Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lập Bản Đồ Tư Duy

Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới những người đã có những đóng góp vô cùng quan trọng cho sự phát triển của Bản đồ Tư duy và đóng góp to lớn của họ để Bản đồ Tư duy được công nhận trên toàn cầu: Bạn thân của tôi, Sea Adam, người từ năm 1986 đã dự đoán rằng trong 20 năm tới các Bản đồ Tư duy sẽ là công cụ tư duy toàn cầu và người đã khích lệ tôi tin rằng điều đó sẽ xảy ra; tới trở lý riêng của tôi, Lesley Bias, người mà nếu không có ngọn lửa đầy nhiệt huyết của cô thì bạn sẽ không có cơ hội đọc cuốn sách này ! Tới Alan Burning – nhà thiết kế Bản đồ Tư duy của chúng tôi, người đã mang những ý tưởng thật tuyệt vời đến với cuộc sống; tới công ty Buzan Licensed Instructors (BLIs) và những giảng viên giảng dạy Bản đồ Tư duy, những người đã phát triển rộng rãi “Bản tin Bản đồ Tư duy” ra khắp toàn cầu; tới anh trai tôi, giáo sư Barry Buzan, người đã hết lòng ủng hộ và khích lệ chúng tôi trong việc mở rộng phát triển các Bản đồ Tư duy trên toàn thế giới; mẹ của tôi: Jean Buzan, người đã giúp tôi phát triển khả năng tư duy của mình và là người biên tập tuyệt vời cho các cuốn sách của tôi; Michael J. Gelb, người ủng hộ và người đồng sự của Bản đồ Tư duy; họa sĩ Loraine Gill, người chứng minh cho tôi thấy rằng tôi và tất cả mọi người trên thế giới đều có thể vẽ và là một họa sĩ bẩm sinh; HSH Hoàng tử Phillipp của Công quốc Liechtenstein, chủ tịch công ty đầu tiên đã nhận ra tầm quan trọng của các Bản đồ Tư duy cũng như mở rộng, giới thiệu tới tất cả nhân viên trong công ty The Liechtenstein Global Trust của ông có được cơ hội làm lợi từ chúng; tới Vanda North người sáng lập Trung tâm Buzan, người đã có những cống hiến để các Bản đồ Tư duy được phổ biến và sử dụng trên toàn thế giới và có được những thành công đáng kinh ngạc; quản lý của tôi, Caroline Shott người đã đem đến những ý tưởng tuyệt vời cho cuốn sách này và là người truyền cảm hứng cho danh mục sách mới thực sự ấn tượng của Thorsons (một chi nhánh của NXB Happer Collins), mà cuốn sách này là một phần quan trọng trong đó; Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới người bạn của mình, cũng là tổng biên tập Carone Tonkinson vì sự ủng hộ tận tâm và sự nhiệt tình của cô ấy đối với Bản đồ Tư duy. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới nhóm hỗ trợ đặc biệt của tôi tại Thorsons, những người giờ đây đã giống như gia đình thứ hai của tôi. Mỗi người trong họ đều giỏi về một lĩnh vực và đã giúp mang đến cho cuốn sách này sự thành công; chủ bút Helen Evans, giám đốc dự án Kate Latham, Giám đốc thiết kế Jacqui Caulton, nhà quản lý thiết kế Jo Ridgeway, Giám đốc Marketing Jo Lal và Giám đốc Quan hệ công chúng Megan Slyfield.  *** Lập Bản đồ tư duy sẽ hướng dẫn bạn xuyên suốt quá trình đơn giản: lập một bản đồ Tư duy từ bước khởi đầu. Bạn sẽ nhanh chóng được truyền cảm hứng từ những gì bạn có thể đạt được, từ khả năng sáng tạo lớn lao của bạn. Và các bản đồ tư duy sẽ ngay lập tức mang lại cho bạn những lợi ích thiết thực cho cuộc sống hàng ngày của bạn. “Lập bản đồ tư duy”cũng sẽ là một cuốn sách phù hợp cho những bạn mới bắt đầu tìm hiểu về Mind map (bản đồ tư duy). Một số cuốn sách khác tư duy bạn đọc có thể tham khảo thêm: Bản đồ tư duy trong công việc, Ứng dụng bản đồ tư duy, 7 loại hình thông minh,… Quên đi những phương pháp ghi chép cũ, chúng ta tự mình khám phá sức sáng tạo của bản thân. Bản đồ tư duy là gì? Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng. Bản đồ tư duy cơ bản là bản đồ các kế hoạch trong ngày. Mỗi nhánh chính được phát triển từ hình ảnh trung tâm có liên quan đến các việc phải làm trong ngày, ví dụ như: thợ sửa ống nước, tới các cửa hàng tạp hóa,… Bản đồ tư duy là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của bạn rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó. Tại sao bạn nên lập bản đồ tư duy? Cuộc sống của chúng ta là không giới hạn, và bộ não của chúng ta cũng thế. Bạn không cần phải gò mình trong bất cứ một khuôn mẫu có sẵn nào cả, hãy thỏa sức sáng tạo và bứt phá những giới hạn. Lập bản đồ tư duy giúp bạn sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, ghi nhớ tốt hơn, học nhanh và hiệu quả, tạo ra cách học nhẹ nhàng, nhìn thấy “bức tranh tổng thể”,… Sẽ rất nhàm chán nếu chúng ta mãi không thoát ra được những phương pháp cũ để giải phóng bộ não. Việc học tập lúc nào cũng phải thật thú vị bạn mới dành được sự tập trung và đạt được những hiệu quả nhất định. Khám phá khả năng vẽ Bản đồ tư duy tự nhiên của bạn Đơn giản là tưởng tượng và liên kết, hai điều này giúp bạn vẽ Bản đồ tư duy. Ở chương 2, Tony Buzan sẽ hướng dẫn cụ thể 7 bước để bạn có thể tạo nên một Bản đồ tư duy. Thành công hơn trong cuộc sống với Bản đồ tư duy Không chỉ là công cụ giúp bạn ghi nhớ tốt hơn trong học tập, công việc mà bạn có thể ứng dụng Bản đồ tư duy trong cuộc sống hằng ngày như Bản đồ tư duy dành cho thuyết trình, Bản đồ tư duy cho việc mua sắm, Bản đồ tư duy cho việc gọi điện thoại,… Vẽ ra một tương lai lý tưởng cho bạn bằng Bản đồ tư duy Đừng để cuộc sống của bạn là chuỗi những ngày sống mơ hồ, không có ước mơ. Hãy bắt tay vào vẽ ra một tương lai lý tưởng cho bạn bằng Bản đồ tư duy. “Sử dụng một chiếc đồng hồ làm hình ảnh trung tâm. Bản đồ tư duy chứa đựng tất cả các nhân tố tạo nên một ngày hoàn hảo đó. Sau khi bạn hoàn thành Bản đồ tư duy, biến một ngày hoàn hảo thành vô vàn những ngày hoàn hảo trong cuộc sống thực của bạn”. Thỏa sức sáng tạo, tìm kiếm những phương pháp ghi nhớ thú vị khiến cuộc sống của bạn dễ dàng và thành công hơn. Có vô vàn cách để ghi nhớ nhưng hãy chọn cách thật khoa học, tiết kiệm thời gian nhưng đem lại hiệu quả cho bạn. Và đọc Lập Bản đồ tư duy sẽ giúp bạn làm điều đó. Cảm ơn bạn đã đọc bài viết của AnyBooks, chúc bạn sẽ luôn thành công. Hy vọng những bài viết tiếp theo của AnyBooks sẽ luôn nhận được sự quan tâm và theo dõi của bạn. *** Thư gửi bạn đọc   H ãy để tôi kể cho các bạn câu chuyện Bản đồ Tư duy và Lập Bản đồ Tư duy được hình thành như thế nào.   Khi còn là một đứa trẻ, tôi rất thích ý tưởng về ghi chép và học tập. Nhưng khi đến tuổi thiếu niên, thì suy nghĩ của tôi bắt đầu lộn xộn, và tôi trở nên chán ghét mọi thứ liên quan đến học tập, nhất là ghi chép. Tôi cũng nhận ra một nghịch lý bất thường là tôi càng ghi chép nhiều thì việc học tập và trí nhớ của tôi càng tồi đi. Để cố gắng cải thiện các vấn đề, tôi bắt đầu gạch chân các từ và các ý tưởng quan trọng bằng màu đỏ và đặt những điều quan trọng bằng cách đóng khung. Thật kì diệu, trí nhớ của tôi bắt đầu được cải thiện.   Năm đầu tiên tại trường đại học, tôi vẫn học hết sức chật vật. Rồi sau đó tôi như bị mê hoặc bởi những ý tưởng của người Hy Lạp, tôi thấy rằng họ đã phát triển hệ thống trí não, và nó đã giúp họ ghi nhớ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn sự việc. Hệ thống ghi nhớ của người Hy Lạp dựa trên sự tưởng tượng và liên kết – điều làm tôi kinh ngạc và lo ngại là chúng không hề tồn tại trong cách ghi chép của mình!   Sau đó, tôi bắt đầu để ý rằng mọi người xung quanh tôi cũng đang ghi chép theo kiểu gò bó và đơn điệu giống như tôi đang làm. Không ai trong chúng ta sử dụng các yếu tố cơ bản của trí tưởng tượng và sự liên kết – chúng ta đều đang ở trong chiếc thuyền chìm!   Bỗng nhiên tôi nhận ra rằng, trong đầu tôi và tập thể “bộ não toàn cầu”, có một sự bế tắc, chúng ta cần một công cụ ghi chép và tư duy mới để phá bỏ lối ghi chép và tư duy cũ.   