Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quần Jeans May Mắn

Nhẹ nhàng với những tình tiết gần gũi tới mức bạn hình dung từng nghe tới đâu đó, Quần jeans may mắn kể một câu chuyện tuyệt hay về tình bạn mà không cần chạm tới những mỹ từ bóng bẩy. Ngay từ đầu cuốn sách, bốn cô gái trẻ tuổi 15 đã giới thiệu họ là tất cả của nhau mà không cần phải nói ra điều đó. Bốn người bạn rất khác nhau. Một cái quần Jeans may mắn. Và một mùa hè xa Chúng ta, Hội chị em, bằng văn bản này đặt ra các quy tắc dưới đây để quản lý  việc sử dụng Cái Quần Du Lịch: 1. Không bao giờ được giặt cái quần. 2. Không đựơc phép xắn gấu quần lên. Rất quê. Sẽ không có lúc nào làm thế mà trong lại không quê. 3. Không bao giờ nói từ "péo" khi mặc Cái quần. Không bao giờ được có ý nghĩ "Mình béo" khi mặc Cái quần. 4. Không đựơc để anh chàng nào cởi Cái quần (tuy nhiên có thể tự cởi trước mặt anh chàng). 5. Không được phép ngoáy mũi khi đang mặc Cái quần. Tuy nhiên, có thể vô tình quệt lỗ mũi mà thực ra là ngoáy mũi. 6. Khi họp mặt, phải tuân theo các thủ tục khi ghi lại quãng thời gian mặc Cái quần như sau: 7. Phải thừơng xuyên viết thư cho các chị em khác trong hội trong suốt mùa hè, cho dù bạn có vui vẻ như thế nào khi không có họ bên cạnh. 8. Phải chuyển Cái quần cho các thành viên khác trong hội theo đúng quy ứơc của hội. Nếu không tuân theo sẽ bị đá đít thật mạnh khi họp hội. 9. Không được nhét áo vào Cái quần và đeo thắt lưng. em điều 2. 10. Hãy nhớ: Cái quần = Tình yêu. Hãy yêu quý bạn bè. Hãy yêu quý chính mình. "Một nhóm bạn gái trung thành vô cùng hấp dẫn; cộng thêm cái quần hoàn hảo biến giấc-mơ-thành-sự-thực và bạn không thể để mất. Bạn tốt, giống như những cái quần tốt, sẽ mang lại cho bạn cảm giác thần kỳ; Brashares kết hợp cả hai và tạo nên một cuốn sách vui tươi, tràn đầy cảm xúc." - The Horn Book Magazine "Một cuốn truyện được dẫn dắt bởi bốn giọng kể đan xen duyên dáng sẽ khiến bạn đọc nghiến ngấ Lối miêu tả của Brashares sinh động đến độ độc giả có thể nhìn thấy cả rừng ôliu ở Hy Lạp và bầu trời lấp lánh ánh sao ở Baja." - The Book Report *** Ann Brashares, sinh năm 1967, lớn lên ở Chevy Chase, bang Maryland và từng theo học ngành Triết học tại trường Cao đẳng Barnard, một nhánh thuộc Đại học Columbia ở thành phố New York. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng, cô trở thành biên tập viên, dự định sẽ dành một năm đi làm kiếm tiền để tiếp tục học lên đại học ngành Triết. Nhưng vì quá yêu nghề Ann Brashares đã không học đại học nữa mà ở lại New York làm việc trong nhiều năm rồi trở thành nhà văn chuyên nghiệp sau tác phẩm đầu tay Quần jeans may mắn. Ngay sau khi ra đời, Quần jeans may mắn đã thành công rực rỡ về mặt thương mại, được dựng thành phim năm 2005 và đưa tác giả của nó vào hàng ngũ các nhà văn có sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Brashares chủ yếu viết cho giới trẻ. Cùng với bốn cuốn sách về hội chị em: Quần jeans may mắn, Mùa hè thứ hai của Quần jeans may mắn, Girls in Pants: The third Summer of the Sisterhood, Keep in touch: Letters, Notes, and More from the Sisterhood of the Traveling Pants, cô còn viết hai tiểu thuyết cho người lớn nữa là Forever in Blue: The fourth Summer of the Sisterhood và The last Summer (of you and me). Cô còn là tác giả của các cuốn sách khá nổi tiếng khác như Linus Torvald - kẻ nổi loạn trong lĩnh vực phần mềm và Steve Job nghĩ khác. Brashares hiện đang sống tại New York với chồng - Jacob Collin, con trai một giáo sư dạy triết của cô từ hồi học cao đẳng, là một họa sĩ khá thành danh ở Mỹ - và ba con. *** PHẦN MỞ ĐẦU Ngày xửa ngày xưa có một cái quần. Đó là cái quần thuộc loại rất cơ bản, jeans, màu xanh lơ tự nhiên nhưng không phải là màu xanh mới cứng mà bạn thường xuyên thấy vào ngày đầu tiên đến trường. Nó là một cái quần màu xanh mềm mại, hơi bạc một chút ở đầu gối và đũng, và có những gợn sóng màu trắng ở gấu quần. Cái quần hẳn đã có một cuộc sống tốt đẹp trước khi gặp chúng tôi. Bạn có thể nói như vậy. Tôi thì nghĩ một cửa hàng bán đồ cũ xét theo khía cạnh nào đó cũng đại loại như một nơi nhốt chó mèo lạc vậy. Bất kỳ cái gì bạn mua ở đó cũng có rất nhiều điểm thừa hưởng từ những người chủ cũ của chúng. Cái quần của chúng tôi không giống như một chú cún con lạc mẹ gào khóc từ sáng đến đêm. Nó giống như một chú chó đã lớn mà gia đình nhà chủ rất yêu quý nhưng phải chia tay vì dọn đến một khu nhà mới, hoặc có thể chuyển đến sống ở Hàn Quốc (à mà có phải là Hàn Quốc không nhỉ?), nơi người ta thỉnh thoảng ăn thịt chó ấy. Tôi có thể thấy cái quần đã không đến với chúng tôi từ một bi kịch. Nó chỉ đơn giản chứng kiến một trong những chuyển biến bình thường nhưng đau đớn của cuộc đời. Đó hóa ra chính là Hành trình của Cái quần. Đó là một cái quần quý phái, nhưng khiêm tốn. Bạn có thể liếc qua nó và nghĩ “Ừ, một cái quần,” hoặc bạn có thể dừng hẳn lại và nhìn ngắm thật kỹ sự kết hợp tài tình của màu sắc và các đường may. Cái quần chẳng buộc bạn phải say mê nó. Cái quần chỉ vui vẻ làm trọn một nhiệm vụ bình thường là che mông bạn mà không làm cho nó trông to hơn kích cỡ thực tế. Tôi thu nhận cái quần ở một cửa hàng bán đồ cũ phía ngoại vi Georgetown, cửa hàng này kẹp giữa một cửa hàng bán nước (chẳng biết các bạn thế nào, chứ tôi thì có sẵn nước ở nhà, không phải mua bao giờ!) và một cửa hàng bán thực phẩm tự nhiên có tên là Yes! (1). Bất cứ khi nào đứa nào trong chúng tôi nhắc đến Yes! (và chúng tôi nhắc đến ngay khi có thể), chúng tôi bao giờ cũng hét lớn Yes! hết cỡ mà cổ họng cho phép. Tôi đi đâu cũng đi cùng Lena và em gái nó, Effie, và mẹ của hai đứa. Effie đến đó mua một chiếc váy cho buổi khiêu vũ của sinh viên năm thứ hai. Effie không thuộc tuýp con gái có thể mua một cái gì đó màu đỏ dây rợ loằng ngoằng như mỳ ống ở cửa hàng Bloomingdale như nhiều cô gái khác. Cô này phải mua cái gì đó cổ điển cơ. Tôi mua cái quần chủ yếu bởi vì mẹ của Lena ghét các cửa hàng bán quần áo cũ. Bà nói quần áo cũ là dành cho người nghèo. “Mẹ nghĩ nó bẩn lắm, Effie,” bà liên tục nói mỗi lần Effie kéo thứ gì đó xuống khỏi mắc áo. Tôi ngầm đồng ý với bà Kaligaris, điều này làm tôi hơi xấu hổ một chút. Thật lòng mà nói tôi yêu thích sự sạch sẽ của quần áo nhãn hiệu Express, nhưng tôi đành phải mua một cái gì đó vậy. Cái quần gập gọn gàng một cách vô tội trên một chiếc giá gần quầy thanh toán. Tôi cho là cái quần đã được giặt sạch. Hơn nữa, nó chỉ có 