Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hà Quỷ Quan (Nam Phái Tam Thúc)

Một thương nhân đồ cổ đang lúc làm ăn thất bát thì bất ngờ bị cuốn vào một sự kiện vô cùng quỷ dị phát sinh tại công trình Hoàng Hà.

Phàm là bất kỳ ai vướng vào sự kiện này đều từng người, từng người một không báo trước cùng từ giã cõi đời.

Chính bản thân hắn cũng cảm nhận tử thần đang từng bước, từng bước tới gần mà nguyên nhân tử vong vẫn ngày càng mờ mịt như sương khói.

Hắn miệt mài kiên nhẫn bóng tách từng lớp màn bí ẩn, nhằm phát lộ thứ khủng khiếp gì đang ẩn dưới lớp phù sa Hoàng Hà.

Bài đồng dao thôn quê khó hiểu, người trong suốt bên trong thạch đài dưới đáy sông. Xích sắt từ ngàn năm trước ruốt cuộc muốn trói thứ gì, lão nhân thần bí rốt cuộc trước khi tử vong đã thấy cái gì ở đáy sông? Tìm mua: Hoàng Hà Quỷ Quan TiKi Lazada Shopee

Hết thảy câu trả lời đều ở trong Hoàng Hà quỷ quan...***

Tuổi thơ ở bờ sông vàng cũng không kéo dài được bao lâu, tôi theo cha hồi hương trở lại thành phố, câu chuyện của bà nội này theo cuộc sống mới của tôi dần dần mơ hồ trong trí nhớ, cuối cùng thì hoàn toàn rơi vào quên lãng, cuộc sống của tôi cứ bình lặng trôi qua như vậy, rất điển hình nhưng không có gì nổi trội.

Sau khi trưởng thành, tôi làm qua không ít nghề, cuối cùng trở thành một thương nhân buôn đồ cổ, lấy việc thu mua và giám định đồ cổ trong trong dân gian làm nguồn sống, cuộc sống bình thản nhưng cũng coi như là dễ chịu.

Tôi học đại học ngành công trình điện lực chuyên ngành là thiết kế lưới điện quốc gia và trạm phát điện, so với nghề nghiệp đang làm hiện giờ không hề có chút liên quan nào. Sở dĩ tôi đến với cái nghề đồ cổ và bán nước bọt này chính là bởi vì vợ trước của tôi.

Vợ trước của tôi mang hai dòng máu Tạng và Hán, cha vợ tôi là người Tạng, từ nhỏ vợ tôi đã tiếp nhận hai nền giáo dục, ngôn ngữ của cô ấy vô cùng phong phú, sau khi trưởng thành, cô ấy làm phiên dịch Tạng ngữ trong cơ quan nhà nước. Cha vợ tôi là dân buôn đồ cổ, đối với việc am hiểu về đồ cổ tương đối lão luyện, tôi ngày ngày buôn chuyện với ông ấy dần dần cũng nảy sinh hứng thú với những thứ này.

Phàm là đã tiếp xúc với đồ cổ, rất hiếm khi tránh khỏi việc hiếu kỳ về giá trị của nó, giá trị cao, nguy hiểm cao nhưng sức hấp dẫn cũng lớn, vì vậy những lúc rảnh rỗi tôi thường cũng kiếm một ít đồ cổ bán lẻ.

Có điều trời thường không chiều lòng người, chúng tôi kết hôn được hai năm, vợ trước của tôi theo một đoàn lãnh đạo khảo sát thăm dò địa chất ở biên giới Trung, Mông. Bọn tôi xa nhau ba năm, cuối cùng cô ấy không trở về, nghe nói đã kiếm được một lãnh đạo tốt hơn tôi, năm trước gửi cho tôi một tờ thông báo li dị, liền sau đó thì không có tin tức gì nữa.

Sau đó đơn vị cải cách biên chế, tôi vì vấn đề tình cảm, liên tục bỏ bê công việc uống rượu, không chịu làm gì, liền bị đá bay xuống cấp cơ bản.

Tôi liền suy nghĩ, ở đó cơ bản đều là học trò của tôi, giờ tôi thành hạ cấp cho bọn họ quản có thể thoải mái được không? Liền bỏ nghề chuyển qua đi biển, hồi đó làm ăn cũng không tốt lắm, thua lỗ không ít, cuối cùng dứt khoát “trăm hay không bằng tay quen” tiến vào con đường đồ cổ này.

Tay nghề xem đồ cổ của tôi có một phần là do tổ truyền, cha vợ dạy cho một chút, tạm đủ dùng. Trước giải phóng gia đình tôi nổi danh nghề buôn bán khoáng vật, có điều thời điểm diễn ra cuộc “Đại cách mạng”, các trưởng bối trong nhà đều bị đấu tố rất thảm, ông cụ nhà tôi mất hết ý chí, không muốn tôi làm nghề này nữa nên mới cho tôi đi học đại học, có điều cuối cùng vẫn không làm sao trốn thoát được số mệnh

Cho nên có lúc mới nói, thứ gọi là số mạng này thật không thể không kính sợ nó.

Mọi chuyện bắt đầu vào tháng 7 năm 1997, chợ đồ cổ Nam Cung.

Chợ đồ cổ Nam Cung khi đó có quy mô rất lớn, người ra vào tấp nập, mấy trăm gian hàng bày la liệt đồ sứ, đồ đồng xanh, đồ gỗ ngút tầm mắt.

Trời nóng nực, người người chen nhau nghẹt thở, tôi chen tới chen lui trong đám người, trong lòng vô cùng khó chịu.

Khi đó tôi đã tới Sơn Tây được hơn một tháng, hàng ngày đều đi dạo ở Nam Cung, cũng không biết vì sao không thể nhìn được món đồ nào thuận mắt, nhìn thấy những người mê đồ cổ sà vào đống hàng giả chọn tới chọn lui, trả giá, tôi liền thấy “tâm phiền ý loạn”.

Trong giới này nghề của tôi được gọi là “Luận đồ cổ”, luận đồ cổ chủ yếu hoạt động ở Thượng Hải, mỗi năm đều có hai tháng ở Sơn Tây, có lúc phải xuôi về vùng nông thôn, có lúc lại lang thang ở chợ đồ cổ trong thành phố, dựa vào mấy phần nhãn lực mà kiếm sống.

Sơn Tây là đất văn hóa hội tụ của Trung Quốc, người Trung Quốc có câu “văn vật dưới đất xem Thiểm Tây, văn vật trên đất phải xem Sơn Tây”. Năm đó Sơn Tây bùng phát dịch vụ ngân hàng tư nhân, người giàu có khắp nơi đổ về, nhiều cổ vật khắp cả nước tụ vào đây, Sơn Tây trở thành trung tâm mua bán đồ cổ.

Trải qua mười năm loạn lạc (Lưu Hà: 10 năm của chế độ quân phiệt hỗn chiến), đồ cổ phần lớn lưu lạc dân gian, cho nên người các nơi đến Sơn Tây đào bảo vật rất nhiều.

Cái gọi là luận đồ cổ thực tế chính là trung gian buôn bán đồ cổ, kiếm chút chênh lệch giá, trên lý thuyết mà nói, bản thân đồ cổ không có giá trị sử dụng thực tế, giá trị của nó thể hiện dựa trên sở thích của người mua, chính vì vậy nên nghề này mới có đất sống. Giá đồ cổ ở Sơn Tây và Thượng Hải có thể chênh lệch tới mười lần.