Tôi bắt đầu tìm kiếm một công cụ tư duy cho phép chúng ta tự do suy nghĩ như cách chúng ta được tạo ra để suy nghĩ.   Tôi bắt đầu nghiên cứu tất cả các vấn đề mà tôi có thể, đặc biệt là về lĩnh vực tâm lý học. Từ tâm lý học, tôi khám phá ra rằng có hai yếu tố quan trọng trong suốt quá trình học tâp: Sự liên kết và trí tưởng tượng. Tương tự như những người Hy Lạp! Bây giờ, tôi đang như bị mê hoặc bởi bộ não của mình và cái tôi nhận ra là sức mạnh và tiềm năng của nó. Cả sức mạnh và tiềm năng của nó đều lớn hơn nhiều so với những gì tôi nghĩ. Tôi đã bắt đầu tập trung vào trí nhớ, ghi chép và khả năng sáng tạo, vì dường như đáp án cho những câu hỏi của tôi nằm ở đó.   Tôi nhanh chóng phát hiện ra rằng hầu hết những nhà tư tưởng vĩ đại, đặc biệt là Leonardo de Vinci, đều sử dụng những bức tranh, những mật mã và những đường kết nối trong ghi chép của họ. Họ “vẽ nghuệch ngoạc” và nhờ thế những ghi chép của họ còn sống mãi.   Trong hành trình khám phá này, tôi thường cảm thấy dễ dàng suy nghĩ, tưởng tượng và mơ ước khi đi lang thang. Và tôi chợt nhận ra rằng, vì chúng ta là một phần của tự nhiên, nên suy nghĩ, ghi chép của chúng ta phải liên quan tới tự nhiên và phản ánh tự nhiên, chúng ta phản ánh những quy luật chung của tự nhiên!   Chỉ có một cách để giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôi. Công cụ tư duy phải ứng dụng vào việc sắp xếp toàn bộ hoạt động thường ngày của con người, và phải dựa trên cách thức hoạt động tự nhiên của bộ não. Tôi cần thứ gì đó phản ánh được bản chất và hoạt động tự nhiên của bộ não hơn là những thứ làm kìm hãm sự phát triển trí tuệ và buộc chúng ta làm việc chống lại khả năng sáng tạo tự nhiên bên trong của mỗi chúng ta.   Bản đồ tư duy đầu tiên ra đời!   Hãng tin BBC của Anh đã biết về phát hiện mới và về hiệu quả rõ rệt của Bản đồ Tư duy với trẻ em. Kết quả là họ đã mời tôi thực hiện một chương trình truyền hình dài 30 phút về Bản đồ Tư duy.   Tại cuộc gặp gỡ để thảo luận về nội dung của chương trình, tôi đã vẽ Bản đồ Tư duy về phương pháp động não. Nhìn vào sự phát triển của Bản đồ Tư duy, người đứng đầu trung tâm giáo dục từ xa BBC đã thốt lên rằng: “Có nhiều hơn một chương trình, ít nhất là mười chương trình!” Chỉ một năm, một tập hợp 10 chương trình truyền hình về “Sử dụng trí não” cùng với cuốn sách đã ra đời. Bản đồ Tư duy đã tạo dựng được tương lai của chính mình!   Từ đó về sau, tôi đã dành hết thời gian của mình để giảng dạy về Bản đồ Tư duy và ứng dụng của nó. Hồi còn là sinh viên tôi đã gặp khá nhiều khó khăn, vì thế tôi quyết tâm rằng tất cả mọi người đều phải được hưởng lợi ích từ những công cụ tư duy mang tính đột phá này. Như một phần trong quyết tâm đưa Bản đồ Tư duy tới mọi người, tôi đã viết cuốn Lập Bản đồ Tư duy.Cuốn sách sẽ giới thiệu cho bạn biết Bản đồ Tư duy là gì, các Bản đồ Tư duy hoạt động như thế nào, những lợi ích chúng có thể mang lại cho bạn và cách sử dụng chúng.   Lập Bản đồ Tư duy sẽ hướng dẫn bạn xuyên suốt quá trình đơn giản: lập một Bản đồ Tư duy từ bước khởi đầu. Bạn sẽ nhan chóng được truyền cảm hứng từ những gì bạn có thể đạt được, từ khả năng sáng tạo lớn lao của bạn và các Bản đồ Tư duy sẽ ngay lập tức mang lại cho bạn những ích lợi thiết thực cho cuộc sống hàng ngày của bạn.   Các Bản đồ Tư duy mang lại những thay đổi tuyệt diệu và lớn lao trong cuộc đời tôi. Và tôi biết điều tương tự cũng sẽ xảy ra với bạn.   Hãy sẵn sàng để ngạc nhiên – về chính bản thân bạn!   Mời các bạn đón đọc Lập Bản Đồ Tư Duy của tác giả Tony Buzan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir
Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.
