đứa trẻ thở khò khè và bắt đầu khóc to. Bỗng dưng, nỗi chán nản khủng khiếp xâm chiếm Hưng. Mùi máu váng vất từ người ngồi cạnh, quen thuộc. Nhưng anh chẳng hứng thú gì với các bí mật kẻ khác. "Đừng khóc như đàn bà nữa. Dỗ nín con trai giùm tôi!" - Anh lên tiếng, chỉ muốn được yên. Nghiêng đầu chùi khô mắt vào vai áo, Đông vỗ nhẹ lưng đứa trẻ. Thằng bé dịu xuống. Mọi thứ lại im ắng. Nhưng bầu không khí trong xe chẳng còn như cũ. Giao lộ đường cao tốc lấp loáng phía trước. Lơ lửng trên cao, các bảng điện giao thông nhấp nháy. Xe chạy chậm lại. Đông nói yếu ớt: "Về nhà một mình sợ lắm. Giá anh cho tôi trọ qua đêm nay!". Đèn vàng ngã tư chuyển màu đỏ. Chiếc xe lao vụt qua giao lộ như một kẻ tâm thần mù lòa. Bằng hành động liều lĩnh, Hưng ngỡ như đã quyết định bẻ ngoặt cuộc sống anh sang hướng khác, mù mờ và bất ổn. Ở một khía cạnh nào đó, anh chỉ làm cho việc đánh mất khả năng kiểm soát đời mình hiện hình rõ nét hơn. ... Mời các bạn đón đọc Cánh Trái của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells
Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." *** Ba người đàn ông dừng chân, ngoảnh đầu nhớn-nhác như tìm kiếm xung quanh. Họ quay ngang quay ngửa, còn Nunez thì vung tay rối-rít ra hiệu song có lẽ họ không trông thấy. Sau một lúc, họ tiến về phía dẫy núi xa xa, mé tay phải, và cất tiếng gọi to như để đáp lại. Nunez lại gào lên, vung vẩy tay ra hiệu và khi nhận ra vô ích, đột nhiên chữ " mù " lóe ra trong óc hắn : " Không khéo các cha này mù cả lũ rồi ! " Cuối cùng, sau khi gào chán chê và cáu-kỉnh, Nunez vượt chiếc cầu nhỏ vắt ngang dòng nước, xuyên qua một cái cửa đục trong tường và tiến đến gần họ. Hắn chắc chắn những nguời này đã lòa và biết rõ đây là xứ sở của người mù mà người ta vẫn kể trong những chuyện cổ-tích, thần-thoại. Hắn tưởng như mình đang trải qua một cuộc phiêu-lưu thích-thú mà mọi người hằng mơ tưởng, ước ao. Ba người đàn ông sóng vai nhau đứng, không nhìn hắn nhưng tai lại vểnh về phía hắn, lắng nghe tiếng bước chân khác lạ của hắn. Họ đứng sát cánh nhau ra chiều hơi khiếp-sợ. Hắn thấy rõ mi mắt họ khép kín và sâu trũng làm như nhãn-cầu bên dưới đã teo lại. Mặt họ lộ vẻ hoang-mang. " Có người ? đích thị là có người ? người hay là quỷ thần đi từ phía những tảng đá xuống ". Một người thốt bằng thứ tiếng lơ-lớ Tây-ban-nha. Nunez mạnh dạn tiến lên như một thanh-niên mới bước chân vào đời. Hắn chợt nhớ đến tất cả những chuyện kể về cái thung-lũng đã tuyệt-tích và xứ sở của người mù. Câu ngạn-ngữ cổ cứ láy đi láy lại mãi trong đầu hắn như một điệp-khúc : " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " Hắn cất tiếng chào rất lễ-phép, vừa chào vừa đưa mục-quang quan-sát. " Người này từ đâu đến hở Pedro ? " một người lên tiếng hỏi. " Từ phía những tảng đá trên kia đi xuống." " Tôi từ bên kia dẫy núi đến đây " Nunez sửa lại. " Từ một nước ở rất xa, nơi mà ai ai cũng nhìn được. Ở gần Bogota, chỗ có hàng trăm ngàn dân cư, dẫu chỉ là một thành-phố khuất nẻo. " " Nhìn ? Nhìn ? " Pedro lẩm-bẩm. " Người này từ những tảng đá đi xuống " người mù thứ nhì nhắc lại. Quần áo họ mặc rất kỳ-cục, chắp nối lung-tung các mảnh vụn bằng những đường kim mũi chỉ khác nhau. Hắn giật nẩy mình khi họ đồng loạt tiến lên, cùng vươn tay. Hắn vội lùi lại, tránh những ngón tay xòe ra. " Lại đây " người mù thứ ba lên tiếng, bước theo và tóm ngay được hắn. Họ nắm giữ, sờ nắn Nunez từ đầu đến chân và không nói thêm một tiếng nào cho tới khi sờ nắn xong. " Ấy, cẩn-thận đấy ! " Nunez sợ-hãi kêu lên khi một ngón tay đè lên mắt hắn và biết là họ thấy mắt hắn rất kỳ-quặc, mi mắt rung động được. Họ lại sờ thử một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở của Người Mù của tác giả Herbert George Wells.