Lần này tôi từ Thượng Hải tới đây mục đích là kiếm một ít đồ đồng xanh, những năm gần đây phong trào chơi đồ đồng xanh phát triển rất mạnh, nhiều khi còn lấn lướt cả đồ sứ truyền thống. Có điều qua lại mấy chuyến cơ bản vẫn không kiếm được món nào hàng thật, thậm chí hàng giả vừa mắt cũng không có, sau đó đến hỏi mấy chủ sạp hàng quen ở đó, trò chuyện một hồi mới biết chuyện gì xảy ra. Thì ra mấy năm gần đây nhiều nơi nghiêm trị trộm mộ, một tháng nay những thứ tốt đến con chuột cũng không mang ra nổi, nguồn hàng không có, ở đây chỉ trông chờ vào thu mua của người dân có thể được bao nhiêu chứ, đương nhiên là thị trường hàng thật phải tiêu điều rồi.

Tôi suy nghĩ một chút, trong lòng vô cùng tuyệt vọng, sợ rằng trong thời gian ngắn thị trường khó có thể phục hồi, lần này chắc phải tay không trở về Thượng Hải.

Đáng thương cho tôi, lần làm ăn này đã không kiếm được chút “mỡ” (thu nhập không chính đáng) nào thì chớ, danh tiếng còn bị trôi theo dòng nước, sau này muốn buôn bán nước bọt sẽ càng khó khăn hơn.

Đi tới đi lui trong chợ, tôi vẫn không vừa ý được thứ gì, mặt trời đã ngả về tây, trời đã chạng vạng tối. Hiện giờ thì dù cho có đồ tốt tôi cũng không dám xem nữa vì chạng vạng là thời điểm nhãn lực của tôi kém nhất, bây giờ hàng giả nhiều như mây, nhiều quá đâm loạn, đồ đồng xanh làm giả lại cực kỳ giống thật, chỉ cần sơ sót một chút là có thể sạt nghiệp.

Nếu như lúc ấy tôi quyết định xem thêm một chút, hoặc giả là ngồi nơi nào đó nghỉ ngơi một chút thì có thể sẽ hoàn toàn không gặp phải chuyện tiếp sau đây, nhưng số mạng chính là như vậy, nên tôi đã đụng trúng, chính tôi đã đụng trúng.

Tôi ở tại nhà nghỉ bên cạnh chợ Nam Cung, nhà nghỉ kiểu dáng cũng vô cùng phổ thông, đại khái là kinh doanh không có giấy phép, đủ loại người tụ tập ở đây, được cái giá cả phải chăng, có thể sống qua ngày.

Phòng mặc dù chỉ có hơn năm mét vuông, nhưng tôi ở một mình, lại có nhà vệ sinh độc lập, đi tắm, đi cầu cũng không cần phải xếp hàng, phòng này ở đây cũng là loại cao cấp. Lúc này toàn thân tôi đã đàm đìa mồ hôi, liền chẳng để ý gì nữa chui luôn vào phòng vệ sinh độc lập.

Mới đi được mấy bước, bỗng nhiên cảm giác có người phía sau dùng ngón tay chọc vào lưng, tôi tưởng là ăn trộm liền vừa che túi tiền vừa xoay người lại nhìn. Là một lão già khô quắt, tầm khoảng năm sáu chục tuổi, tóc bạc trắng, mặc đồ bảo hộ lao động màu xanh da trời, tay ôm cái túi, mắt lom lom nhìn tôi, dáng vẻ xem chừng là người nghèo khổ

Lão già này trông không giống người trong thành phố, chẳng lẽ là tìm tôi để hỏi đường? Tôi ngạc nhiên nhìn lão hỏi “Có việc gì?”

Lão già làm ra dáng vẻ lấm la lấm lét nhìn chung quanh, khẽ giọng nói với tôi một câu: “Ba răng trong đài, chờ đánh?”

Tôi vừa nghe, lẩm nhẩm trong lòng, cái gì mà đài ghế, lại còn chờ đánh nữa, mẹ kiếp, ông muốn bị đòn hả, liền nói: “Tôi không cần đài ghế băng”

Lão già kia sửng sốt một chút, tựa hồ không hiểu tôi nói gì lại nói: “Ba răng trong đài, chờ đánh, chờ đánh?”

Tâm trạng tôi vốn không tốt, lúc này lại bốc hỏa, liền nói: “Tôi không có đợi đánh, nếu ông muốn chờ đánh thì kiếm đại một người đạp cho một đạp, cái túi của ông không cần phải chờ!”

Lão đầu tử kia gãi đầu một cái, nét mặt hầm hừ, nhìn tôi mấy lần rồi bỏ đi.

“Thần kinh” tôi chửi thầm một câu, đi tiếp về phòng, đến cửa quay đầu nhìn lại, không thấy lão đầu kia đi theo, không biết đã đi đâu rồi.

Trong lòng tôi buồn bực, thổ ngữ của lão già đó không phải tiếng Sơn Tây, cũng không giống những địa phương quanh đây, rốt cuộc lão ta muốn làm gì? Chẳng lẽ là xin cơm sao?

Nếu như là ăn xin cũng kể như lão này vận khí không tốt đụng trúng phải ta tâm tâm trạng đang rất tồi tệ.

Tôi vào phòng trọ, đầu tiên là tắm rửa cho sạch mồ hôi, sau đó xuống tiệm cơm phía dưới ăn cơm, ông chủ tiệm là đồng hương, họ lý, tên Thiếu Gia.

Từ lần đầu tiên đến đây cho tới nay tôi đều ăn ở đây, gã này hoài cổ, đặc biệt cảm thấy hứng thú với đồ cổ, mỗi lần tôi tới hắn đều kiếm tôi trò truyện về đồ cổ, còn không ngừng mang ra một ít cái gọi là bảo bối để tôi xem thử. Cho nên khi vừa ngồi xuống nhìn thấy hai cái chân kẹp hai chai bia đi tới bên cạnh tôi liền biết lão lại tới.

Ngẩng đầu nhìn lên, quả nhiên là lão, đang tóp ta tóp tép nhai đậu phộng, một tay hai chai bia, một tay đĩa vịt nướng mật ong, ngồi đối diện tôi hỏi: “Người anh em, hôm nay thu hoạch như thế nào?”

Tôi nhận bia, thở dài một tiếng nói thu hoạch con khỉ gì, tí rắm cũng không có nữa, riết như vậy cái chiêu bài luận đồ cổ của tôi sớm muộn cũng phải đóng cửa, đến lúc đó kiếm một cái bàn ngồi vỉa hè ở đây bán hàng.

Thiếu Gia cười nói: “Đó là do anh tự chuốc lấy thôi, mắt người Thượng Hải cũng không phải là “Hỏa nhãn kim tinh”, ở đây anh móc ra tám trăm đồng, bắt chước hàng loạt, hoặc là tìm mấy món tàn phẩm (hàng hỏng), đi thành tây tìm mấy sư phụ, làm cũ thành mới, lớn sửa nhỏ, nhỏ sửa thon dài là được, cần gì phải tự mình làm khó mình như thế, tôi cũng không tin nhãn lực người Thượng Hải tốt tới mức có thể nhìn ra được”

Tôi khẽ lắc đầu một cái, cười không đáp, cách của Thiếu Gia ai cũng có thể nghĩ ra được, nhưng làm nghề trung gian đồ cổ này không giống với sạp hàng vỉa hè, một người tới chém một người, một trăm tới chém một trăm, phải lăn lộn bao nhiêu năm mới kiếm được chút niềm tin của khách hàng, nếu không ai dám lấy hàng của anh? Nếu lừa người ta một lần, ngày sau cũng đừng nghĩ đến chuyện hành nghề nữa.

Thiếu Gia nhìn tôi không nói gì, biết tôi không đồng ý với cái nhìn của hắn ta, nói: “Ai, anh đừng cười, đây là lời thực lòng của tôi, anh nhìn thời cuộc này, sớm cũng đóng cửa mà muộn cũng đóng cửa, anh ngại gì mà không kiếm một khoản rồi đóng cửa bỏ nghề luôn, cái nghề luận đồ cổ của anh sớm muộn cũng chết đói, anh nên đổi nghề sớm thì hơn.