Tuyệt Mật Trong Buồng Lái - Patrick Smith
Hơn bao giờ hết, đi máy bay là tâm điểm của sự tò mò, thích thú, lo lắng, và tức giận. Trong các chương sau đây, tôi sẽ cố gắng hết sức để đưa ra câu trả lời cho những ai tò mò, làm yên lòng những ai lo lắng, và những sự thật không ngờ dành cho những ai bị đánh lừa. Có lẽ các bạn khi cầm trên tay cuốn sách này đều nhận biết rõ đây là một tác phẩm kiến thức phổ thông, bình thường như mọi cuốn sách giáo khoa hay cẩm nang khoa học thường thức. Nhưng tôi tin là cuốn sách này phi thường hơn thế. Để làm được điều vĩ đại trên, cần nhiều hơn những năm miệt mài thực tập căng thẳng trong buồng lái và những chuyến bay thực nghiệm nguy hiểm, nhiều hơn những tố chất cần có của một phi công, nhiều hơn cả một cái đầu lạnh và một trái tim gan dạ, và thật nhiều hơn những may mắn không tên. Không thể hiểu rõ được những điều trên nếu ta chưa từng đọc qua cuốn sách này. *** “Tuyệt mật trong buồng lái là tài liệu nên nằm trong túi lưới đằng sau mỗi ghế ngồi.” —David Pogue, thông tín viên tờ The New York Times và tổng biên tập chương trình PBS “Là một cây viết xuất sắc, Patrick Smith mang đến một chuyến du lịch đầy tiếng cười trong một ngành vốn bị hiểu lầm—một chuyến đi vào thế giới hàng không, chẳng hề có những thuật ngữ rắc rối mà đầy ắp sự hài hước và hiểu biết sâu sắc.” —Christine Negroni, nhà văn chuyên viết về hàng không và tác giả của cuốn sách Flying Lessons “Đặc sắc và cung cấp kiến thức tuyệt vời. Một thành tựu cao xa, một cuốn sách không thể thiếu được dành cho bất kỳ ai di chuyển bằng đường hàng không, nghĩa là tất cả mọi người. —James Kaplan “Patrick Smith cực kỳ thông hiểu về ngành hàng không hiện đại và truyền tải thông tin xuất sắc bằng tiếng Anh, chứ không bằng tiếng phi công. Smith là người bạn cùng buồng lái, bạn đồng hành, cây viết, và người giải thích lý tưởng.” —Alex Beam, Boston Globe “Thật vui thích làm sao khi được đọc những lời giải thích và bình luận tao nhã đến ngạc nhiên của Patrick Smith. Thế giới cần có một người viết thật đơn giản và hợp lý kiểu E. B. White về chủ đề mà tất cả mọi người đều thắc mắc.” —Berke Breathed “Thực tế một cách xuất sắc và thật khiến người ta vững tâm.” —Cath Urquhart, The Times (London) “Giá mà tôi có thể gấp gọn Patrick Smith rồi cất anh ta vào vali của mình. Dường như anh ta biết mọi điều đáng để biết về ngành hàng không.” —Stephen J. Dubner, đồng tác giả cuốn Kinh tế học hài hước “Sắc sảo và sâu sắc.” —Joe Sharkey, The New York Times “Tuyệt vời.” —Rudy Maxa, the Savvy Traveler “Ask the Pilot thực sự khiến cho việc đi máy bay trở nên vui vẻ. Patrict Smith làm sáng tỏ được trải nghiệm này và nhắc chúng ta nhớ đến sự kỳ diệu của hàng không. Anh cũng có óc hài hước tuyệt vời—đây là điều rất quan trọng khi mà bạn bị nhồi nhét vào ghế 14D trên một chiếc máy bay tầm khu vực.” —Chris Bohjalian, tác giả cuốn sách The Night Strangers và Midwives Mời các bạn đón đọc Tuyệt Mật Trong Buồng Lái của tác giả Patrick Smith.
Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng
Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chăng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Trong tiếng Nhật, Ikigai có nghĩa là “đi tìm mục đích sống của đời bạn” hoặc là “một lý do để thức dậy mỗi sáng”. Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai – mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ rãng tức là mỗi sáng thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại làng Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Cuộc sống không phải là một vấn đề cần giải quyết. Chỉ cần nhớ rằng phải có thứ gì đó khiến bạn bận rộn làm những điều mình yêu thích trong khi có những người yêu quý bạn ở bên. Ikigai của mỗi người là khác nhau, nhưng có một điểm chung là tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Khi dành nhiều ngày để gắn kết với thứ có ý nghĩa với bản thân, chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn.  Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** Điều gì mang lại ý nghĩa cho cuộc sống? Lý do tồn tại của bạn là gì? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại giạt trôi trong một thế giới đầy mơ hồ và mỏi mệt? Người Nhật quan niệm rằng mỗi người đều có một ikigai - mục đích sống. Và theo người dân của ngôi làng sống thọ nhất thế giới tại Nhật Bản, tìm ra ikigai là chìa khóa để có được cuộc sống hạnh phúc và lâu dài. Sở hữu một ikigai rõ ràng tức là mỗi sống thức giấc, bạn có thể vùng dậy với cảm giác vui sướng, sẵn sàng sống một ngày thật năng động, hạnh phúc và đầy ý nghĩa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn người dân sống tại Ogimi, ngôi làng có tỷ lệ người thọ trên trăm tuổi cao nhất thế giới. Từ đó, hé lộ bí quyết hạnh phúc và trường thọ của họ, đồng thời đem đến cho bạn những công cụ thực tiễn để khám phá ikigai của bản thân. Hãy tìm ra và theo đuổi ikigai của mình, để mỗi sớm mai thức dậy, bạn biết mình đang sống vì điều gì. *** HÉCTOR GARCÍA Sinh ra tại Tây Ban Nha, ông đồng thời có thêm quốc tịch Nhật Bản, nơi ông đã sống hơn mười năm. Ông từng làm kỹ sư phần mềm cho Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu tại Thụy Sĩ. Sau đó, ông chuyển đến Nhật Bản và phát triển phần mềm nhận dạng giọng nói cũng như công nghệ phục vụ cho các công ty khởi nghiệp của thung lũng Silicon muốn tiến vào thị trường Nhật Bản. Ông là chủ trang blog nổi tiếng kirainet.com và là tác giả của A Geek in Japan, một cuốn sách bán chạy hàng đầu tại Nhật Bản. FRANCESC MIRALLES Sinh ra và lớn lên tại Barcelona, ông theo học chuyên ngành báo chí, văn học Anh và tiếng Đức. Hiện ông làm công việc biên tập, dịch thuật, viết thuê và cả sáng tác nhạc. Ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều đầu sách bán chạy. Tiểu thuyết Love In Lowercase của ông đã được dịch sang 20 thứ tiếng. *** LỜI NÓI ĐẦU IKIGAI: Một từ bí ẩn Mối lương duyên hình thành nên cuốn sách này bắt đầu từ một đêm mưa ở Tokyo, khi chúng tôi lần đầu trò chuyện tại một quán bar nhỏ trong thành phố. Do khoảng cách địa lý xa xôi giữa Barcelona và thủ đô của Nhật Bản, chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt dù từng đọc tác phẩm của nhau. Thế rồi, một người bạn chung kết nối hai chúng tôi, khởi đầu cho một tình bạn dẫn đến dự án này và dường như tình bạn đó được định trước để tồn tại suốt đời. Trong lần gặp gỡ tiếp theo, diễn ra một năm sau đó, chúng tôi đi dạo quanh một công viên ở trung tâm thành phố Tokyo, bàn luận về các xu hướng trong tâm lý học phương Tây, đặc biệt là liệu pháp ý nghĩa (logotherapy), liệu pháp giúp mọi người tìm ra mục đích sống trong cuộc đời mình. Chúng tôi nhận thấy rằng liệu pháp ý nghĩa của Viktor Frankl đã trở nên lỗi thời trong giới trị liệu tâm lý, họ ưa chuộng các trường phái tâm lý học khác, dẫu cho mọi người vẫn đang không ngừng tìm kiếm ý nghĩa trong những việc họ làm và cách họ sống. Chúng ta tự hỏi bản thân những điều như: Ý nghĩa cuộc đời mình là gì? Phải chẳng mục đích chỉ là để sống lâu hơn, hay nên tìm kiếm một mục đích lớn lao? Tại sao có những người biết rõ điều họ muốn và sống trọn đam mê cả cuộc đời, trong khi số khác lại héo mòn trong lú lẫn? Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, từ bí ẩn ikigai được nhắc đến. Khái niệm này của người Nhật, dịch nôm na là “niềm hạnh phúc của việc luôn bận rộn”, cũng tương tự liệu pháp ý nghĩa, nhưng còn đi sâu hơn nữa. Đây có lẽ cũng là một lý giải cho tuổi thọ phi thường của người Nhật, đặc biệt là trên đảo Okinawa, nơi cứ 100.000 dân lại có 24,55 người sống trên 100 tuổi - vượt xa tuổi thọ trung bình toàn cầu. Về lý do cư dân trên hòn đảo phía Nam Nhật Bản này sống lâu hơn cư dân tại bất cứ đâu trên toàn thế giới, các nhà nghiên cứu cho rằng một trong những bí quyết - bên cạnh chế độ ăn uống lành mạnh, cuộc sống bình dị nơi thôn dã, trà xanh cùng khí hậu cận nhiệt đới (với nhiệt độ trung bình tương đương Hawaii) - chính là ikigai, thứ định hình nên cuộc sống của họ. Khi nghiên cứu khái niệm