3,49 đôla kể cả thuế. Tôi chẳng buồn mặc thử, như bạn có thể thấy đấy, tôi chẳng để ý lắm đến chuyện mua bán này. Mông của tôi đã có những quy chuẩn nhất định dành cho quần rồi. Effie chọn ra một chiếc váy nhỏ nhắn vô cùng không thích hợp với khiêu vũ, và Lena tìm ra được một đôi giày kỳ quặc trông như có vẻ đã thuộc về cụ tổ của ai đó. Bàn chân Lena to, phải cỡ 9,5 hay gì đó. Đó là phần duy nhất không hoàn hảo ở nó. Tuy nhiên tôi thích đôi bàn chân ấy. Và tôi không thể không nhăn mặt khi nhìn đôi giày nó chọn. Mua quần áo cũ đã là quá rồi, nhưng quần áo có thể giặt được, còn giày cũ thì sao? Khi về đến nhà tôi nhét cái quần vào đáy tủ quần áo và chẳng còn nhớ đến nó nữa. Cái quần tái xuất hiện vào một buổi chiều trước khi tất cả chúng tôi mỗi đứa đi nghỉ hè một ngả. Tôi sắp sửa đến Nam Carolina chơi với bố, Lena và Effie sẽ đến chơi với ông bà ở Hy Lạp hai tháng, Bridget sắp sửa bay đến trại tập bóng đá ở Baja California (nghe tên thế mà cuối cùng hóa ra lại ở Mexico. Ai mà biết được?). Tibby sẽ ở nhà. Đây là mùa hè đầu tiên mà chúng tôi mỗi đứa tản mác một ngả, và tôi nghĩ điều này làm tất cả chúng tôi có một cảm giác gì đó lạ lùng và xao xuyến. Mùa hè năm ngoái, tất cả chúng tôi đều chọn học môn lịch sử nước Mỹ vì Lena bảo rằng học vào mùa hè dễ có điểm cao hơn. Tôi chắc là Lena đã có điểm cao hơn. Mùa hè trước đó tất cả chúng tôi đều là CIT(2) ở Trại Gỗ Tròn trên bờ biển Đông Maryland. Bridget huấn luyện bóng đá và dạy bơi, Lena làm việc với lớp nghệ thuật và đồ thủ công, còn Tibby lại một lần nữa kẹt cứng trong bếp. Tôi trợ giúp cho buổi hội thảo về kịch cho đến khi mất bình tĩnh nghiêm trọng với hai đứa nhóc chín tuổi quỷ quái và được trao trả về với nhiệm vụ liếm và dán phong bì ở văn phòng của trại. Lẽ ra họ có thể cho tôi nghỉ thẳng luôn, nhưng tôi nghĩ bố mẹ chúng tôi đã trả tiền cho họ để chúng tôi được làm việc ở đó. Những mùa hè trước đó là một vài ký ức mờ nhạt của những lọ dầu bôi người, Sun-In_ và việc căm ghét cơ thể mình (tôi thì ngực lớn còn Tibby lại không có ngực) ở bể bơi công cộng Rockwood. Da tôi trở nên sẫm hơn; nhưng không một sợi tóc nào trở nên vàng óng như tôi mong đợi cả. Và trước đó nữa thì… Ôi trời, tôi chả biết chúng tôi đã làm gì nữa. Tibby đã tham dự ngày cộng đồng của một trại hè và góp sức xây những ngôi nhà giá rẻ. Bridget học tennis suốt ngày. Lena và Effie vầy nước ở bể bơi suốt ngày này sang ngày khác. Còn tôi thì trung thực mà nói hình như đã xem TV suốt. Tuy nhiên ít nhất thì chúng tôi cũng cố gặp nhau vài tiếng một ngày, và vào cuối tuần thì chúng tôi không hề tách khỏi nhau. Có những năm đặc biệt hơn: mùa hè mà gia đình Lena xây bể bơi, mùa hè mà Bridget bị thủy đậu và làm tất cả chúng tôi bị lây. Mùa hè mà bố tôi dọn nhà đi. Vì một vài lý do nào đó, cuộc đời của chúng tôi đã được ghi dấu bằng những mùa hè. Trong khi Lena và tôi học ở trường tiểu học công thì Bridget học ở một trường tư với một lô những đứa nhóc khác, và Tibby vẫn học ở trường Embrace, cái trường bé tí kỳ lạ, nơi học sinh ngồi trên các túi đậu chứ không ngồi ở bàn học và cũng chẳng có điểm số nào cả. Mùa hè là thời gian cuộc sống của chúng tôi giao thoa với nhau hoàn toàn, là thời gian chúng tôi có ngày sinh nhật, là thời gian rất nhiều chuyện quan trọng xảy ra. Trừ năm mà mẹ của Bridget qua đời. Đó là vào dịp lễ Giáng sinh. Chúng tôi đã là một “hội” từ trước khi ra đời. Tất cả bốn đứa chúng tôi đều sinh ra vào cuối mùa hè; rải rác cách nhau mười bảy ngày: Lena đầu tiên, cuối tháng Tám, và tôi cuối cùng, giữa tháng Chín. Điều này không hẳn là một sự trùng hợp, vì những lý do mà tôi sẽ kể sau đây. Vào mùa hè chúng tôi sinh ra, các bà mẹ của chúng tôi đã tham gia học một lớp aerobic dành cho phụ nữ có bầu (cứ thử hình dung mà xem) ở một nơi gọi là trung tâm Gilda; họ là những người thuộc nhóm tháng Chín (Lena chui ra hơi sớm một chút). Aerobic lúc đó cực kỳ phổ biến. Tôi cho là các thành viên khác của lớp đều sẽ không sinh con trước mùa đông, nhưng các bà bầu thuộc nhóm tháng Chín thì bụng đặc biệt to, đến độ giáo viên lo rằng họ sẽ nổ tung bất cứ khi nào. Giáo viên này đã phải thay đổi chương trình học dành riêng cho họ. “Nào các bà mẹ tháng Chín!” bà này sẽ gầm lên, đấy là theo lời mẹ tôi kể. “Chỉ làm bốn động tác đại diện thôi, nhìn đấy! Cẩn thận đấy.” Người hướng dẫn aerobic này tình cờ lại có tên là April(3), và theo lời của mẹ tôi thì họ đều ghét bà này lắm. Các bà mẹ tháng Chín bắt đầu la cà đi chơi sau khi tan lớp, tụ tập than thở về những đôi chân bị xuống máu sưng phồng, về việc họ đã béo ú ra thế nào và cười đùa về bà April. Sau khi chúng tôi sinh ra - trùng hợp thay toàn là con gái, cộng với hai anh trai sinh đôi của Bridget - họ đã tự lập ra nhóm hỗ trợ các bà mẹ nhỏ của riêng mình và để kệ cho chúng tôi lăn lộn trong chăn chơi với nhau trong khi họ than thở về việc không ngủ được và việc họ vẫn béo phì như thế nào. Sau một thời gian thì nhóm hỗ trợ tan rã, nhưng vào những mùa hè khi chúng tôi một, hai và ba tuổi, họ vẫn đưa chúng tôi đến Rockwood chơi. Chúng tôi sẽ tè trong bồn tắm trẻ con và giành đồ chơi của nhau. Tình bạn của các bà mẹ sau này đã trở nên xấu đi. Tôi không rõ tại sao. Tôi cho là vì cuộc sống của họ trở nên phức tạp hơn. Hai người trong số họ đi làm trở lại. Bố mẹ của Tibby chuyển đến sống ở trang trại gần Rockville Pike. Có lẽ các bà mẹ của chúng tôi chưa bao giờ thực sự có nhiều điểm chung lắm, trừ việc có bầu gần như cùng thời điểm. Ý tôi là khi nghĩ về họ ta sẽ thấy đó là một nhóm kỳ lạ: mẹ của Tibby, một người có quan điểm cấp tiến và trẻ tuổi; mẹ của Lena, một người Hy Lạp tham vọng và rất hay tham gia các hoạt động xã hội ở trường; mẹ của Bridget, một cô người Alabama trẻ; và mẹ tôi, một người Puerto Rico với một cuộc hôn nhân trắc trở. Nhưng vào lúc đó, họ có vẻ như là bạn của nhau. Tôi thậm chí còn có thể nhớ đôi chút về việc đó. Hiện giờ các bà mẹ chúng tôi duy trì một tình bạn được xếp hạng đâu đó dưới các ông chồng, con cái, sự nghiệp, nhà cửa và tiền bạc. Ở đâu đó giữa việc phơi nắng ngoài trời và thưởng thức âm nhạc. Đối với chúng tôi thì không thế. Mẹ tôi bảo tôi “Hãy chờ đến khi các con nghiêm túc với trường học và các cậu trai. Hãy chờ đến khi các con bắt đầu cạnh tranh mà xem.” Nhưng mẹ đã nhầm. Chúng tôi không để điều đó xảy ra với chúng tôi đâu. Cuối cùng thì tình bạn của các bà mẹ cũng không phải là tình bạn của các bà nữa, mà chuyển