Luận điệu của Thiếu Gia càng lúc càng nghe không nổi, tôi khoát tay nói: “Mẹ kiếp đừng có nói dóc, anh không phải người trong nghề, biết gì mà ý kiến, tôi làm việc có nguyên tắc”

Thiếu gia a một tiếng, nói: “Nguyên tắc? Làm đồ cổ còn có nguyên tắc cái mẹ gì, thua là nghèo, chẳng có cách nào đâu.”

Thiếu gia chế giễu tôi cũng là bình thường thôi, người ta thường nói “Loạn thế hoàng kim, thịnh thế đồ cổ” (thời loạn thì cần vàng bạc, thời hưng thịnh cần đồ cổ), đầu năm nay những thương nhân làm đồ cổ, kém cỏi nhất cũng kiếm được vạn tiền, nhưng mà tôi thì toàn thân sạch sẽ, trên người không dư được nửa lượng, được đồng nào tiêu sạch đồng đó, cơ thể cũng không phải là khỏe mạnh gì. Tình trạng này cũng là do nguyên tắc của tôi mà ra. Tôi mua hàng tại sạp vỉa hè, chỉ cần đồ tốt tôi không trả giá, tôi cũng không bán đồ giả, nên tiền lời lãi cũng chẳng được là bao.

Nhắc đến trong lòng đau khổ, nghĩ lại vụ làm ăn đồ đồng xanh kia không khỏi bứt rứt.

Đang nói bỗng nhiên có một người từ cửa đi vào, Thiếu Gia thấy khách đương nhiên là mở mồm định mời mọc, liền đứng dậy hỏi: “Ông chủ, ăn chút gì?”

Thiếu gia thấy khách gọi ít đồ cũng không thèm qua chào hỏi, đi vào nhà bếp dặn dò rồi lại đi ra tiếp tục chuyện phiếm với tôi. Tôi liền hạ giọng chỉ chỉ đầu đũa vào người nọ, hỏi: “Người này là người ở đâu, anh nghe ra không?”

“Sơn Tây đó, khẩu âm Sơn Tây” Thiếu Gia cũng thấp giọng: “Anh ở Sơn Tây cũng không ít thời gian mà nghe giọng Sơn Tây cũng nhận không ra là sao?”

Tôi khẽ quay đầu lại một chút, nhìn trộm người kia, không biết lão đầu đó đang nghĩ gì, bụng nói Sơn Tây, vậy vừa rồi những lời lão ta nói là tiếng Sơn Tây sao, không thể, mặc dù phần lớn thời gian tôi đều ở ngoại thành, nhưng giọng Sơn Tây thì không thể nào tôi nghe không hiểu được, vậy chờ đánh chờ đánh? Chẳng lẽ là thổ ngữ mới phát minh của Sơn Tây sao?

Thiếu Gia vỗ vỗ tôi mấy cái hỏi: “Anh làm sao thế? Bị đồ cổ làm cho phát điên rồi à, ngay cả lão đầu cũng thích sao?”

Tôi vừa nghe liền bật cười, quay đầu nói: “Nói vớ vẩn gì thế? Tôi cảm thấy có chuyện rất kỳ quái…”Vừa nói đột nhiên nghĩ ra Thiếu Gia cũng là người gốc Sơn Tây, lập tức hỏi: “À, đúng rồi, anh là người Sơn Tây gốc, tôi hỏi anh, trong thổ ngữ Sơn Tây- chờ đánh chờ đánh- là ý gì?”

” Chờ đánh chờ đánh?” Thiếu gia khẽ nhướng mày, sắc mặt cũng biến đổi: “Anh nghe thấy lời này ở đâu?”

“Sao thế?”Tôi hỏi, nhìn sắc mặt hắn biến đổi, tôi liền ngạc nhiên.

Thiếu gia hạ thấp giọng: “Đây là tiếng lóng của dân nam ba, trước kia tôi có nghe mấy lão già nói ở nhà khách, tôi cũng nghe không hiểu đi hỏi ông lớn nhà tôi, là ông lớn nói với tôi”

Tôi ồ lên một tiếng, cả kinh trong lòng, quay đầu nhìn lão già kia lần nữa, trong lòng nói, chẳng lẽ lão già tướng mạo xấu xí kia lại là một nam ba tủ?

Nam ba tử là từ mà người dân khu vực Sơn Tây gọi một loại dân trộm mộ đặc thù, tôi cũng từng nghe người nhà nói qua, nam ba tử rất thần bí. Sơn Tây cổ mộ cũng rất nhiều, hơn nữa Sơn Tây đa số là mộ lớn, dễ dàng kiếm được bánh chưng. Trong thiên hạ sống nhờ thi thể có “Hai Tây”, đầu tiên là Thiểm Tây, thứ hai chính là Sơn Tây, nam ba tử ở Sơn Tây kiếm sống, thủ đoạn dời đất, xuyên núi so với các địa phương khác cao minh hơn rất nhiều.

Theo lời tương truyền tương đối phổ biến trong dân gian thì nam ba tử đều đi hai người cùng nhau, một già một trẻ, mặc áo dài, đội mũ nỉ, còn bày sạp coi bói cho người, một người còn là thầy phong thủy, bọn họ đương nhiên không bao giờ tự mình đào lỗ trộm mộ, bọn họ thường xuyên sử dụng thủ đoạn là “nhận mắt”, tức là chỉ điểm cho kẻ gian trộm mộ những thứ mà chúng muốn tìm, bọn họ có thủ đoạn đặc thù, có thể dọn đất xuyên núi, biết cổ mộ ở địa phương nào, giá thị trường tốt nhất tại thời điểm đó, mười lăm đồng đại dương một lần, nhìn chung quanh một cái, dùng cây quạt một chút, chấm liền đi, bảo không thì liền không.

Chỉ có trong một số tình hình đặc thù, ví dụ như gặp phải khi thất thế hoặc là đụng phải cổ mộ được bố trí vô cùng cao minh bọn họ mới đích thân xuống đất, hành sự cũng như nấu cơm, gầy được nồi cơm chính là đạo thành, nồi cơm không gầy được, đi cũng vô ích. (* nguyên văn: hành thoại trong kêu chi nồi, nồi chi đứng lên, chính là đạo thành, nồi chi không đứng lên, chính là đi vô ích)

Nam ba tử trộm mộ rất coi trọng quy củ, chưa bao giờ đi cả bầy, đều là cậu và cháu tiến hành, khi trộm mộ, cậu bên ngoài cháu bên trong, vào mộ trước phải rửa tay, đốt hương chín tấc, trước khi hương tắt người phải đi ra. Bọn họ cũng giống người Thát ở quan ngoại, làm việc vào thời điểm không có tiếng người, có riêng một bộ tiếng lóng. Bộ này không phải dân trong nghề nghe căn bản không thể hiểu, hơn nữa để học được tiếng này nghe nói phải gia nhập vào nam ba tử, nếu không gia nhập thì cho dù có người dạy cũng học không được, có chút cảm giác “Tây Tạng thiên thụ thi nhân” (* Điển tích: Một số người ở phải qua một cơn bệnh nặng sau, đột nhiên có thể có khả năng hát tụng mấy triệu chữ thơ Tây Tạng.)

Tôi hỏi Thiếu Gia: “Như vậy chờ đánh chờ đánh? Có nghĩa là gì? Anh có biết hay không?”