này, chúng tôi khám phá ra rằng chưa có bất kỳ cuốn sách nào trong lĩnh vực tâm lý học hay phát triển cá nhân được dành riêng để truyền tải triết lý này tới phương Tây. Liệu ikigai có phải là lý do Okinawa có nhiều người sống lâu trăm tuổi hơn bất kỳ nơi nào khác? Bằng cách nào ikigai thúc đẩy mọi người sống năng động cho tới tận cuối đời? Bí quyết để sống lâu và hạnh phúc là gì? Khỉ tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi khám phá ra một nơi đặc biệt, Ogimi, một thị trấn nông thôn nằm ở tận cùng phía Bắc hòn đảo với dân số khoảng ba nghìn người, tự hào là nơi có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới và được mệnh danh là “Làng Trường thọ”. Okinawa là nơi trồng shikuwasa nhiều nhất Nhật Bản - một loại quả họ Chanh (hay còn gọi là chanh lõm) chứa hàm lượng lớn chất chống ô xi hóa. Bí quyết sống thọ của người dân Ogimi là đây chăng? Hay là thứ nước tinh khiết được dùng để pha loại trà Moringa của họ? Chúng tôi quyết định gặp gỡ trực tiếp những người sống lâu trăm tuổi Nhật Bản để tìm hiểu bí quyết của họ. Sau một năm chuẩn bị, đem theo máy quay và thiết bị ghi âm, chúng tôi tới ngôi làng - nơi người dân nói thổ ngữ cổ và theo tôn giáo duy linh tôn thờ các tinh linh rừng có mái tóc dài được gọi là bunagaya. Ngay khi đặt chân đến, chúng tôi đã cảm nhận được sự thân thiện đáng kinh ngạc của người dân nơi đây, họ cười đùa không ngớt giữa những ngọn đồi xanh tươi được tưới tắm từ nguồn nước thanh khiết. Khi thực hiện phỏng vấn những cụ già lớn tuổi nhất làng, chúng tôi nhận thấy một thứ còn mạnh mẽ hơn cả những nguồn tài nguyên thiên nhiên đang hiển hiện nơi đây: một niềm vui khác thường chảy trong người dân bản địa và dẫn dắt họ suốt chặng đường đời dài lâu và lý thú. Một lần nữa, lại là từ ikigai bí ẩn. Nhưng nó chính xác là cái gì? Làm thế nào để có được? Chúng tôi chẳng bao giờ hết kinh ngạc khi biết rằng thiên đường của cuộc sống gần như vĩnh cửu này lại tọa lạc chính ở Okinawa, nơi 200.000 sinh mạng vô tội bị tước đoạt vào cuối Thế chiến thứ hai. Vậy nhưng, thay vì dung dưỡng lòng hận thù đối với người ngoại quốc, người Okinawa lại sống theo tôn chỉ ichariba chode, một thành ngữ địa phương mang ý nghĩa “đối xử với mọi người như anh em, cho dù bạn chưa từng gặp họ”. Hóa ra một trong những bí quyết hạnh phúc của người dân Ogimi chính là cảm nhận bản thân là một phần của cộng đồng. Ngay từ nhỏ họ đã thực hành yuimaaru, hay còn gọi là làm việc nhóm, và quen với việc giúp đỡ người khác. Nuôi dưỡng tình bạn, hấp thụ ánh sáng, nghỉ ngơi điều độ và rèn luyện cơ thể thường xuyên đều là những yếu tố để có được sức khỏe tốt, nhưng cốt lõi của joie de vivre,[1] thứ truyền cảm hứng cho những con người trăm tuổi nơi đây tiếp tục hưởng niềm vui sinh nhật và trân trọng mỗi ngày mới, chính là ikigai. Mục đích của cuốn sách này là hé lộ bí quyết của những người trăm tuổi tại Nhật Bản và cung cấp công cụ để bạn tìm ra ikigai của chính mình. Bởi lẽ, người tìm thấy ikigai của bản thân sẽ có được tất cả những gì mình cần cho hành trình dài lâu và hạnh phúc suốt chặng đường đời. Chúc bạn có một cuộc hành trình hạnh phúc!   Héctor García và Francesc Miralles Mời bạn đón đọc Ikigai - Đi Tìm Lý Do Thức Dậy Mỗi Sáng của tác giả Héctor García & Francesc Miralles.
Biết Ta Đích Thực Là Ai
Biết ta đích thực là ai - Cuốn sách về một cấm kỵ - có lẽ là một trong những tác phẩm nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất của học giả, triết gia Alan Watts. Trong đó, tác giả nghiền ngẫm về một cấm kỵ không được thừa nhận, nhưng đầy sức mạnh: sự thông đồng im lặng của chúng ta về câu hỏi ta thực sự là ai, hoặc là cái gì. Nỗ lực này là đi tìm lời đáp cho câu hỏi: Nếu cảm thức của chúng ta về mình dưới dạng ngã biệt lập trong chiếc bao da là ảo tưởng, không phù hợp cả với những khám phá của khoa học phương Tây lẫn với triết giáo phương Đông, vậy thì bản tính đích thực của chúng ta là gì? Đưa người đọc chìm đắm vào bầu không khí chiêm nghiệm triết học và