thành tình bạn của chúng tôi, các cô con gái. Các bà mẹ thì như thể những cặp vợ chồng đã ly dị, không có gì chung trừ con cái và quá khứ. Thực sự thì họ có vẻ lúng túng với nhau, nhất là sau việc xảy đến với mẹ Bridget. Có gì đó như là nỗi thất vọng và có lẽ còn một vài điều bí mật giữa họ, vì vậy họ vẫn duy trì vẻ dè dặt với nhau. Chúng tôi bây giờ là các “nhân vật” tháng Chín. Những tháng Chín thực sự. Chúng tôi là tất cả của nhau. Chúng tôi không cần phải nói ra điều đó; điều đó đơn giản là sự thật. Đôi khi có vẻ như chúng tôi gần gũi đến độ trở thành một con người hoàn chỉnh duy nhất chứ không phải bốn người tách biệt. Chúng tôi thuộc những tuýp riêng: Bridget - con người thể thao, Lena - người đẹp, Tibby - kẻ nổi loạn, và tôi, Carmen, người… gì nhỉ? Cô gái cáu kỉnh. Nhưng là người quan tâm đến việc chúng tôi gắn bó với nhau nhất. Bạn có biết bí quyết là gì không? Đơn giản lắm. Chúng tôi yêu quý nhau. Chúng tôi tốt với nhau. Bạn có biết rằng điều đó hiếm thấy thế nào không? Mẹ tôi nói rằng mọi sự không thể thế mãi, nhưng tôi thì tin là mọi sự sẽ vẫn như thế. Cái quần như là một điềm báo vậy. Nó đại diện cho lời hứa mà chúng tôi hứa với nhau, rằng dù có xảy ra chuyện gì, chúng tôi cũng sẽ luôn gắn bó với nhau. Nhưng nó cũng đại diện cho một thách thức nữa. Ở mãi Bethesda, bang Maryland, và sống trong những ngôi nhà có điều hòa thì không đủ. Chúng tôi đã hứa với nhau rằng một ngày nào đó sẽ ra ngoài thế giới kia và cùng nhau khám phá nhiều thứ. Tôi có thể giả vờ là một con người sâu sắc, trung thành và đánh giá cao cái quần ngay tắp lự, hoặc tôi cũng có thể rất trung thực mà kể với bạn rằng tôi chính là người gần như đã ném nó đi. Nhưng việc đó khiến chúng ta cần lùi lại một thời gian để tôi có thể kể cho bạn nghe Cái quần Du lịch đã ra đời như thế nào. Mời các bạn đón đọc Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đầu Xanh Tuổi Trẻ
Review Nguyễn Hữu Cát:   Không hiểu sao khi đọc xong “Crôtcaia” – một truyện ngắn giả tưởng của Dostoevsky, tôi cứ luôn ao ước (như Pautopsky) được nhìn vào đôi mắt của nhà văn, nơi câu chuyện được sinh ra. Chẳng biết khi đặt bút viết những lời kết, có dòng lệ nào lăn chảy trên gương mặt gày gò của ông hay không và đôi mắt màu nâu xám có ánh lên tia nhìn buồn bã, thương cảm và bàng bạc niềm u uẩn không? Chỉ biết rằng nếu được nhìn vào đôi mắt ông, có thể tôi sẽ hiểu được nhiều điều bên dưới những con chữ kia. Phải, truyện ngắn này gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt, một xúc cảm mạnh mẽ và một chấn động kinh hoàng. Nó giống như một cơn mộng mị mà khi tỉnh dậy ta còn bàng hoàng không biết là thực hay là mơ? Dostoevsky thích tạo ra mâu thuẫn và những điều bí mật, thậm chí “những điều kỳ quặc” trong kết cấu tiểu thuyết của mình và cho rằng không nhất thiết một tác phẩm phải trình bày tuần tự, sáng rõ để người ta hiểu ngay từ lúc ban đầu. Ông có thiên hướng kích thích người đọc phải săn tìm những điều bí mật ẩn sâu trong tác phẩm. Chính vì thế, ông thường tạo kịch tính ngay ở đầu, ngay ở phần mở đầu tiểu thuyết với những câu hỏi hóc búa. Ông cũng làm như thế với những truyện ngắn của mình. Từ hình thức tự do không giới hạn của tiểu thuyết chuyển sang hệ thống chặt chẽ và khép kín của truyện ngắn, Dostoevsky đã đạt đến đỉnh cao mới của nghệ thuật viết truyện. “Crôtcaia” (hay “Người đàn bà nhẫn nhịn”) là một truyện ngắn bi kịch có sức mạnh phi thường, nó đạt tới độ tự chiếu sáng, vừa trong sáng, mực thước như một họa phẩm chân dung của Rembrant thời Phục hưng, vừa sâu sắc, súc tích như một thi phẩm tình yêu của Puskin. Đọc truyện “Crôcaia” ta có cảm giác như bước vào một căn phòng tối, xa lạ, không nhìn thấy gì và không biết gì hết. Đến khi quen với bóng tối, mắt ta trở nên tinh hơn và bắt đầu nhận biết được các sự vật. Dostoevsky đã phá hủy hình thức bền vững của truyện ngắn cổ điển, ông đưa người đọc đến ngay một sự cố bất thường rồi sau đó phát triển số phận và nhân cách của nhân vật trong giới hạn của sự căng thẳng tinh thần mà nhân vật phải đối đầu. Nói cách khác, nội dung và tính kịch của truyện ngắn được khép kín trong vòng tròn độc nhất của “tai biến nội tâm”. Tất cả được tập trung, xâu chuỗi, đắp nổi cho hình tượng nhằm làm nổi bật cái chấn động tinh thần dữ dội ở nhân vật. Tấn bi kịch của câu chuyện được nhà văn gỡ nút ngay từ sự gợi mở ban đầu: Một người chồng đau khổ, trên bàn của anh ta là thi thể người vợ, trước đó mấy giờ cô ấy lao mình ra ngoài cửa sổ tự tử. Anh ta đang trong cơn bối rối, hoảng loạn, và muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra, cố gắng “tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm”. Đoạn kết của câu chuyện được đặt thành đoạn mở đầu đã xác định cấu trúc vòng tròn của truyện ngắn. Đó là kiểu “truyện ngắn xoáy trôn ốc”, các đường xoáy của nó tách ra dần điểm xuất phát nhưng điểm gỡ nút ở cuối đường xoáy lại được đặt ngay lên phần đầu. Chương đầu tiên có tên gọi: “Tôi là ai và nàng là ai”. Nhà văn bắt đầu đưa người đọc dõi theo tiểu sử của nhân vật nữ chính trong truyện, số phận bất hạnh của cô cùng tính cách của một tâm hồn non trẻ bị xúc phạm và đè nén trước những bước đi thô bạo của cuộc đời. Mồ côi cha mẹ từ năm mười hai tuổi, cô phải sống trong sự ghẻ lạnh của hai bà dì và gần như trở thành nô lệ cho họ. “Chẳng có tội gì họ cũng đánh đập nàng, cũng đem miếng cơm, manh áo ra mà chửi nàng. Kết cục là họ có ý định đem bán nàng đi”. Thế là Crôtcaia lúc bấy giờ sắp bước sang tuổi mười sáu phải tìm mọi cách thoát thân bằng việc đăng báo tìm việc làm hoặc chốn nuôi ăn. Để có tiền trả công quảng cáo, cô đã phải đem đến tiệm cầm đồ những vật rẻ tiền của cha mẹ: một đôi hoa tai bạc mạ vàng, một cái huy chương bong nước mạ, một viên đá chạm, bức tượng thánh cổ có cái khung bằng bạc… Trong những thứ đó, bức tranh thánh là một hình ảnh nghệ thuật đầy sức ám ảnh mà chúng ta sẽ thấy trong phần cuối cùng của vở bi kịch và đóng vai trò quyết định trong việc hình thành ý đồ sáng tác của Dostoevsky. Đan lồng với câu chuyện số phận của nhân vật nữ là câu chuyện tiểu sử của ông chủ hiệu cầm đồ – sau này là chồng của cô và là người kể lại toàn bộ tấn bi kịch. Đó là một người đã luống tuổi, nghiêm nghị và lãnh đạm với mọi người. Ông ta bị đuổi khỏi trung đoàn và bị sỉ nhục là hèn nhát, không dám nhận lời thách đấu với kẻ thù đã nói xấu cấp trên của mình. Nhưng bản thân ông ta không chấp nhận sự xúc phạm