Thiếu gia lắc đầu: “Tôi cũng không phải là nam ba tử, làm sao có thể biết… Gì thế, lão đầu tử này, chẳng lẽ là…”

Tôi gật đầu, mang chuyện vừa rồi ở nhà nghỉ Nam Cung kể cho anh ta một lượt, Thiếu Gia vừa nghe, ánh mắt liền sáng lên: “Tôi nói này, lão Hứa, vận khí của anh không tệ chút nào đâu, sự nghiệp đồng xanh của anh có thể trông cậy vào chỗ này rồi”

Tôi vừa nghe liền ngạc nhiên: “Sao lại nói như vậy?”

“Nam ba tử vào thành, trên người chắc chắn có đồ tốt, không phải ai nam ba tử cũng đến tìm, họ chỉ tìm những người biết quy củ làm ăn, vừa thấy anh hắn lại theo đến cửa Nam Cung, đoán chừng là có đồ phải ra tay.” Thiếu Gia nheo mắt một chút, thấy lão đầu kia đang ôm chặt cái túi liền nói: “Anh nhìn cái túi nhỏ kia đi, tràn đầy tinh khí, không sai, mối hàng ngon tới rồi đó”

Tôi nửa tin nửa ngờ, làm gì có chuyện tốt như vậy, làm nghề này chưa có chuyện lừa gạt nào là tôi chưa từng thấy qua, lần trước tôi gặp một gã nông dân họ Ba ở Hà Nam, làm ra vẻ hiểu rộng biết nhiều, hắn cào từ trong bùn ra được một cái chén liền muốn bán hai mươi đồng tiền. Tôi cầm cái chén nhìn qua một cái rồi nhìn qua trên đầu hắn một chút, con mẹ nó còn học trải chuốt như giới thượng lưu, sau đó lục soát trên người hắn một chút, trên người kẻ toàn mùi bùn đất như hắn lại có cuống vé Nhà khiêu vũ Thượng Hải Đại Thế Giới.

Giới lừa gạt đồ cổ ai cũng tỏ ra thật thà biết điều, bởi vì người làm đồ cổ phần lớn đều có lòng tham, luôn hi vọng có thể nhặt được bảo bối mà người khác sơ sót bỏ quên, tướng mạo hiền lành biết điều, dễ làm cho người ta buông lỏng cảnh giác.

Nhìn bộ dạng Thiếu Gia kia, nếu không phải đã rượu thịt cùng hắn mấy năm rồi thì tôi còn cho rằng mẹ kiếp lão cùng với lão đầu kia thông đồng cùng diễn màn “kẻ tung người hứng” với tôi.

Vẫn còn đang hoài nghi, Thiếu Gia đã gọi người cầm chai rượu lớn tới, kín đáo đưa cho tôi nói: “Nam ba tử ngày ba bữa rượu, cầm cái này, đừng nói Thiếu Gia ta không giúp đỡ bạn bè, ngày sau phát tài rồi đừng quên nhau, đi nhanh! Chớ để cho người khác chặn mất mối”

Tôi nhẹ giọng nói với Thiếu Gia: “Được rồi, năm nay tụi lừa gạt nhiều quá, chúng ta cũng bớt chọc những người như vậy, số nghèo thì vẫn nghèo, không sao”

Thiếu Gia quay đầu hướng khác, cười ha hả: “Xem anh kìa, cho nên mới nói không có lá gan giết người thì cũng bị người khác giết, lạc hậu quá quá rồi”. Vừa nói vừa lấy bia, rượu trắng kín đáo đưa cho tôi: “Anh nhìn kia, mười tên Hà Đông đang ở bên trong, anh còn do dự quái gì nữa?”

Tôi động não một chút, nếu tên kia là kẻ lừa đảo thì cùng lắm ta cũng chỉ sập tiệm, mà nếu không phải thì đó chính là trời cho ta một cơ hội phát tài, ta còn muốn từ chối sao, nếu thực trên người lão đầu kia có đồ tốt, bị người khác hớt tay trên mất, có phải ta sẽ hối hận cả đời không.​Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nam Phái Tam Thúc":Luật Hấp Dẫn - Thu Hút Tiền Bạc, Tình Yêu Và Hạnh PhúcĐại Mạc Thương Lang (Tập 2)Hạ Tuế Thiên 2013Hoàng Hà Quỷ QuanNgô Gia Toái Niệm