tìm ra trong các triết thuyết cổ xưa những điểm nhìn cách mạng và hiện đại, Alan Watts đã trình bày con đường nhận thức mang tính tâm lý học của riêng ông về chân tướng của cái cảm thức mơ hồ gọi là tôi, - mà trên thực tế chính là cội nguồn và căn gốc của Vũ trụ. “Cuốn sách dạy chúng ta nhìn và tôn trọng thế giới này một cách kiên nhẫn và hiểu biết.” (Chris DeLeon) *** Alan Watts là một học giả, triết gia người Mỹ gốc Anh. Tác giả cũng là tác giả, diễn giả, một trong những người nước ngoài nổi tiếng nhất trong việc truyền bá triết lý phương Đông đến phương Tây. Alan Watts tốt nghiệp thạc sĩ ngành thần học tại Seabury-Western Theological Seminary.  Biết ta đích thực là ai là một trong những tác phẩm nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất của học giả, triết gia Alan Watts. Bìa cuốn Biết ta đích thực là ai, có giá 68.000 đồng. Trong cuốn sách, tác giả nghiền ngẫm về một cấm kỵ không được thừa nhận, nhưng đầy sức mạnh. Sự thông đồng im lặng của chúng ta về câu hỏi ta thực sự là ai, hoặc là cái gì. Nếu cảm thức của chúng ta về mình dưới dạng ngã biệt lập trong chiếc bao da là ảo tưởng, không phù hợp cả những khám phá khoa học phương Tây lẫn triết giáo phương Đông, vậy thì bản tính đích thực của chúng ta là gì?  Cuốn sách đưa người đọc chìm đắm vào bầu không khí chiêm nghiệm triết học và tìm ra trong các triết thuyết cổ xưa những điểm nhìn cách mạng và hiện đại. Alan Watts đã trình bày con đường nhận thức mang tính tâm lý học của riêng ông về chân tướng của cái cảm thức mơ hồ gọi là tôi, - mà trên thực tế chính là cội nguồn và căn gốc của vũ trụ. *** LỜI TỰA Cuốn sách này khảo cứu một điều cấm kỵ không được thừa nhận nhưng đầy sức mạnh - việc chúng ta ngấm ngầm thông đồng để lờ đi vấn đề ta thực sự là ai, hay là cái gì. Tóm lại, thứ luận điểm coi cảm nhận phổ biến về bản thân như một bản ngã biệt lập bao kín trong chiếc túi da là một ảo tưởng, cả theo khoa học phương Tây lẫn các triết giáo thực nghiệm phương Đông - đặc biệt là triết phái Vệ Đà nguyên thủy, cội nguồn của Ấn Độ giáo. Ngộ nhận này là căn nguyên khiến con người lạm dụng công nghệ để chinh phục môi trường tự nhiên một cách tàn bạo, và rốt cuộc là hủy diệt tự nhiên. Vì vậy chúng ta rất cần có một cảm thức về sự tồn tại của chính mình phù hợp với quy luật tự nhiên, và khắc phục được cảm giác vong thân trong vũ trụ. Để đạt mục đích này, tôi đã viện đến tri thức Vệ Đà, song trình bày theo một lối hoàn toàn hiện đại và Tây phương - nhờ vậy cuốn sách này không trở thành một giáo khoa thư hay cuốn tập vỡ lòng về triết phái Vệ Đà theo nghĩa thông thường. Đúng hơn, cuốn sách này là một cuộc hôn phối chéo giữa khoa học phương Tây và trực giác phương Đông. Xin dành lời cảm ơn đặc biệt cho vợ tôi, Mary Jane, vì đã biên tập cẩn thận và nhận xét về bản thảo. Tôi cũng cảm ơn Quỹ Bollingen đã tài trợ cho dự án biên soạn cuốn sách này. Alan Watts Sausalito, California January 1966 *** Một người trẻ tuổi nên biết những gì để được xem là “người hiểu biết”? Hay nói cách khác, liệu có thứ thông tin nội bộ, điều cấm kỵ đặc biệt, hay một chân tướng nào đó của cuộc đời và sự hiện hữu mà hầu hết các bậc cha mẹ và thầy cô hoặc không biết, hoặc không nói ra? Ở Nhật từng có tập tục trao cho người trẻ sắp thành hôn “sách gối đầu giường”. Đó là một cuốn sách mộc bản nhỏ, thường tô màu, chỉ vẽ tường tận về giao hợp nam nữ. Tập tục ấy tồn tại, không chỉ vì như người Trung Hoa vẫn nói, “một bức tranh đáng giá vạn lời”, mà còn vì trao cuốn sách cho những đứa con đã trưởng thành của mình, các bậc cha mẹ đỡ cảm thấy ngượng ngùng khi phải đích thân giải thích những chuyện thầm kín. Nhưng ngày nay ở phương Tây, ta có thể kiếm được những thông tin như vậy ở bất kỳ sạp báo nào. Tình dục không còn là điều cấm kỵ nghiêm trọng nữa. Đôi khi thanh thiếu niên biết nhiều về tình dục còn hơn cả người lớn. Nhưng nếu giờ đây tình dục không còn là cấm kỵ ghê gớm nữa, thì có điều gì là cấm kỵ? Bởi trong xã hội vẫn luôn tồn tại điều gì