Tìm Lại Tình Yêu - Debbie Macomber
Giống như về thăm nhà, Debbie Macomber dùng tài năng hiếm có của mình để mang đến cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về đời sống của một thành phố. Macomber viết bằng nhận thức đau đến xé lòng khi phải đứng giữa những quyết định và lựa chọn được hình thành trong tình bạn và mối quan hệ gia đình. Qua những tiếng cười và giọt nước mắt, bà đào sâu các mối quan hệ bằng hiện thực và sự thấu hiểu đáng kinh ngạc trong câu chuyện giàu tình cảm và có nhịp độ nhanh này. Những giọt nước mắt vui mừng sẽ lăn dài trên má khi bạn đọc đến đoạn kết. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... ***   Bob Beldon liếc nhìn thực đơn trong nhà hàng nhỏ của bãi chơi ki. Thật ra chẳng cần thực đơn thì anh vẫn biết mình muốn gì. Hai quả trứng, thịt lợn muối xông khói, khoai tây chiên và hai miếng bánh nướng kẹp mứt dâu tây. Với hai đô la năm mươi xu, đây thật sự là một bữa ăn ngon miệng. Cô phục vụ bàn bước đến, và rót cà phê cho Bob. “Ông đợi ai nữa phải không ạ?”. Bob gật đầu. Ngay lúc đó, Roy McAfee bước vào nhà hàng đông đúc. “Rất đúng giờ”, Bob nhận xét trong lúc Roy đi qua quầy đối diện mình. “Anh gọi món chưa?”. “Chưa”. Cầm chiếc bình trên tay, cô phục vụ bàn trở lại, rót cà phê vào tách của Roy và đứng chờ họ gọi món. Bob gọi trước. Roy gọi bánh kếp. Người nữ phục vụ thong thả bước đi và xướng thực đơn cho đầu bếp. “Có chuyện gì thế”. Roy hỏi. Tối qua Bob đã gọi anh để hẹn cuộc gặp này. “Hôm kia Peggy kể cho tôi nghe một chuyện khá thú vị. Tôi đã nói chuyện với Troy Davis, nhưng tôi muốn nghe ý kiến của anh nữa.” “Được. Là chuyện gì?”. “Có vẻ như Peggy và Hannah đã có một cuộc tâm sự nho nhỏ.” “Anh có biết thêm được điều gì không?”. “Có”. Bob thêm đường và kem rồi khuấy đều tách cà phê lên. “Hannah buột mồm nói thỉnh thoảng bố cô bé có dùng tên giả. Peggy đã hỏi về chuyện đó và tôi nhận thấy là qua từng ấy năm, Max đã có một cơ số những cái tên và chứng minh thư khác nhau”. Roy nhướng mày lên. “Con bé chưa bao giờ nhắc đến điều đó?.” “Rõ ràng là không”. Bob kể lại nguyên nhân dẫn đến sự thú nhận này. “Con bé để ngỏ bình sữa cả đêm, tôi thấy khó chịu vì sữa bị hỏng. Sau khi tôi đi đánh gôn, Hannah rời khởi giường và bắt đầu nói chuyện với Peggy. Theo cách con bé mô tả, cuộc sống của mẹ con con bé cùng người bố giống như là địa ngục vậy.” “Trước đây, con bé chưa từng nói xấu bố?”. Bob cần suy nghĩ về điều này. Anh nhún vai. “Đúng. Tôi không nhớ mình đã được nghe những chuyện như vậy. Hình như con bé sống trong một thế giới kỳ quặc. Ban đầu, cô bé vẽ lên bức tranh ba người trong một gia đình trải qua những tháng năm hạnh phúc bên nhau. Hoá ra cuộc sống ấy không hề hạnh phúc như cô bé đã kể cho chúng ta”. “Có lý”, Roy nói, hai tay chụm lại giữ tách cà phê. “Cô bé mất cả bố lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn. Trong những tình huống bi đát và đau thương như thế, con người thường nhớ lại những phút giây đẹp đẽ”. Bob cho là bạn mình đã nói đúng. “Chẳng lẽ Troy không hỏi liệu con bé có biết gì về việc bố mình dùng những cái tên giả không à?”