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hoàng Hà Quỷ Quan PDF của tác giả Nam Phái Tam Thúc nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Gót Sắt (Jack London)
Năm 1907, Jack London cho ra đời cuốn tiểu thuyết Gót sắt. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học Mỹ đề cập đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Mỹ. Đây là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng thể hiện những tư tưởng ước mơ xã hội của ông. Nhà văn đã tự đặt mình là con người sống vào thế kỷ XXVI, lúc loài người đã trải qua bốn thế kỷ đại đồng và sau khi đã đập tan cái gót sắt là sự áp bức con người. Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London được sáng tác theo hình thức viễn tưởng, thể hiện lòng khao khát tự do, công lý và niềm tin sâu sắc vào tương lai tất thắng của cách mạng vô sản trên toàn thế giới.***Jack London là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild), Gót sắt (Iron Heel), Martin Eden, Tình yêu cuộc sống (Love of Life), Nanh trắng (White Fang) và hơn 50 tác phẩm khác. Các tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và cho tới nay vẫn được độc giả tìm đọc. Jack London năm 1876 ở thành phố San Francisco, và mãi ra đi vào ngày 22/11/1916 khi mới tròn 40 tuổi. Năm 1896, do mong muốn làm giàu nhanh chóng, ông đã theo chân những người tìm vàng đến vùng Krondike thuộc Canada và đã nếm đủ mùi vất vả. Tại đây, Jack London đã được nghe những kẻ tha phương kể lại những câu chuyện về đói ăn, mất của và về những con chó trung thành. Tìm mua: Gót Sắt TiKi Lazada Shopee Tất cả những mẩu chuyện này đã ám ảnh Jack London và ông đã viết thành những câu chuyện danh tiếng như: Đứa con của chó sói (viết năm 1902), Răng nanh trắng (1906), Ánh sáng ban ngày cháy đỏ (1910) và đặc biệt là tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) đã gây được tiếng vang lớn, và từ đó Jack London đã có thể sống được bằng nghề viết truyện.***Gió mùa hè hiu hiu lay động những cây thông khổng lồ và sông Wild-Water vỗ sóng nhịp nhàng vào những tảng đá xanh rêu. Bướm lượn dưới nắng và bốn bề tiếng ong bay vù vù như ru ngủ. Yên tĩnh quá. Thái bình quá. Và tôi ngồi đây, lo lắng, bồn chồn. Chính cái yên tĩnh làm cho tôi bồn chồn. Nó hư hư thực thực thế nào ấy. Khắp thế giới yên tĩnh, nhưng đó là cái yên tĩnh trước cơn giông tố. Tôi lắng tai nghe và tất cả các giác quan của tôi cũng căng lên chờ đón dấu hiệu của cuộc đại biến sắp nổ ra 1. Phải, miễn nó đừng nổ non! Miễn nó đừng bùng ra sớm quá! Tôi bồn chồn cũng không có gì lạ. Tôi suy nghĩ, suy nghĩ liên mien, và không thể đừng suy nghĩ. Tôi vật lộn với cuộc sống đã từ lâu, đến nỗi thấy yên tĩnh là tức thở, không chịu được. Và tôi không thể không nghĩ đến trận cuồng phong chết chóc và tàn phá sắp sửa nổi lên. Trong tai tôi vang lên tiếng kêu gào của những người gục xuống, và tôi có thể nhìn thấy, cũng như tôi đã từng nhìn thấy 2 da thịt mơn mởn của con người bị dập vùi, tan tác, linh hồn con người bị giằng khỏi những tấm thân đầy kiêu hãnh và ném cho Thượng đế. Khốn khổ thay nhân loại chúng ta, muốn đạt đến mục đích của mình phải cố giết chóc, tàn phá, để đem lại cho trái đất một nền hoà bình và hạnh phúc bền vững. Vả chăng, tôi chỉ có một mình. Lúc nào không nghĩ đến những điều tất phải xảy đến thì tôi nghĩ đến những điều đã qua, những điều không còn nữa. Tôi nghĩ đến con Đại bàng của tôi trước kia vẫn dang đôi cánh không biết mỏi ra vùng vẫy giữa trời xanh để bay về phía lí tưởng chói lọi của tự do nhân loại. Lí tưởng đó chính là mặt trời của anh. Tôi không thể ngồi yên để chờ đợi cái biến cố lớn lao do bản thân anh làm ra, mặc dầu anh không còn sống để nhìn thấy nó. Bao nhiêu năm anh sống làm người thì bấy nhiêu năm anh cúc cung tận tuỵ vì nó. Anh đã hiến cả đời anh cho nó. Nó là sự nghiệp của tay anh. Chính anh đã làm ra nó 3. Cho nên trong thời gian chờ đợi lo lắng này, tôi sẽ viết về chồng tôi. Có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh, một con người cao quý dù ca ngợi bao nhiêu vẫn chưa đủ. Tâm hồn anh bao la như biển cả. Và khi tình yêu của tôi đã gột hết lòng vị kỉ thì tôi tiếc nhất là anh không còn sống để chứng kiến buổi bình minh sắp ló ra. Chúng tôi không tài nào thất bại được. Anh đã xây dựng vững chãi quá, chắc chắn quá rồi. Thảm hại thay cái Gót sắt đang dận trên ngực nhân loại! Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ bị nhổ bỏ. Khi nào hiệu lệnh tung ra, lao động khắp thế giới sẽ dấy lên tầng tầng lớp lớp. Chưa bao giờ có một việc như thế trong lịch sử loài người. Sự đoàn kết của lao động đã được đảm bảo, và lần đầu tiên sẽ nổ ra một cuộc cách mạng quốc tế bao trùm cả thế giới 4. Như các bạn đã thấy, óc tôi nghĩ miên man về sự kiện sắp xảy ra. Tôi sống miệt mài với nó, sống ngày, sống đêm, sống rất lâu, đến nỗi nó luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi không thể nghĩ đến chồng tôi mà không nghĩ tới nó. Chồng tôi là linh hồn của nó, làm sao trong tư tưởng tôi có thể tách rời chồng tôi với nó được? Như tôi đã nói, có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh. Ai cũng biết anh đã vì tự do mà chịu nhiều gian truân, đau khổ. Anh đã làm việc cực nhọc đến thế nào, đã đau khổ ghê gớm như thế nào, tôi biết hết. Vì tôi đã sống bên anh suốt hai mươi năm sóng gió vừa qua và tôi biết rõ lòng kiên trì, sự cố gắng không mệt mỏi và sự tận tuỵ không bờ bến của anh đối với Sự Nghiệp chung. Anh đã chết cho Sự Nghiệp, mới cách đây hai tháng. Tôi sẽ cố viết giản dị và kể ra đây Ernest Everhard đã bước vào đời tôi như thế nào - thoạt tiên, tôi gặp anh ra sao, vì duyên cớ gì tôi đã thành một phần của chính mình anh, và anh đã gây cho đời tôi những biến đổi ghê gớm như thế nào. Như vậy, các bạn có thể nhìn anh qua mắt tôi, và biết về anh cũng như bản thân tôi - biết hết, trừ những chuyện riêng của vợ chồng chúng tôi. Tôi gặp anh lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1912. Anh là khách của ba tôi và hôm ấy anh đến ăn cơm ở nhà tôi, tại thành phố Berkeley. Có thể nói, ngay từ lúc đầu, tôi không có cảm tình với anh. Ngoài anh ra, còn nhiều khách khứa khác. Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách chờ mọi người đến đông đủ thì anh vào, trông đến là thảm hại. Tối hôm ấy là tối họp mặt của các mục sư - ở nhà, ba tôi 5 vẫn thường gọi thế. Ngồi giữa các nhà tu hành, Ernest nhất định là lạc lõng. Trước hết, quần áo anh không vừa người anh. Anh bận một bộ đồ may sẵn bằng vải sẫm, xộc xà xộc xệch. Trong thực tế, chẳng có thứ quần may sẵn nào mà anh mặc vừa. Tối hôm ấy, mà bao giờ cũng thế: các bắp thịt của anh hằn lên mặt vải. Vai anh u lên, và cái áo vét-tông anh bận dăn dúm cả ở giữa hai vai. Cổ anh banh ra, chắc nịch: giống hệt cổ những kẻ đi đánh nhau ăn giải 6. Tôi nghĩ bụng: Té ra nhà triết học xã hội, nguyên làm nghề bịt móng ngựa, mà ba tôi đã phát hiện được, ngài là như thế đấy. Vai u thịt bắp như thế, thật đúng quá đi rồi. Tôi liền liệt anh vào hạng dị nhân và coi anh như một lão Blind Tom 7 của giai cấp công nhân. Rồi anh lại bắt tay tôi nữa kia chứ! Anh xiết mạnh quá, chặt quá, nhất là anh nhìn tôi một cách táo tợn bằng cặp mắt đen lay láy - táo tợn quá, theo ý tôi. Các bạn cũng thừa hiểu tôi là sản phẩm của hoàn cảnh và khi ấy bản năng giai cấp của tôi rất mạnh. Giá một người đàn ông thuộc giai cấp tôi cũng táo tợn như thế thì không thể nào tha thứ được. Tôi đành cúi nhìn xuống đất. Lúc anh đi khỏi, tôi nhẹ cả người, quay lại nhìn đức Giám mục Morehouse. Đức Giám mục là một người tôi rất mến, một người đứng tuổi, hiền hoà, nghiêm chỉnh, tướng mạo và từ tâm hệt như đức Chúa. Chẳng những thế, Người còn là một nhà học giả. Nhưng cái táo tợn mà tôi tưởng là tự phụ đó lại là đầu mối cho tôi tìm hiểu bản chất của Ernest Everhard. Anh giản dị, ngay thẳng, chẳng biết sợ cái gì và không thích mất thì giờ vào việc xã giao. kiểu cách. Mãi về sau, anh giải thích: “Em rất hợp ý anh, làm sao anh lại không nhìn thẳng vào người mà anh ưa thích?” Tôi đã bảo, anh chẳng sợ một cái gì. Anh là người bản chất quý phái, mặc dầu anh đứng trong phe thù địch của bọn quý phái. Anh là một siêu nhân, một “Con vật tóc vàng” như Nietzsche 8 đã miêu tả, và cộng thêm vào đó, anh mang những tư tưởng dân chủ cháy rực trong người. Vì mải tiếp những người khác, và cũng vì sẵn có ấn tượng xấu, tôi quên khuấy mất nhà triết học của giai cấp công nhân, mặc dầu tôi có chú ý đến anh một hai lần trong bữa ăn - đặc biệt là lúc anh long lanh đôi mắt nghe các vị mục sư nói chuyện. Tôi nghĩ bụng: anh là người vui tính và tôi hầu như tha thứ cho cách ăn mặc của anh. Nhưng thời gian cứ đi, bữa ăn cứ tiếp tục, anh vẫn không buồn nói nửa lời. Trong khi ấy, các vị mục sư bàn luận miên man về giai cấp công nhân, về quan hệ của nó với Nhà thờ. Nhà thờ đã làm gì và đang làm gì cho nó. Tôi nhận thấy Ernest không nói làm cho ba tôi không bằng lòng. Nhân một lúc im lặng, ba tôi yêu cầu anh phát biểu, nhưng Ernest nhún vai: “Tôi chẳng có điều gì muốn nói cả” và lại ngồi ăn hạnh đào muối. Nhưng ba tôi không chịu. Một lúc sau ba tôi bảo: - Chúng ta có một người giai cấp công nhân ở đây. Tôi tin chắc người đó có thể trình bày các việc theo một quan điểm mới, vừa hay lại vừa bổ ích. Tôi muốn nói ông Everhard. Những người khác tỏ vẻ thích thú một cách lịch sự và giục Ernest tuyên bố những quan điểm của mình. Thái độ của họ hết sức khoan dung, hoà nhã: đúng là thái độ của những kẻ đỡ đầu. Tôi thấy Ernest cũng nhận ra điều ấy và anh lấy thế làm khoái lắm. Anh chậm rãi nhìn bốn xung quanh và mắt anh sáng lên một cách ranh mãnh. - Tôi quả thật không quen với những cuộc tranh luận tao nhã của Giáo hội, - anh bắt đầu được mấy lời đã ngập ngừng ngay, vẻ mặt khiêm tốn và do dự. Họ giục: “Ông cứ tiếp tục đi!” và bác sĩ Hammerfield bảo: “Chân lí dù ở miệng ai nói ra chúng tôi cũng đều không ngại. Miễn là nó trung thực”. - Vậy ra ngài tách rời trung thực khỏi chân lí ư? - Ernest cười hỏi rất nhanh. Bác sĩ Hammerfield luống cuống trả lời: - Giỏi đến đâu cũng phải có lúc nhầm, ông bạn trẻ ạ. Người giỏi nhất trong chúng ta cũng phải có lúc nhầm. Ernest bỗng thay đổi hẳn. Anh đã thành một người khác. - Vâng, được, - anh đáp. - Và tôi xin phép bắt đầu bằng câu này: là các ngài nhầm tuốt. Các ngài không biết gì về giai cấp công nhân, không biết một tí gì hết. Khoa xã hội học của các ngài sai bét và vô giá trị, cũng như phương pháp suy luận của các ngài. Những lời anh nói chính lại không nặng bằng cách anh nói. Tôi giật cả mình trước hết vì giọng nói của anh. Nó cũng táo tợn không khác gì hai con mắt anh. Nó là một tiếng kèn chiến đấu và nó làm cho toàn thân tôi rung lên. Bàn tiệc xao động. Cái không khí đều đều buồn tẻ bị phá vỡ. - Ông bạn trẻ tuổi! Phương pháp suy luận của chúng tôi có chỗ nào sai lầm và vô giá trị ghê gớm đến thế kia, thưa ông? - Bác sĩ Hammerfield hỏi, vẻ khó chịu thoáng hiện ra giọng nói và cách phát biểu của ông. - Các ngài là những nhà siêu hình học. Các ngài có thể dùng siêu hình học để chứng minh bất cứ một cái gì, và xong thì mỗi nhà siêu hình học lại có thể tuỳ thích chứng minh rằng các nhà siêu hình học khác là sai. Các ngài là những kẻ vô chính phủ trong lĩnh vực tư tưởng. Các ngài là những nhà chế tạo ra vũ trụ. Điên rồ ơi là điên rồ! Mỗi ngài sống trong một vũ trụ riêng, do trí tưởng tượng riêng và những sở thích riêng của mình tạo nên. Các ngài không biết gì về cái thế giới thực các ngài đang sống, và tư tưởng điên loạn của các ngài hoàn toàn không có chỗ đứng trong thực tại.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jack London":Tiếng Gọi Nơi Hoang DãCô Gái Băng TuyếtGót SắtJack London Truyện Ngắn Chọn LọcJack London Tuyển TậpMartin EdenMối Thù Thiên ThuTừ Bỏ Thế Giới VàngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gót Sắt PDF của tác giả Jack London nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Góc Khuất Đàn Bà (Huyền Trang Bất Hối)
Những người xuất hiện trong “Góc khuất đàn bà”, liệu ai là người hạnh phúc nhất, hoặc liệu những người đàn bà trong cuốn sách này, ai là người đau khổ nhất? Sinh ra là đàn bà, là phụ nữ, từ những tháng ngày tuổi trẻ vô lo, rồi đến khi trưởng thành mang trong lòng bao nghĩ suy hay đến khi trở thành một người đàn bà thuần thục lại đem trong mình là hàng trăm những âu lo dang dở. Từ một bí mật nhỏ nhoi, dần dần lại trở thành một góc khuất sâu thẳm. Từ một giọt nước mắt, lại trở thành một nỗi khổ triền miên. Sau cùng, trong “Góc khuất” của đàn bà, bao nhiêu là đau khổ do đàn ông tạo ra, hay là do tự mình tạo nên, ai biết? Rốt cuộc, là đàn ông phụ họ, hay họ phụ chính mình?