này, dũng cảm coi thường dư luận và sự kết tội bạo ngược. Thế là “từ một người cao thượng ông ta trở thành một người cho vay nặng lãi”. Toàn bộ không gian câu chuyện đều dành hết cho hai nhân vật này. Mặc dù kết cấu của truyện ngắn là tính cô đọng nhưng hai nhân vật này đều được miêu tả khá cặn kẽ qua bút pháp của nhà văn. Như một nghệ sĩ nhiếp ảnh bậc thầy, Dostoevsky nắm bắt những khoảnh khắc đáng ghi nhớ ở nhân vật, làm sống động những vẻ đẹp chợt hiện ra. Ông đặc biệt chú ý đễn những biểu hiện đa dạng trên nét mặt con người, bởi “chỉ trong những khoảnh khắc hiếm hoi, nét mặt con người mới thể hiện rõ đặc điểm cơ bản của mình” (tiểu thuyết ” Đầu xanh tuổi trẻ”). Trên nét mặt Crôcaia thể hiện một nỗi u uẩn, sự kinh ngạc nhiều khi thành hãi hùng trước những cơn bão tham tàn của cuộc đời và cả sự cao thượng của một tâm hồn thơ trẻ. Vóc dáng bề ngoài của cô không quá đặc biệt nhưng vẫn gây chú ý và thiện cảm tới người đọc: vóc người mảnh dẻ, tóc vàng, đôi mắt màu xanh, to đẹp, và trầm ngâm. Cái nhìn nhiều khi nghiêm khắc và nụ cười luôn chứa đựng hoài nghi. Toàn bộ con người Crôtcaia cho tôi cái cảm giác về một sự lắng đọng và chưa định hình của đường nét. Nó giống như bức tranh vừa được phác thảo bằng bút chì. Bên cạnh đó, chân dung tự họa của nhân vật kể chuyện giúp ta hình dung rõ nét hơn mặc dù chỉ là những nét khái quát: đó là một sĩ quan về hưu của một trung đoàn lừng danh, một người có vóc dáng cân đối, cao đẹp và có học thức. Cái nút lãng mạn của câu chuyện mà từ đó tấn bi kịch xảy ra chính là mối quan hệ của người cho vay nặng lãi với cô gái nghèo đáng thương. Cô gái lấy người cho vay nặng lãi. “Thực ra cô ta chẳng biết nhờ cậy vào ai”. Cái ý nghĩ “năm nay tôi bốn mươi mốt tuổi còn nàng vừa đến tuổi mười sáu” đã mê hoặc người kể chuyện – “đó là cảm giác không cân đối, ngọt ngào quá, ngọt ngào quá”. Thế nhưng thực tế, cuộc sống vợ chồng của họ thì ra sao? Có ngọt ngào không? Chính trong lúc bắt đầu một cuộc sống mới với người vợ trẻ, ông ta đòi hỏi một tình cảm lớn, phác thảo những suy nghĩ, mở ra những ý định và những dự kiến thầm kín. Ông ta “tạo ra cả một hệ thống”, một sự nghiêm khắc, giá lạnh, kìm hãm niềm hăng say của tuổi trẻ, một quá trình tính toán nhưng điều độ, lịch thiệp nhưng hết sức tiết kiệm. Và điều quan trọng nhất chính là sự tiết kiệm, ông ta cần có ba chục ngàn để đến sống vĩnh viễn ở Crưm. Tuy nhiên, câu chuyện về cuộc sống vợ chồng của họ tự nó “đi bước đầu tiên”. Một sự im lặng bao trùm, một sự lạnh lung khó hiểu, ngoài những cơn cãi cọ thì giữa họ là một khoảng lặng. “Nổi loạn và độc lập” – đó là những gì bắt đầu manh nha trong tâm tính Crôtcaia, “nàng phản kháng không phải là sự nghèo khổ, mà dường như là tính tằn tiện trong việc tiết kiệm” của chồng. Mối bất hòa của họ tăng lên khi nàng đột nhiên nghĩ ra cách trả tiền theo cách riêng của mình, đánh giá các đồ gửi cao hơn giá trị và đã không được sự chấp nhận của chồng, vốn là người tiết kiệm và ghét thói xa xỉ. Thế là Crôtcaia nổi loạn. Dostoevsky đặt tiêu đề cho chương này là “Người đàn bà nhẫn nhịn vùng lên”. Cô ta quyết định trả thù người làm ơn nhưng cũng là người làm khổ cô ta. Để trả thù, cô tìm đến người bạn cũ của chồng, viên sĩ quan Ephimovich, kẻ khởi xướng việc đuổi chồng cô ra khỏi trung đoàn và đã hẹn hò với hắn ta. Nhưng ngay trong buổi hẹn hò đầu tiên của họ, người chồng đã theo dõi họ từ gian phòng bên cạnh với khẩu súng lục trong túi. Dostoevsky đã diễn tả một cách ngắn gọn và hàm súc cuộc gặp gỡ này như một đoạn phim ngắn. Nhân vật nữ “trong phim” đã tạo ra cao trào khi chính cô đã tỏ ra là một người cao thượng, một kẻ vô tội, “cơn thịnh nộ làm cho trái tim nàng thốt ra những lời cay độc” trước tên Ephimovich. Điều này đã khiến người chồng tin tưởng vào sự trong sạch của nàng. Anh ta phá ngang vở kịch bằng cách mở tung cửa và đưa Crôtcaica đi. Thế nhưng, bi kịch lại nối tiếp bi kịch, một xung đột mới tiếp ngay sau sự kết thúc của xung đột trước. Đỉnh điểm của câu chuyện bắt đầu khi người thiếu phụ trẻ dí mũi súng vào thái dương người chồng đang ngủ. Nhưng thực ra ông ta không hề ngủ. Ông ta biết hết chuyện gì đang diễn ra. “tôi nghe thấy tất cả, mặc dù lúc đó là thứ im lặng chết chóc, nhưng tôi nghe thấy thứ im lặng đó”. Mắt họ đã giao nhau chính trong khoảng khắc chết người đó. Một hành động co giật đã khiến ông ta mở mắt và bốn mắt họ gặp nhau. Tại sao ông ta không chống cự lại? “Cuộc sống của tôi còn để làm gì nữa sau khi con người mà tôi say đắm đã nâng khẩu súng chĩa vào tôi?”. Hóa ra ở thẳm sâu tâm hồn người cho vay nặng lãi nghiêm khắc và lãnh đạm này vẫn ẩn giấu một tình cảm lớn lao, câm lặng và vô vọng. Dostoevsky đã tạo dựng một tấn bi kịch nghẹt thở ngay ở điểm trung tâm của câu chuyện. Một bước ngoặt bất ngờ của một mưu đồ đã được vẽ ra nhưng mờ khuất trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của những biến động nội tâm. Và từ đây, câu chuyện đột ngột rẽ sang một hướng khác. Đúng hơn là rơi vào một khoảng ngưng dài mà tính kịch của nó chỉ tiếp tục khi có sự bột phát và chấn động mới ở tâm hồn nhân vật. Phần thứ nhất của câu chuyện dừng lại ở cuộc ly hôn giữa đôi vợ chồng trẻ. “Cô ta đã thắng nhưng không được tha thứ”. “Yêu đời vì đời, và mơ mộng vì tình yêu thực tại“, làm khổ mình vì mình và yêu thương kẻ khác cũng vì mình, nhân vật của Dostoevsky nhiều khi khiến chúng ta không thể hiểu nổi. Họ hiền hậu, vô tâm, lãnh đạm, hoặc ác nghiệt chăng? Không hoàn toàn! “Họ là những người của sự bắt đầu lại“(Xvaig). Họ luôn bị kích động và rối loạn. Họ như đến từ thế giới khác, họ thờ ơ với tất cả, coi khinh tất cả và chẳng trông mong điều gì. Dường như Dostoevsky đã không thể như các nhà văn khác ( Dicken chẳng hạn) chỉ ra cho các nhân vật của mình cái thi vị dưới lớp tro của cuộc sống hàng ngày đơn điệu và bắt họ hãy an lạc trong chính bản thân mình. Các nhân vật của ông thường hay nổi loạn, “ý chí của họ phủ nhận cõi hạ giới này và ngang nhiên bất bình với cuộc đời trước mắt” và điều đáng sợ hơn là họ chối bỏ những gì là thân thiết với mình, sẵn sang bùng cháy như một ngọn lửa. Ở hai nhân vật chính của câu chuyện này, ta có cảm giác niềm căm phẫn luôn giống tình yêu và tình yêu luôn giống niềm căm phẫn. Với họ, mỗi oán thán là một lỗi lầm, và mỗi nhún nhường là một biểu hiện yếu đuối. Họ ngấm ngầm đối đầu nhau, không ai phục ai, không ai nhường ai. Tuy nhiên, cuộc giằng co này đã