. “Tôi chắc chắn là có. Thế con bé có giải thích vì sao nó lại không nói không?”. “Peggy đã hỏi. Hannah khẳng định cô bé lo sợ rằng nếu ai đó phát hiện ra thì sẽ gặp rắc rối. Theo những gì cô bé nói, có vẻ như rắc rối đi theo Max tới bất cứ nơi nào ông ta đặt chân đến”. Roy nhíu mày, nhấp một ngụm cà phê. “Cô bé có vô tình nhắc đến một cái tên nào đó mà ông ta đã dùng? Hay ông ta lấy chứng minh thư giả ở dâu không?”. “Không, nhưng nếu Peggy hỏi, có thể Hannah sẽ nói”. Bob không nghĩ Hannah đủ tin tưởng mình để tâm sự những loại thông tin ấy, nhưng cô bé lại rất thân thiết với vợ anh. “Bảo Peggy hỏi cô bé, và tôi sẽ tìm hiểu lại mọi chuyện. Có thể chúng ta sẽ tìm ra manh mối nào đó”. Bob gật đầu. Anh cũng đã hi vọng Roy sẽ tình nguyện điều tra. “Hannah có biết gì về tấm chứng minh thư giả mà bố cô bé mang theo khi chết không?”. “Cô bé nói không biết”. Roy dò xét. “Anh có tin không?”. Bob cân nhắc câu hỏi một cách thận trọng và thực tế là anh không dám chắc chắn. Anh không thích Hannah, nhưng anh không thể giải thích được vì sao, thậm chí anh còn chẳng có một lí do rõ ràng nào để ghét cô bé. Peggy kết bạn với cô rất nhanh chóng, và Chúa mới biết cô gái trẻ có cần vợ anh quan tâm hay không? Nỗi lo lắng của Hannah và thái độ bồn chồn của cô bé khiến Bob không thoải mái. Dù Bob có nói nhẹ nhàng, thì cũng đủ để cô bé khiếp sợ, như thể anh sắp vồ lấy cô ta vậy. Tất nhiên, điều Hannah kể với Peggy đã phần nào giải thích được sự sợ sệt của cô bé khi thấy anh tỏ ra khó chịu với mình. “Mấy ngày nay có ai theo dõi anh không?”. Roy hỏi khi người phục vụ bàn mang bữa sáng đến cho họ. “Theo tôi là không. Không có gì xảy ra kể từ sau đêm đó. Tôi bắt đầu tự hỏi có phải do mình tưởng tượng không. Nhưng tôi biết là mình không tưởng tượng. Có thể chuyện này chẳng liên quan đến Max. Có thể chỉ là một gã điên khùng nào đó”. Roy đổ nước đường lên chiếc bánh kếp. “Anh thất vọng hả?.” “Đúng. Cách sống của tôi và Peggy thật nực cười. Tôi muốn thoát khỏi chuyện này bằng bất cứ giá nào. Nó đã khiến chúng tôi tốn hàng nghìn đôla rồi”. Bob nhấp một ngụm cà phê và nói tiếp. “Nếu thực sự có kẻ nào đó theo dõi tôi, thì chẳng lẽ bây giờ hắn vẫn chưa ra tay sao?”. Roy gật đầu. “Tôi đồng ý với anh. Nếu có kẻ định ra tay, thì mọi chuyện có thể đã xảy ra rồi”. Bob tán đồng trong khi miệng đầy bánh mì nướng và mứt. “Nghĩ đi nghĩ lại thì..”. Roy nói. “Thôi nào, Roy”, Bob phản đối, không cho Roy kịp nói hết. “Anh có muốn nghe lời khuyên của tôi không? “Tôi sẽ cho anh lời khuyên, và nếu thấy nhẹ nhõm, anh nên cảm ơn tôi”. “Thôi được, thôi được”. Bob dùng mẩu bánh mì chia đôi miếng lòng đỏ trứng ra. “Chia sẻ sự khôn ngoan của anh nào”. Roy cười tủm tỉm. “Chỉ chấp nhận cho ở nhờ đối với những người đã từng ở nhà nghỉ. Hoặc những người anh quen biết”. Bob tiếp lời Roy. “Nói cách khác, từ chối tất cả những người lạ mặt đến nhà vào lúc nửa đêm, đặc biệt là những đêm giông bão”. Roy cười thầm. “Anh nói đúng đấy”. Bob ăn xong bữa sáng và với tay lấy tách cà phê đã được rót đầy. “Tôi muốn cho anh biết một giả thuyết tôi vừa nghĩ ra”. Roy thả lỏng người, dựa vào quầy. “Nói cho tôi nghe nào”. “Anh biết mọi chuyện, ý tôi là những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam, đúng không?”