***Là đàn bà, sinh ra chính là mang theo vận khổ. Khổ từ khi còn là một đứa trẻ luôn canh cánh nỗi lo “phận vịt trời”, khổ khi lớn lên mang theo nỗi đau của cuộc tình đổ vỡ và khổ khi phải chính mình che giấu những đau thương cuộc đời đằng sau góc khuất. Tìm mua: Góc Khuất Đàn Bà TiKi Lazada Shopee Con người ai cũng có bí mật không muốn cho người khác được biết. Điều đó ta đều hiểu, bởi căn bản đó là những gì của riêng bạn không muốn nói cho ai, không muốn được sẻ chia cùng ai, cũng chẳng muốn ai đào bới, gặng hỏi bí mật ấy ra. Nhưng bạn có biết, đàn bà, họ mang nhiều bí mật hơn bạn tưởng rất nhiều. Không phải là những gì vụng trộm họ cần che giấu, mà đó chỉ là những nỗi đau họ không muốn ai biết, không muốn ai nhìn thấy, không muốn mình yếu đuối. Họ đang cố khoác cho mình một bộ cánh đại bàng lên người con chim sẻ để mạnh mẽ vươn lên trời cao. Là một người chồng tâm lý có lẽ bạn nên sẻ chia những bộn bề, thấu hiểu người nỗi lòng người phụ nữ mình yêu. Là một thằng con trai, nên hiểu rõ trái tim người con gái nắm tay mình hằng ngày. Là một người con gái, một người phụ nữ nếu có quá nhiều góc khuất trong nỗi lòng, thì hãy tìm đọc cuốn sách Góc khuất đàn bà để nỗi lòng nặng trĩu của mình được sẻ chia qua những trang sách nhé! Góc khuất đàn bà chính là một trong ba gia tài lớn nhất của Huyền Trang Bất Hối. Bên cạnh “Cốt cách phụ nữ” hay “Phụ nữ vạn người mê,” lại một lần nữa ta nhìn thấy ngòi bút sắc sảo đến từng câu chữ của Huyền Trang trong cuốn sách này. Là một nhà văn, trước giờ quen viết những tác phẩm thay lời tâm sự của phụ nữ tế nên không lạ khi Góc khuất đàn bà vừa ra mắt đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ bạn đọc. Trước giờ phụ nữ có cái tật là che giấu rất giỏi, những gì là của riêng họ thì sẽ chẳng bao giờ có người thứ hai biết nếu như họ không nói hay không thể hiện ra. Thế mà lần này Huyền Trang Bất Hối lại đục khoét tất cả những góc khuất chung của những người phụ nữ lên. Cuốn sách như đang muốn đào bới tất cả những nỗi đau đã chôn vùi từ lâu trong bạn. Đào thật sâu những gì bạn cất giữ thật kĩ, thế rồi, để tuyệt tình đâm một nhát thật sâu vào nỗi đau ấy, “để rồi đến khi cuốn sách khép lại, vết thương ấy sẽ dần lên da non và lành lại, chứ không phải ngày ngày âm ỉ chảy máu hay nhói lòng mỗi khi đêm về” Đọc Góc khuất đàn bà ta như được trút bỏ hết nỗi lòng của mình bấy lâu, những gì bạn che giấu, những gì bạn khó nói đều được cuốn sách này nói hộ, rất chân thành và thật tâm. Là một người con gái, là một người phụ nữ dường như tôi luôn cả thấy mình bị bó hẹp trong một giới hạn nào đó, luôn bị thứ mang tên chung là “đàn ông” khống chế cảm xúc, suy nghĩ và tâm tư cho đến khi tìm được tản văn này của Huyền Trang Bất Hối. Giờ tôi thực sự đang sống chính cuộc sống của mình, đối diện với nỗi đau và đã ngưng coi ai đó là cả thế giới.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Huyền Trang Bất Hối":Cốt Cách Phụ NữGóc Khuất Đàn BàPhụ Nữ Vạn Người MêTuyển Tập Truyện Ngắn Huyền Trang Bất HốiĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Góc Khuất Đàn Bà PDF của tác giả Huyền Trang Bất Hối nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gỗ Mun (Ryszard Kapuściński)
Trước hết là cái nhìn: Ryszard Kapuściński. Đó là một cái nhìn luôn luôn độc đáo và thấu suốt, cho dù đối tượng sự quan sát của ông có là gì, và cho dù không mấy khi ông thích phân tích dài dòng. Nhất là khi đối tượng ấy là châu Phi, một lục địa dường như rất hợp với tâm tính ông, thì Kapuściński nhìn thấy cả những gì sâu xa, nhỏ bé nhất của nơi đây. Và sau đó là cách chạm vào châu Phi: thông qua sự mô tả cuộc đối đầu nghẹt thở với một con rắn, Kapuściński làm sống lại sự rung động của tâm hồn cả một châu lục, trong đó có sự mãnh liệt và có hiểm nguy tàn khốc. Rồi tất nhiên ta phải nói đến một tài năng văn chương hiếm thấy, hiện ra tràn ngập những trang viết của thông tín viên Ba Lan kiệt xuất này. Tất cả cộng lại để tạo nên một Gỗ Mun như tác phẩm không thể không nhắc tới về châu Phi thế kỷ XX.***Lời khen tặng dành cho Gỗ Mun: “Giống như Gabriel García Márquez là ông hoàng đen vĩ đại của tiểu thuyết hiện đại, Kapuściński là vị phù thủy kiệt xuất của phóng sự.”- John Le Carré “Ryszard Kapuściński là một ví dụ hiếm hoi trong nền văn hóa của chúng ta về một nhà văn người-Ba-Lan-toàn-cầu. Ông, một công dân thế giới, luôn luôn chống lại việc dựng lên các rào ngăn đối với Người Khác, đóng sập cửa trước mặt họ. Dường như ông muốn nói: bài ngoại là căn bệnh của những kẻ khiếp nhược, bị mặc cảm về sự thấp hèn hành hạ, sợ hãi ý nghĩ đến lượt họ sẽ phải soi mình trong văn hóa của Người Khác.”- Adam Michnik Tìm mua: Gỗ Mun TiKi Lazada Shopee “Chúng ta đang sống trong một thế kỷ nhiều thách đố nhất trong lịch sử thế giới, bản chất thực của nó còn là một bí ẩn tối tăm. Chúng ta rất cần những nhà giải mã như Ryszard Kapuściński.”- Salman Rushdie “Tôi nghĩ đến những cuốn sách ông đã viết với lòng biết ơn sâu sắc, và nghĩ đến những cuốn sách ông còn chưa kịp viết với nỗi buồn sâu sắc. Một nhà văn lớn, một con người cao quý, một người lữ hành không mệt mỏi qua thế giới đầy quyến rũ nhưng mãi luôn luôn bất an của chúng ta.- Wisława Szymborska “Tôi không biết bất cứ ai có viết với sự thấu cảm đến thế về Thế giới Thứ ba. Mỗi lần được tin giải Nobel được trao cho một người khác, tôi lại cảm thấy thất vọng. Tôi luôn luôn chắc chắn rằng Kapuściński sẽ nhận được giải thưởng này.”- Tomas Venclova “Ryszard Kapuściński đã viết một tác phẩm để đời: cuốn sách về châu Phi với nhan đề Gỗ Mun. Cuốn sách của Kapuściński đặt chúng ta trước nhiều câu hỏi. Đó là những câu hỏi cốt yếu. Cuộc sống là gì, ý nghĩa của nó, đạo đức, tội ác, lòng kiêu hãnh và khiêm nhường, sự phản kháng hay chấp nhận số phận? Chúng ta vẫn luôn đặt ra những câu hỏi ấy trong văn hóa của mình, nhưng những lời giải đáp và phản ứng của chúng ta lại hoàn toàn khác.”- Helena Zaworska “Không trực tiếp, nhưng rất rõ ràng, Kapuściński luận chiến với hai lối nghĩ dĩ Âu vi trung rập khuôn về châu Phi: với khuôn mẫu khiến người ta nhìn châu Phi như một châu lục của những người man rợ thấp kém hơn về văn hóa, khó hiểu (vì chẳng đáng được hiểu); và với huyền thoại hậu thực dân đầy cảm tính (dù chỉ như trong Xa mãi Phi châu của Karen Blixen) nhìn thấy ở châu Phi thiên đường đã mất.”- Piotr Bratkowski***Trước hết là ánh sáng đập vào mắt. Khắp nơi là ánh sáng. Khắp nơi chói lòa. Khắp nơi là nắng. Mới ngày hôm qua, London mùa thu lướt thướt nước mưa. Máy bay lướt thướt nước mưa. Gió lạnh và âm u. Còn ở đây, từ sáng sớm cả sân bay ngập trong nắng, tất cả chúng tôi ngập trong nắng. Thời trước, khi người ta đi bộ du hành qua thế giới, cưỡi ngựa hay đi thuyền, cuộc hành trình làm họ thích nghi dần với các thay đổi. Các hình ảnh của trái đất từ từ trôi qua trước mắt họ, sân khấu của thế giới quay chầm chậm từng chút một. Hành trình kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Con người có thời gian để thích nghi với môi trường khác, với quang cảnh mới. Khí hậu cũng thay đổi từng bước, qua các giai đoạn. Trước khi một người du hành từ châu Âu lạnh lẽo đến được xích đạo nóng bỏng, anh ta đã trải qua cái ấm áp dễ chịu của Las Palmas, cái nóng nực của Al-Mahara và địa ngục Quần đảo Cape Verde. Ngày nay, những giai đoạn ấy chẳng còn lại chút gì. Máy bay đột ngột bứt chúng ta ra khỏi tuyết và băng giá rồi ngay ngày hôm đó ném ta vào vạc