bị phá vỡ ở phần tiếp của câu chuyện trong một xung đột tâm lý mới. Đỉnh điểm của tấn bi kịch sẽ hòa lẫn với đoạn kết của nó. Tình yêu của người chồng đối với Crôtcaia là sự căm phẫn đã được biến đổi, là lòng thương hại chuyển hóa từ nỗi khỉnh bỉ, là sự hờn dỗi, báo thù, hành hạ, song xen vào tất cả, có một thứ tình cảm ấm nóng nguyên sơ, một tình yêu say đắm chân thành vẫn luôn im lìm, ấp ủ nhựa sống bên trong con người ông ta. Chính hạt giống tinh thần ấy đã đánh vỡ sự lạnh lùng đông cứng trong tâm hồn người cho vay nặng lãi. Ông ta “không thể kìm hãm cơn hào hứng đã sôi động trong trái tim”, “toàn bộ con người tôi xốn xang và thế là tôi té xỉu dưới chân nàng. Đúng là tôi đổ vật vào chân nàng. Nàng đứng phắt dậy, nhưng tôi đã huy động một sức mạnh phi thường dang cả hai tay ôm chặt nàng lại”. Hành động của người chồng là biểu hiện “đầy say mê đến mức độ đau khổ” những cơn dằn vặt đầy ẩn ức đã chất chứa trong lòng ông bấy lâu. Ông ta cứ nhắc đi nhắc lại từng phút một: “anh sẽ không đòi hỏi bất cứ điều gì nơi em, em không phải trả lời anh bất cứ câu gì, em hoàn toàn không phải để mắt đến anh, chỉ cần cho anh được đứng nơi góc nhà nhìn em là đủ, em hãy biến anh thành một thứ đồ vật, thành một con chó con của em”. Rồi ông ta rủ cô đi về miền Nam, đi Pháp, “mà cái chủ yếu là phải đi Bulônnhơ, đi Bulônhơ!”. Ông ta tin rằng Bulônnhơ là tất cả, rằng ở đấy sẽ có một cái gì kết thúc trọn vẹn, và “tình hình sẽ khác hẳn“. Thế nhưng chính trong cái thời điểm ông ta đang cao hứng, đang tràn trề hi vọng, đang tin tưởng một cách nhiệt thành rằng “màn khói sắp rơi xuống” thì tai họa cuối cùng chín muồi, mọi thứ đột nhiên sụp đổ. Cơn bộc phát nội tâm và niềm say mê muộn màng của người chồng đã chẳng đem đến một tia sáng nào. Crôtcaia đã từ chối những tình cảm mãnh liệt đến với mình. Nàng cầm trong tay vật thiêng liêng – bức tranh thánh mà cha mẹ để lại – nhảy qua cửa sổ giữa đôi tay giang rộng của Thần chết. Vụ tự tử này nằm trong sự tương phản nội tại của sự kiện, sự kết hợp bất thường giữa nỗi tuyệt vọng và niềm tin, giữa hủy diệt và cơ hội phục sinh, giữa cái chết và tình yêu. Cái kết cục bi kịch đã tháo tung ra mọi quan hệ thầm kín và rắc rối. Người chồng gắng sức biện bạch bằng sự ngẫu nhiên. Chính điều này là lý do mà ngay từ sự xuất hiện ban đầu, ông ta đã đem lại cho tôi ấn tượng về sự ngu dại. Tuy nhiên, sau đó tôi phải thay đổi ngay cách nhìn của mình, chính sự ngẫu nhiên cay đắng đã đẩy ông ta vào cơn đau khổ cùng cực, khiến cho tâm hồn ông ta bị vỡ tung ra thành nhiều mảnh. “Điều chủ yếu, điều đáng giận là tất cả những chuyện ấy lại là ngẫu nhiên, một thứ ngẫu nhiên đơn giản, dã man và hủ lậu!”. Ông ta gào lên: “Ôi man rợ, man rợ! Vô lý! Không có lẽ! Không thể thế được!” Sự trùng hợp quái ác nào đây, cơn điên loạn cùng cực nào đây, địa ngục tăm tối nào đây, lỗi lầm mù quáng nào đây? Hay tất cả chỉ là trò chơi tàn nhẫn của định mệnh, là sự trêu cợt cố ý của tạo hóa? Nhân vật gần như phát điên, ông ta đang trong sự đày ải của ý thức, trong những đau khổ giằng xé, trong những cơn sốt, những cơn co thắt. Kẻ cô đơn giờ đây đã mất hết mọi thứ, ông ta chẳng còn thiết tới những luật lệ nữa, tự nguyện dứt bỏ mọi quy luật của cuộc sống. “Người ta bảo rằng mặt trời làm sống dậy vũ trụ. Bao giờ mặt trời mọc lên, các vị thử nhìn mà xem, đó chẳng phải là một xác chết hay sao? Tất cả đều chết, khắp nơi là những xác chết”. Đối với con người đang vấp phải những chấn động dữ dội trong tinh thần thì mọi cái đều đã tiêu ma. Còn gì níu kéo nữa đâu? Thiên nhiên, tín ngưỡng, đạo đức, tình yêu, lòng vị tha…? Cái gì có thể lấp đầy sự trống rỗng của tâm hồn ta khi người con gái ta yêu đã rời bỏ ta, rồi ta sẽ ra sao? Ta đã chết niềm tin vào cuộc sống với những nguyên tắc và quy luật của nó, ta còn có thể làm gì đây, còn có thể làm gì khi chính chúng đã xúc phạm ta??? Có thể nói,”Crôtcaia” là một mẫu mực xuất sắc về độc thoại nội tâm của Dostoevsky. Thông qua quá trình nhận thức mọi biến cố đã xảy ra bằng cách “cố gắng tập trung mọi ý nghĩ vào một điểm” và cách lập luận, suy nghĩ biện chứng phức tạp của người kể chuyện, nhà văn đã ghi lại tư tưởng hỗn loạn, tuyệt vọng của con người đau khổ khiếp sợ trước sự cô độc của mình. Ở đây có một cái gì thầm lặng và khó đoán định. Một cái gì gần như là chân lý. Sự khủng hoảng thế giới quan, những chấn động tư tưởng và sự sụp đổ tinh thần phải chăng là tấn bi kịch muôn đời của con người? Muốn viết được một câu chuyện có sức hấp dẫn nghệ thuật đặc biệt, nhà văn “cần phải dự trữ một hoặc một vài ấn tượng mạnh mẽ mà con tim tác giả đã thể nghiệm thực sự” (Dostoevsky). Tất cả những gì được truyền tải qua các hình tượng nghệ thuật đều mang trên mình nó dấu ấn những xúc động, tình cảm, khát vọng của nhà văn, những cơn “lắng đọng trong câm lặng” và cả “những giây phút hào hển của những khoảnh khắc bi tráng”. Nhà văn phải hóa thân thành hình tượng đã tưởng tượng ra. Điều này không hề dễ dàng. Ở tác phẩm này, Dostoevsky đã phải hóa thân vào hai nhân vật, khi là cô gái nhu mỳ mười sáu tuổi với tâm lý thơ trẻ, với những cơn bộc phát cảm xúc, thốt nhiên bừng giận, thốt nhiên hổ thẹn, khi thì trở thành người đàn ông cho vay nặng lãi với những cơn kịch biến trong tư tưởng và tâm hồn. Trong những lần hóa thân ấy, cái được nhận thức và cái được thể nghiệm đã kết thành một hợp chất hữu cơ. Tuy nhiên, phạm vi của cái được nhận thức và chiều sâu của cái được thể nghiệm nhiều khi không hề trùng khớp với nhau. Chính điều này đã tạo nên vẻ bí mật cho các nhân vật của Dostoevsky mà chính ông cũng không thể lường hết được rốt ráo cái chiều kích khôn lường của tâm hồn nhân vật và chụp cho nó cái khung. Bóng dáng của chúng không phải khoan thai bước từng bước vững chãi trên “đại lộ của đời thương” mà chập chờn trong cuộc dấn thân miên man vào “mê lộ của cái khác thường”, trong bóng tối, ảo giác, với những nỗi ám ảnh, những cơn khô kiệt, những cuộc hủy diệt, nổi dậy, tan rã. Ở Crôtcaia và người đàn ông cho vay nặng lãi, chúng ta nhìn thấy một sự bùng cháy bên trong, sự bùng cháy tưởng như có thể đè nát ý thức nhân vật và ở đỉnh điểm của nó có khả năng đưa đến nỗi đau khổ vô bờ bến. Mọi thể chế, quy phạm của truyện ngắn cổ điển dường như đánh mất mình ngay trong tác phẩm này của Dostoevsky. Ông đã đặt toàn bộ cuộc đời con người vào hình thức nhỏ bé của truyện ngắn, chỉ ra ranh giới giữa vĩnh cửu và thân xác phù sinh