đó bị coi là cấm kỵ, bị giấu giếm, không được mọi người thừa nhận, hay người ta chỉ thoáng liếc nhìn, vì nhìn thẳng thì quá không ổn. Cấm kỵ lồng trong cấm kỵ, như những lớp vỏ hành. Vậy thì Cuốn Sách mà ông bố phải lén trao cho con trai, còn bà mẹ phải lén trao cho con gái, không bao giờ công khai thừa nhận là có nó, cuốn sách ấy phải nói về điều gì? Trong một số cộng đồng có sự cấm kỵ nghiêm ngặt liên quan đến tôn giáo, thậm chí ở những cộng đồng mà người ta vẫn đi lễ nhà thờ hay đọc Kinh Thánh. Ở đó, tôn giáo là việc riêng của mỗi người. Bàn bạc hay tranh luận về tôn giáo là xấu, khiếm nhã, và sẽ là rất tệ, nếu ai đó tỏ ra quá sùng đạo. Nhưng một khi đã thâm nhập sâu vào hầu như bất kỳ một tôn giáo lớn nào, bạn sẽ băn khoăn tự hỏi sự nín lặng này có ý nghĩa gì. Chắc chắn, Cuốn Sách mà tôi nghĩ đến không phải cuốn “thánh thư” Kinh Thánh, - kho trí tuệ, lịch sử, và ngụ ngôn vĩ đại của người xưa, vốn được xưng tụng là Lời Thiêng đến mức có lẽ người ta nên giấu nó đi chừng một đôi thế kỷ, để về sau có thể nghe lại bằng đôi tai mới. Trong Kinh Thánh quả thật có những bí mật, và một số điều còn mang tính cách mạng, nhưng thảy đều bị vùi lấp dưới những câu chữ phức tạp, những biểu tượng và lối tư duy cổ xưa, đến mức giáo lý Cơ Đốc thành ra vô cùng khó diễn giải đối với con người thời nay. Thành ra, nếu không bằng lòng với việc đơn giản hóa giáo lý thành sống đời thánh thiện và noi gương Chúa Jesus, thì cũng chẳng hề có ai giải thích phải làm điều ấy thế nào. Để làm được điều ấy, người ta phải có khả năng đặc biệt Chúa ban, gọi là “ân điển”, nhưng tất cả những gì chúng ta thực sự biết về ân điển là một số người được ban, số khác thì không. Các tôn giáo lớn, dù là Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, hay Phật giáo - như ngày nay người ta vẫn thực hành - đều như những cái mỏ đã cạn, rất khó khai thác. Trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, quan điểm của các tôn giáo nêu trên về con người và thế giới, những hình tượng, lễ thức và ý niệm về cuộc sống đạo hạnh xem ra không phù hợp với thế giới như chúng ta đang biết, hay với một xã hội đang đổi thay nhanh đến mức những điều ta vừa học ở trường đã thành lỗi thời ngay hôm ta tốt nghiệp. Cuốn Sách tôi đang ấp ủ viết không mang tính tôn giáo theo nghĩa thông thường, mà bàn đến nhiều vấn đề mà tôn giáo quan tâm - như vũ trụ và vị trí của con người trong đó, cái trung tâm kinh nghiệm bí ẩn mà ta gọi là “cái tôi”, những vấn đề về sự sống và tình yêu, khổ đau và cái chết, và câu hỏi liệu sự tồn tại có ý nghĩa chăng, theo bất kỳ nghĩa nào của từ này. Vì ngày càng có nhiều người tin rằng, tồn tại thực chất chỉ là một cuộc chạy đua ác liệt không lối thoát: mọi sinh vật, bao gồm cả con người, chẳng qua chỉ là những cái ống nuốt các thứ vào đầu này rồi thải ra ở đầu kia, nhờ đó chúng có thể tồn tại, nhưng về lâu dài cũng sẽ vì vậy mà kiệt sức. Vậy nên, để vở kịch vui nhộn tiếp diễn, những chiếc ống tìm cách tạo ra những chiếc ống mới. Ở đầu vào, chúng thậm chí phát triển đầu mối thần kinh gọi là não, kèm theo mắt và tai, nhờ đó chúng có thể dễ dàng tìm các thứ để nuốt hơn. Khi đã ăn đủ, chúng dùng cho hết năng lượng thừa bằng cách chuyển động theo nhiều dạng thức phức tạp, tạo đủ thứ tiếng ồn bằng cách hút đẩy không khí qua đầu vào, và còn kết thành bè nhóm để đánh nhau với các nhóm khác. Theo thời gian, những chiếc ống phát triển thêm các bộ phận đi kèm thừa thãi đến mức khó mà nhận ra chúng thực chất chỉ là những chiếc ống, và làm việc đó bằng nhiều cách đa dạng đến kinh ngạc. Giữa chúng hình thành một nguyên tắc mơ hồ là không được ăn những chiếc ống đồng dạng với mình, nhưng nhìn chung luôn tồn tại một cuộc cạnh tranh gay gắt để trở thành loại ống đứng đầu. Những điều này dường như vô nghĩa lạ lùng, thế nhưng, khi suy ngẫm sâu hơn, ta sẽ thấy chúng lạ lùng hơn là vô nghĩa. Thực vậy, chúng hết sức kỳ quặc.   Mời các bạn đón đọc Biết Ta Đích Thực Là Ai của tác giả Alan Watts & Vân Nga (dịch).