dầu nhiệt đới nóng rực. Đột nhiên, chỉ vừa mới dụi mắt là ta đã ở trong địa ngục ẩm ướt. Ta bắt đầu đổ mồ hôi ngay. Nếu bay đến từ châu Âu mùa đông, ta quăng bỏ áo choàng, cởi áo len. Đó là hành động đầu tiên của chúng ta, người phương Bắc, khi đến châu Phi. Người phương Bắc. Có bao giờ ta từng nghĩ rằng người phương Bắc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trên hành tinh này? Người Canada và Ba Lan, người Litva và bán đảo Scandinavia, một bộ phận người Mỹ và Đức, người Nga và Scotland, người Sami[1] và Eskimo, người Evenki và Yakut, danh sách cũng không dài lắm. Tôi không rõ tổng cộng nó có nhiều hơn năm trăm triệu người - chưa đến 10% cư dân trái đất - hay không. Ngược lại, một phần rất lớn sống trong ấm áp, cả đời được sưởi nắng. Vả lại, con người được sinh ra trong ánh nắng, những dấu vết cổ xưa nhất của con người được tìm thấy ở các xứ sở ấm áp. Thiên đường trong Kinh Thánh có khí hậu thế nào? Ở đó ấm áp vĩnh cửu, nóng nực là đằng khác, đến nỗi Eva và Adam có thể trần truồng và không cảm thấy lạnh ngay cả trong bóng cây. Ngay ở cầu thang máy bay ta đã gặp một điều mới mẻ khác: mùi nhiệt đới. Điều mới mẻ? Nhưng đó chính là mùi hương ngập tràn trong cửa tiệm nhỏ của ông Kanzman “Hàng hóa từ thuộc địa và các loại khác” trên phố Pereca ở Pinsk[2] đấy mà! Quả hạnh, đinh hương, chà là, ca cao. Va ni, lá nguyệt quế; cam và chuối bán quả, bạch đậu khấu và nghệ bán cân. Còn Drohobych thì sao? Những cửa hàng quế của Schulz[3] thì sao? Chính là “những đồ vật sẫm màu và trang trọng được chiếu sáng lờ mờ, thơm nồng mùi của màu, sơn, nhang, đẫm hương của các xứ sở xa xôi và những chất liệu quý hiếm”! Tuy vậy, mùi nhiệt đới có khác một chút. Ta nhanh chóng nhận ra sức nặng của nó, sự nhớp nháp của nó. Thứ mùi này cho ta biết ngay rằng ta đang ở một điểm trên trái đất nơi giới thực vật rậm rạp và không mệt mỏi luôn liên tục hoạt động, sinh sôi, lan tràn và nở hoa, song đồng thời cũng đang tật bệnh, bị đốn ngã, sâu ruỗng và héo rụi. Đó là mùi của những tấm thân được sưởi nóng và cá khô, của thịt ôi và sắn nướng, của hoa tươi và tảo rữa, tóm lại là mùi của tất cả những thứ đồng thời vừa dễ chịu vừa khó chịu, vừa lôi cuốn vừa đáng ghét, những thứ cám dỗ hoặc làm người ta ghê tởm. Thứ mùi này bay đến với chúng ta từ những rừng cọ không xa, thoát ra từ mặt đất nóng ran, bốc lên trên những rãnh nước mốc meo của thành phố. Nó không rời chúng ta, nó là một phần của miền nhiệt đới. Và cuối cùng là khám phá quan trọng nhất - con người. Những người ở đây, dân bản xứ. Họ mới hợp với phong cảnh, ánh sáng và thứ mùi này làm sao! Dường như họ tạo thành một tổng thể. Dường như con người và cảnh vật không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, là một bản sắc, một cộng đồng hài hòa. Dường như mỗi sắc dân được đặt vào phong cảnh của riêng mình, khí hậu của mình! Chúng ta tạo ra phong cảnh của mình, còn phong cảnh nặn thành hình các đường nét trên gương mặt chúng ta. Người da trắng ở giữa những cây cọ và đám dây leo này, trong các bụi cây và rừng rậm này là một điều gì đó lạc lõng thừa thãi. Nhợt nhạt, yếu ớt, áo đẫm mồ hôi, tóc dính bết, anh ta luôn bị cái khát, cảm giác bất lực và chán nản hành hạ. Anh ta luôn luôn sợ hãi, sợ muỗi, a míp, bọ cạp, rắn - tất cả những gì cử động đều làm anh ta tràn ngập lo sợ, khiếp hãi, hoảng loạn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gỗ Mun PDF của tác giả Ryszard Kapuściński nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gò Công - Xưa Và Nay (Huỳnh Minh)
Tiếp nối công trình tự vạch quyết ghi lại và điểm tô thêm những nét đẹp của non sông cẩm tú, vạch bóng thời gian tìm lại sự nghiệp những người hùng của một dân tộc kiêu hùng, chúng tôi đã lần lượt cống hiến đồng bào những cuốn sách sưu khảo riêng về mỗi tỉnh miền Nam. Sau những tỉnh Bến-tre, Bạc-liêu, Cần-thơ, và Vĩnh-long, hôm nay chúng tôi rất hân hạnh trình bày trước mắt quí vị những đặc điểm của tỉnh Gò-công yêu mến. Trong mười mấy hòn ngọc quí hiệp thành kim miện của nữ-hoàng Nam-Việt, Gò-công là một trong những hòn sáng chói đáng yêu. Người dân hiền lành chất phác, có tinh thần hiếu học, lịch sử oai hùng, mỗi thời đại mỗi đóng góp cho quốc gia những nhân tài cũng như vật lực dồi dào trong lúc đấu tranh cũng như xây dựng. Đầm Vạn-thắng muôn thuở ghi danh những chiến công Võ-Tánh, giồng Sơn-qui còn giữ lăng họ Phạm để nhắc lại công dung ngôn hạnh bà Từ-Dũ, người hiền mẫu của Nam-triều. Mộ Trương-Công-Định kiêu-hùng sừng sựng giữa trời mây làm giặc Pháp kiêng oai, bia đội Tấn mấy phen sụp đổ bởi nhơn dân oán ghét. Xứ Gò-công hai phen kháng-chiến, từ Đám lá tối trời tới lũy tre xanh ở Giồng-nâu, bao nhiêu anh hùng noi gương Trương-công-Định đã mài dũa gươm linh, tinh-thần bất khuất của dân-tộc tồn tại mãi trên đồi cây ngọn cỏ. Bao nhiêu di tích lịch-sử còn sờ sờ ra đó, khiến khách nhàn du về viếng Gò-công mỗi bước đi mỗi luống ngậm ngùi. Ngắm cảnh vật, nhớ người xưa lòng quyến luyến. Tôi đã viết quyển sách này với tất cả tấm lòng. Gò-công kháng-chiến anh-dũng! Tìm mua: Gò Công - Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee Gò-công văn-nghệ tinh anh! Gò-công kinh tế dồi dào! Gò-công xưa cũng như nay đã cống hiến cho quốc gia lắm nhơn tài đáng kể. Đọc « Gò-công Xưa và Nay » quý vị sẽ được dịp ôn lại những trang lịch-sử vẻ vang của nòi giống, sẽ được viếng thăm những di-tích lịch sử, những cảnh đẹp non sông, sẽ làm quen với những nhà văn cận đại và hiện đại của nước nhà, sẽ nhận thức hiện tình chánh trị, kinh-tế, văn-hóa, mỹ-nghệ của một tỉnh đã và đang vươn mình tiến bộ. Chúng tôi không dám tự phụ đã sưu-tầm đầy đủ, không bỏ sót một khía cạnh nào. Nhưng với tất cả cố gắng của chúng tôi, cuốn sách này ít nữa cũng sẽ giúp cho quý vị có một quan-niệm tổng-quát về tỉnh Gò-công trong dĩ-vãng và hiện-tại. Với sức mọn tài hèn, phương-tiện eo hẹp, hơn nữa, chúng tôi chỉ làm hết sức mình với tinh-thần thiện chí. Chỉ mong nơi sự tán trợ của quý độc-giả trong nước cũng như ngoài nước ủng hộ chúng tôi để tiếp tục con đường đã vạch sẵn. Mục-đích của chúng tôi là phụng-sự văn-hóa, góp công tô-điểm quê-hương, bảo tồn di tích lịch-sử nước non nhà. Nêu các gương trung-dũng ái-quốc của các bậc danh nhân chí sĩ, làm sống lại hùng khí của người xưa, bảo-vệ dân-tộc tính, đó là lý-tưởng duy nhứt của chúng tôi vậy.Sàigon, ngày 01-01-1969 HUỲNH-MINHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Huỳnh Minh":Bạc Liêu XưaCần Thơ Xưa Và NayĐịnh Tường - Xưa Và NayGò Công - Xưa Và NayTây Ninh XưaĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gò Công - Xưa Và Nay PDF của tác giả Huỳnh Minh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.