của họ, thông qua những mâu thuẫn, giằng xé để đi đến đường biên tột cùng của sự nổi loạn. Và tất cả được thể hiện bằng những phương pháp và nguyên tắc sáng tạo cao nhất của nhà văn. “Crôtcaia” đã đem đến cho tôi nhiều suy nghĩ mới mẻ, nhiều ấn tượng lạ lẫm về cuộc sống và chiều sâu thế giới tinh thần con người. Tác phẩm đã không cho phép tôi quên tình cảm cao thượng của sự nhún nhường, những đày ải của sự câm lặng và nỗi đau có thể đến từ những điều ta không thể ngờ. Có lẽ chưa từng có truyện ngắn nào khiến tôi phải thổn thức nhường ấy, nào biết đó là nỗi thổn thức của riêng tôi hay là nỗi thổn thức của cả cuộc sống đây…? (24/01/2013) *** Dostoievski: tiếp tục Ngập ngừng, tôi định viết tiếp bài ở kia, rồi tôi lại thôi, chờ đợi tiếp. Chờ đợi cái gì thì tôi không rõ. Cuốn tiểu thuyết Thằng ngốc là một trong những gì gây choáng ngợp nhất mà Dostoievski từng viết, sự choáng ngợp bắt đầu từ dòng đầu tiên, khi đoàn tàu hỏa từ hướng Vacsava bắt đầu chạy vào địa phận Saint-Petersburg. Một cuốn tiểu thuyết Nga khác cũng mở đầu bằng đoàn tàu: Anna Karenina, nhưng tất nhiên cuốn sách ấy rất khác so với Thằng ngốc. Dostoievski đã đọc, dường như rất kỹ, Anna Karenina, và có ghi lại vài điều; chưa bao giờ Dostoievski và Tolstoy gặp nhau: họ từ chối gặp nhau. Tôi cũng ngập ngừng, sau ba tập sách dày (xem ở kia), tức là đến 1864, mãi không quyết định được là có tiếp tục không. Nếu tiếp tục, thì tức là sau (ngay sau) Balzac, tôi sẽ đọc (trong đó một số là đọc lại, nhưng cũng có những thứ lần đầu tiên đọc: điều này rất quan trọng, tôi sẽ còn trở lại sau) hết sạch Dostoievski. Nếu "theo" các bản dịch của André Markowitz, cụ thể là theo ấn bản trong tủ "Thesaurus" của nhà xuất bản Actes Sud, thì tổng cộng có năm tập to; sau khi xơi tái xong ba tập đầu, tôi đã đi đến quá nửa. Tôi ngập ngừng rất lâu (lâu hơn "mức bình thường" của tôi nhiều). Vả lại, vì trước đó tôi đã đọc "lẻ" Karamazov (trong ấn bản cũng của Actes Sud nhưng không thuộc hệ thống năm tập "Thesaurus") nên thành thử tôi đã đi xong đoạn đầu và cuốn tiểu thuyết lớn nhất của đoạn cuối: ta nhớ Karamazov in năm 1880, đó chính là tác phẩm lớn cuối cùng của Dostoievski, sau đó chỉ còn một "đít cua", một bài phát biểu về Pushkin nữa, rồi Dostoievski chết. Cuối cùng, tôi cũng quyết định. Tôi quyết định nhảy xuống nước. Tôi đọc (lần này, vẫn là đọc lại) cuốn tiểu thuyết lớn ngay trước Karamazov: Trong tiếng Việt, tác phẩm này hay được gọi là Đầu xanh tuổi trẻ. Đây là cả một sự kinh dị lớn lao. L'Adolescent (Đứa thiếu niên) là một niềm kinh dị. Đọc lại nó, tôi bắt đầu hiểu tại sao tôi (từng) ngập ngừng đến thế. Tôi đã dự cảm được, ở lần đọc lại cuốn tiểu thuyết này, tôi sẽ thấy. Thấy gì? Đứa thiếu niên là một sự hội tụ của một điều rất quan trọng. Điều này liên quan đến cả Dostoievski lẫn độc giả siêu hạng nhất của Dostoievski: Bakhtine. Đứa thiếu niên (1874-1875) cho thấy một điều đối với tôi đã tường minh hơn bao giờ hết: thời điểm viết cuốn tiểu thuyết này, Dostoievski đã nhìn thấy. Đã nhìn thấy điều then chốt nhất, chính là điều làm cho Dostoievski trở nên quan trọng như vậy (tôi muốn nói: gây phiền nhiễu lớn đến vậy; bởi vì không nhà văn nào gây nhiều trắc trở cho đọc như Dostoievski; đọc Dostoievski chính xác là độ không của đọc: tôi nghĩ là tôi nhìn thấy một điều rất quan trọng, có biểu nghĩa rất lớn, ở việc trong suốt cuộc đời Roland Barthes hết sức tránh nhắc đến Dostoievski; bởi vì phải tránh thôi). Tôi hình dung Bakhtine cũng nhìn thấy như vậy; nói đúng hơn, Bakhtine đã theo chuyển động của Dostoievski (chuyển động thuộc loại khó hình dung nhất - chính vì vậy văn chương Dostoievski gây phiền nhiễu khủng khiếp đến vậy) và đến chỗ chuyển động trở nên tường minh, nói ngắn gọn, đến chỗ chuyển động chạm đến cấu trúc. Những điều tôi vừa nói chắc chắn trông có vẻ trừu tượng (nhưng cả ở đây, tôi cũng thấy chúng hết sức cụ thể), tôi sẽ còn quay lại, một cách kỹ càng: cụ thể hơn nữa, tôi sẽ dựng lại câu chuyện Bakhtine đọc Dostoievski. Bakhtine đã nhìn thấy gì? Đứa thiếu niên, trước hết, là khi Dostoievski nghịch với một điều: sự trùng tên. Ai từng đọc cuốn sách này còn nhớ thằng bé nhân vật chính khi đi học rất khốn khổ vì trên giấy tờ nó mang họ "Dolgorouki" tức là giống họ một gia đình "ông hoàng" cực kỳ danh giá; không một ai không hỏi nó có phải là "prince" hay không, nhưng về danh nghĩa nó lại là con của một cựu nông nô (mặc dù sự thật thì nó là con một người danh giá hơn nhiều, Versilov). Chưa hết, Dostoievski còn tạo ra hai gia đình cùng là "prince" nhưng hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, và đều có họ Sokolski. A, nhưng tại sao lại có lắm "prince" như thế? Ta nhớ, nhân vật chính của Thằng ngốc cũng chính là một "prince", và các "prince" xuất hiện ở khắp mọi nơi trong (gần như) mọi tác phẩm của Dostoievski. Đó là vì xã hội Nga hồi đó rất nhiều "prince". Tôi đã phải đọc hàng đống thứ để cố tìm hiểu tại sao lại có lắm "prince" Nga như vậy; ở một khía cạnh khác, một nhân vật trong Karamazov (chuyện "một nhân vật" là hết sức quan trọng, tôi sẽ còn quay trở lại) cũng phát biểu đầy khinh miệt rằng người Ba Lan quái nào cũng là "bá tước" hết: điều này rất đúng: trong một câu chuyện của Balzac nhân vật chính là một quý tộc Ba Lan, Laginski, và đó cũng là một bá tước (xem ở kia). Tôi nhắc ngay đến Balzac là vì Đứa thiếu niên, trong mắt tôi, là cuốn tiểu thuyết rất Pháp (cuốn tiểu thuyết "rất Anh" của Dostoievski, chắc nhiều người biết, là Những kẻ tủi nhục); thậm chí tôi còn nghĩ là tôi thấy âm hưởng Balzac trong Đứa thiếu niên: một nhân vật phụ, bạn học của thằng bé nhân vật chính tên là Lambert, một học sinh, và tên là Lambert, đương nhiên ta nghĩ đến Louis Lambert của Balzac, không những thế, trường mà bọn trẻ con theo học trong Đứa thiếu niên tuy ở Nga nhưng lại là trường của một người Pháp, Touchard; nếu điều tôi vừa nói là "quá yếu" thì vẫn còn một điều nữa tuyệt đối không thể chối cãi: Đứa thiếu niên có (một trong những) chủ đề chính là chủ đề không thể balzacien hơn: tiền. Nói thêm về sự trùng tên: suýt thì ta còn có thêm một sự trùng tên quái đản nữa, nếu nhân vật (phụ) Akhmakova được Dostoievski viết thành (Anna) Akhmatova. Nhảy xuống nước rồi, tôi thấy không có lý do gì để không tiếp tục. Dưới đây là một tác phẩm ngắn, nó nằm xen vào giữa Đứa thiếu niên và Karamazov: Mời các bạn đón đọc Đầu Xanh Tuổi Trẻ của tác giả Dostoievski.