. Roy gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng. “Anh nhớ là tôi đã trải qua một thời gian không mấy dễ dàng sau chiến tranh chứ? Tôi đã làm tất cả để có thể chôn vùi kí ức. Tôi đi tìm sự lãng quên. Và hậu quả của nó thật không dễ chịu với mọi người, đặc biệt là với Peggy và bọn trẻ”. Bob dừng lại. “Bề ngoài, Dan Sherman có vẻ thích nghi với cuộc sống thường ngày. Tôi nghĩ thế. Mấy chục năm rồi tôi không gặp anh ấy. Thậm chí khi tôi trở lại vịnh Cedar, chúng tôi còn cố tình tránh mặt nhau. Vì thế tôi không biết anh ấy cũng phải đấu tranh với những con quỷ của quá khứ”. Roy lắng nghe trong lúc Bob sắp xếp câu nói. “Theo những gì Hannah kể với Peggy, cuộc sống của Max không dễ chịu hơn cuộc sống của tôi là bao”. “Anh ta cũng uống rượu?”. “Một chút, nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề duy nhất. Anh ta ấy ngày càng bị ám ảnh, mặc dù đó không hẳn là điều mà Hannah đã nói.” “Anh có nhớ mọi thứ được xếp gọn gàng trong vali của anh ta như thế nào không?”. Bob gật đầu. Bọn họ đã rất ấn tượng với chiếc va-li ngăn nắp ấy. “Vậy anh đang nghĩ gì?”. Roy nhấn mạnh. “Khi từ Việt Nam trở về, tôi nhận ra rằng một ngày nào đó, bằng cách nào đó, tôi sẽ phải trả giá cho những gì đã xảy ra ở ngôi làng kia. Nếu tôi học được điều gì từ cuộc sống trong hơn năm mươi năm qua, thì đó là sự công bằng”. Bob hạ thấp giọng. Tôi... đã tước đi những sinh mạng vô tội, và giờ thì có kẻ nào đó muốn lấy đi mạng sống của tôi”. Nói ra được những lời ấy, Bob cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Anh đã nghĩ đến điều này kể từ sau cái chết của Max, nhưng anh không có dũng cảm để nói thành lời. “Tiếp đi”, Roy giục. “Tôi nghĩ Dan cũng nhận ra điều này. Và anh ấy đã tự chọn cho mình một cách riêng để kết thúc cuộc sống”. “Tôi...”. “Hãy nghe tôi đã”, Bob quả quyết. “Tôi không biết liệu người thân của một trong số... những nạn nhân của chúng tôi có săn tìm chúng tôi không. Anh ta có thể đã chạm trán với Dan, buộc Dan phải đối diện với quá khứ. Ngoài ra, còn điều gì khác đưa Max tới vịnh Cedar này? Tôi nghĩ bất cứ kẻ nào chịu trách nhiệm về những chuyện này đều làm vì hành động trả thù”. Roy cân nhắc giả thuyết của Bob. “Tôi không biết. Có thể lắm, nhưng tôi vẫn nghi ngờ”. “Anh nên nhớ là đã có rất nhiều người Việt Nam di cư sang Mỹ kể từ sau chiến tranh”. “Theo tôi, khó có khả năng một trong số họ mang mối thù đó với bốn người lính Mỹ chúng ta trong từng ấy năm. Bởi nếu vậy, sao lại phải đợi đến tận bây giờ?”. Bob nhún vai. “Tôi không biết”. Có thể Roy đúng; suy nghĩ của Bob thật kì quặc, có thể nó chỉ là một sự tưởng tượng trong tâm trạng tuyệt vọng của anh. Nhưng ngoài ra, Bob cũng chẳng có lời giải thích nào hợp lí nữa. ... Mời các bạn đón đọc Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Debbie Macomber.