Muốn Khóc Thật To
Muốn Khóc Thật To là tiểu thuyết mới của Sơn Paris - một hot boy 9x hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật được đông đảo bạn trẻ biết đến. Cuốn sách là lời tự sự dành cho tất cả những trái tim cô đơn và khao khát yêu thương. Muốn Khóc Thật To là tiểu thuyết tình yêu chất chứa nhiều cung bậc cảm xúc khiến trái tim người đọc tan chảy. Từ hạnh phúc tới đau thương, tất cả chỉ cách nhau một ranh giới bé nhỏ. Tình yêu vốn là thứ tài sản tuyệt vời nhất của con người, nhưng cũng chính là bể khổ mà bất cứ ai cũng phải nếm trải. Tuổi thanh xuân qua đi nhanh chóng, chỉ còn quá khứ và hoài niệm về một câu chuyện tình yêu đẹp và đau đớn sẽ ở lại vĩnh viễn. Muốn Khóc Thật To đề cập đến nhiều góc khuất trong đời sống của giới trẻ như tình yêu đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân… Những trang viết ấy chân thực nhưng không hề trần trụi và sống sượng. Ngược lại, Sơn Paris đã biết cách biến những gì “chai sạn” nhất trở nên thật mềm mại và giàu cảm xúc. Người đọc sẽ bị cuốn theo cuộc hành trình đi tìm kiếm chính mình của Phong và những người bạn của anh. Đó là cuộc hành trình đầy chông gai, nhuốm màu buồn, không ít cám dỗ và cũng đầy rẫy đau thương. Nhưng đó là thử thách cuộc sống mà bất cứ ai - đặc biệt là những người trẻ trong xã hội hiện đại đều phải trải qua. Cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn, cách giải quyết tình huống hợp lý, thắt mở nút biến hóa tài tình, Sơn Paris đã chứng tỏ một bước trưởng thành vượt bậc qua tiểu thuyết Muốn Khóc Thật To. *** Vân Hugo nhận xét: “Sơn là một chàng trai đặc biệt. Một cá tính lạ. Một tài năng luôn khát khao được bung trổ. Văn của em sâu sắc, trần trụi và thật, cái thật ấy đi vào tim tôi”. “Muốn khóc thật to” là tiểu thuyết mới của Sơn Paris - một hot boy 9x hoạt động trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật được đông đảo bạn trẻ biết đến. Cuốn sách là lời tự sự dành cho tất cả những trái tim cô đơn và khao khát yêu thương. "Muốn khóc thật to" là tiểu thuyết tình yêu chất chứa nhiều cung bậc cảm xúc khiến trái tim người đọc tan chảy. Từ hạnh phúc tới đau thương, tất cả chỉ cách nhau một ranh giới bé nhỏ. Tình yêu vốn là thứ tài sản tuyệt vời nhất của con người, nhưng cũng chính là bể khổ mà bất cứ ai cũng phải nếm trải. Tuổi thanh xuân qua đi nhanh chóng, chỉ còn quá khứ và hoài niệm về một câu chuyện tình yêu đẹp và đau đớn sẽ ở lại vĩnh viễn. “Chúng ta rồi sẽ tìm thấy một người, một người mà chúng ta sẵn sàng dành cả tuổi thanh xuân của mình để theo đuổi, một người khiến chúng ta từ chối tất cả những người đến sau, một người mà chúng ta vẫn luôn tin rằng, tuổi thanh xuân sẽ chẳng còn nghĩa lý nếu không cùng ở cạnh” (Trích: "Muốn khóc thật to"). "Muốn khóc thật to" đề cập đến nhiều góc khuất trong đời sống của giới trẻ như tình yêu đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân… Những trang viết ấy chân thực nhưng không hề trần trụi và sống sượng. Ngược lại, Sơn Paris đã biết cách biến những gì “chai sạn” nhất trở nên thật mềm mại và giàu cảm xúc. Người đọc sẽ bị cuốn theo cuộc hành trình đi tìm kiếm chính mình của Phong và những người bạn của anh. Đó là cuộc hành trình đầy chông gai, nhuốm màu buồn, không ít cám dỗ và cũng đầy rẫy đau thương. Nhưng đó là thử thách cuộc sống mà bất cứ ai – đặc biệt là những người trẻ trong xã hội hiện đại đều phải trải qua. Cốt truyện lôi cuốn và hấp dẫn, cách giải quyết tình huống hợp lý, thắt mở nút biến hóa tài tình, Sơn Paris đã chứng tỏ một bước trưởng thành vượt bậc qua tiểu thuyết "Muốn khóc thật to". Ngay khi chưa ra mắt, "Muốn khóc thật to" đã được MC Thanh Vân Hugo ưu ái nhận xét: “Sơn là một chàng trai đặc biệt. Một cá tính lạ. Một tài năng luôn khát khao được bung trổ. Văn của em sâu sắc, trần trụi và thật, cái thật ấy đi vào tim tôi. Tôi mất bốn ngày để đọc hết tiểu thuyết này. Những cảm xúc rất lạ cứ đan xen, vừa yêu đời lại vừa bi quan, những cặp đôi tôi thích lại không đến được với nhau, vừa đọc vừa tiếc vừa đau đáu... Có lẽ chính sự bất ngờ và dang dở lại khiến người ta trăn trở về tác phẩm này... Một tiểu thuyết đáng phải suy ngẫm…” "Muốn khóc thật to" đính kèm phụ bản Cho buồn bay theo gió và CD nhạc sách cùng tên do nhạc sĩ, ca sĩ Tăng Nhật Tuệ sáng tác. Cuốn sách do NXB Văn học ấn hành. *** Đôi tập làm quen với chữ “Quen” khi bắt gặp nhiều người. Họ đều không giống nhau. Có người cao hót vót, có người lại thấp hơn tôi. Kỳ quặc thật! Tôi vẫn thường tự hỏi, tại sao bà mụ lại sáng tạo đến thế, nặn nên hàng triệu người mà chẳng ai giống ai. Nếu có giống cũng chỉ là hao hao một nét nào đó. Chợt nghĩ, chắc lúc ấy bà bí bách quá, không còn nghĩ ra cái gì mới lạ để nặn nữa. Thành ra có người thì xấu hoắc, có người lại đẹp như tranh vẽ, từng nét đều cuốn hút vô cùng. Nhưng trái khoáy thay, chẳng ai là hoàn hảo. Người mà đẹp như tranh vẽ thì lại khiếm khuyết một vài thứ gì đó, hoặc là tính cách không đẹp như người, hoặc là chậm hiểu hay thiểu năng chẳng hạn. Cái tài đôi khi lẩn khuất sau một vỏ bọc sần sùi, thô ráp. Nhờ vậy mà họ đẹp lên. Tôi nghĩ, người ta bắt đầu “quen” nhau phải tính từ thời điểm có cuộc trò chuyện đầu tiên. Tức là hai người đối diện và đối thoại với nhau. Khi tiếp xúc rồi, tôi nhận thấy, tính cách con người không đa dạng như vẻ bề ngoài. Chắc chỉ có tới vài trăm tính từ để miêu tả tính cách của họ. Tôi thì thường nghĩ, ở mức độ quen, tính cách người ta chia ra làm ba loại: Dễ gần, khó gần và chẳng thể gần vì không cùng đẳng cấp. Tôi quen khá nhiều người. Có lần tôi ngồi và thử tính xem mình quen được bao nhiêu người. Con số đó lên tới khoảng vài trăm. Cho tới giờ, tôi vẫn coi đó là việc làm ngớ ngẩn và điên rồ nhất từ bé đến lớn của mình. Thật sự ngớ ngẩn. Nhưng nhờ đó mà tôi biết được trí nhớ của mình ở mức độ nào và chẳng hạn như khi tôi kết hôn, tôi sẽ ước chừng được khoảng bao nhiêu khách tới dự. Kể ra thì cũng không vô nghĩa cho lắm. Trong lần làm quen đầu tiên. Tôi không thích cho người khác biết tên thật của mình. Cũng chẳng có lý do gì đặc biệt. Chỉ là tôi thích như thế. Hãy cứ gọi tôi là Gió. Và tôi là con trai. 1. Tôi bước vào tuổi 16 giống như bao đứa con trai khác. Chất giọng ồm hơn khiến tôi hát chán hơn hẳn, mặc dù mẹ luôn giơ ngón tay cái khen tôi “đỉnh của đỉnh” mỗi lần nghe tôi hát. Có lần là khi bước ra từ nhà tắm, có lần ở phía cánh gà của sân khấu cực bự cấp trường. Tôi bắt đầu có thêm nhiều vùng lông rậm rạp. Cũng ra dáng đàn ông ghê rồi đấy chứ. Tôi cũng bắt đầu phải làm quen với việc cạo râu trước khi đi học, tò mò những câu chuyện cộp mác 16+, không kiểm soát được một số chỗ khi tivi chiếu cảnh hai người say đắm hôn nhau. Và tôi cũng thích thể hiện mình hơn. Sinh nhật tuổi 16. Cũng là dịp tôi vào ngôi trường mới. Nhiều thứ khác lạ. Tôi cũng khác lạ. Quà sinh nhật năm nay của tôi cũng khác. Tôi nhớ rõ nhất là bộ sữa rửa mặt và lăn khử mùi của nhóm bạn cùng lớp. Hồi ấy, lớp tôi có một loại quỹ riêng, đến sinh nhật của thành viên nào trong lớp thì sẽ được lớp trưởng trích ra một phần để mua quà tặng. Khi đó, với tôi, lớp trưởng còn to hơn cả bố. Được vào lớp hay không khi đến muộn cũng phụ thuộc vào tay nó. Đến cả việc tặng quà gì dịp sinh nhật của tôi cũng là nó quyết định. Lộng quyền thật mà. Tôi đâu có nhắc nó tặng tôi món quà ấy chứ. Mẹ mời cả lớp dùng cơm. Chúng nó vui lắm. Tính mẹ tôi hiếu khách và cũng cực kỳ chân thành. Mẹ chuẩn bị từ sáng sớm, dù phải đợi khi tan học thì cả lũ mới kéo nhau tới nhà tôi. Nhiều đứa đi học xa bố mẹ, chúng vui lắm khi tới dự sinh nhật của tôi. Có đứa còn làm diện với bộ quần áo tươm tất nhất. Có đứa thì ngồi ngay vào bàn ăn, nghe mùi khói thơm bay lên nức mũi. Tất cả các món ăn đều do mẹ tự tay làm, và đương nhiên, chúng cũng rất ngon. Buổi chiều hôm ấy, tôi cùng đứa bạn thân nhất đi lượn lờ vài cửa tiệm thời trang để sắm một bộ quần áo mới. Tôi dùng tiền mà bà ngoại và bố mừng ngày kỷ niệm 16 năm có mặt trên đời của mình để ra oai. Cảm giác có tiền trong tay rồi thích mua gì thì mua, công nhận đã thật. Tôi rất thích mặc áo trắng với một chiếc gi-lê đen bên ngoài. Tôi học được phong cách này từ những ca sĩ trên tivi. Giờ 16 tuổi rồi, mặc diện, mặc điệu một chút cũng chẳng hề hấn gì. Nghĩ vậy, tôi và nó bắt đầu công cuộc truy tìm chiếc áo như trong tưởng tượng của tôi. Dĩ nhiên là cuộc truy tìm thành công.   Mời các bạn đón đọc Muốn Khóc Thật To của tác giả Sơn Paris.
Mãi Yêu Em
Một câu chuyện '' kinh dị '' khoác áo diễm tình, kể về Judith - cô chủ tiệm bán đèn thông minh, xinh đẹp, song bị xếp vào diện ''quá lứa lỡ thì'' tình cờ gặp được một chàng kiến trúc sư lịch lãm với hành tung bí ẩn. Tác phẩm đã để lại ấn tượng đẹp với độc giả về giọng văn hóm hỉnh của Daniel Glattauer, khắc họa câu chuyện tình yêu giữa nàng Judith 37 tuổi, chủ hiệu bán đèn với chàng kiến trúc sư Hannes, 42 tuổi. Phía sau câu chuyện tình yêu ấy là nỗi sợ tình yêu cưỡng áp, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm, để rồi qua đó, tác giả truyền tải thông điệp trong tình yêu phải có sự tôn trọng từ cả hai phía, không được trói buộc. *** Cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em” của nhà văn Daniel Glattauer không phải là kiểu truyện tình yêu lãng mạn thông thường, mà nó còn ẩn chứa những chi tiết kì bí, lạ lùng, khiến độc giả không thể rời mắt khỏi cuốn sách. Nàng: Judith, 37 tuổi, đơn thân, chủ hiệu bán đèn. Chàng: Hannes, 42 tuổi, “không phải độc thân trở lại mà xưa nay vẫn độc thân”, kiến trúc sư. Chàng đã bước vào cuộc đời nàng thông qua cú giẫm gót đau điếng. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị.” Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà.” Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm.” Cô: “Cũng không đến nỗi.” Anh: “Vâng, vâng.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chào chị nhé.” Cô: “Vâng.” Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ.” Cô: “Anh cũng thế.” Vẫn vậy, Daniel Glattauer dẫn chuyện như-không, cây bút này có tài đẩy những chi tiết nho nhỏ trong đời thành hàng trang “diễm tình” rất duyên, khiến người đọc khó mà ngừng cười tủm tỉm. Mở chuyện chẳng có gì lạ, song ta không thể đặt cuốn sách xuống được, bởi bằng một cách nào đó, Daniel Glattauer tạo cho độc giả linh tính rằng cú xoay chuyển còn ẩn kĩ ở những trang sau. Hannes: cao 1,90 mét, nặng 85 kg - về ngoại hình chàng rắn rỏi, đầy nam tính. Hannes: “cùng lúc vừa nhút nhát vừa liều mạng, ngượng nghịu và trơ trẽn, tự chủ và bộc phát, bền bỉ một cách hậu đậu. Và anh biết anh muốn gì: gần cô.” - về tính cách chàng quả là dễ thương, hấp dẫn. Nhìn chung, Judith đã phải thừa nhận: “Anh là một dạng người khác hẳn những người khác từ xưa đến nay.” Nàng (và cả các độc giả) đều ngây ngất, đều tin tưởng vào tương lai ấm áp và hạnh phúc mà chàng mang lại. Dĩ nhiên sẽ là như thế nếu Judith không rơi vào... chứng loạn thần bởi chính tình yêu nồng cháy của Hannes. Judith đáng thương phát rồ phát dại trước sự hoàn hảo nơi Hannes, điều mà cả gia đình lẫn bạn bè cô đều không tài nào hiểu nổi (thậm chí họ đứng tuốt về phe anh), trừ Bianca - con bé học nghề trong cửa hiệu bán đèn - là đứng về phía cô: “Trời ơi, hãm thế cơ chứ, cháu hiểu cô. Cháu cũng không ưa ai bám theo mình, khi cháu không yêu người ấy nữa. Và cháu chuột rút cực nhanh, khi có đứa nào làm cháu nhức đầu.” Nhưng chuyện đâu chỉ “thường thường” như vậy, Daniel Glattauer khiến bạn đọc cảm thấy rờn rợn khi đột ngột hé lộ một chi tiết đáng ngờ ở quý ông Hannes, biến tình sử thành thước phim kinh dị: Đèn nhà chàng không bao giờ sáng – điều đó chẳng phải rất bất thường trong mắt cô chủ hiệu bán đèn sao? Rốt cục, việc Hannes gặp gỡ Judith có đúng là tình cờ? Liệu anh cần gì ở cô và ở hiệu bán đèn? Nếu đã quen với những câu chuyện mang hương vị lãng mạn như “Con sóng thứ bảyhay “Cưỡng cơn gió bấc”, ta sẽ tìm thấy Daniel bản-mới trong cuốn tiểu thuyết “Mãi yêu em”: tác giả khá “tinh quái” dẫn dụ độc giả đến với nỗi sợ - nỗi sợ tình yêu đầy cưỡng áp đầy trói buộc, dẫu nó được ngụy trang bằng muôn vàn yên ấm. Vậy hạnh phúc là gì? Nhân vật Judith đã phải trở đi trở lại bệnh viện tâm thần, đấu tranh với tiếng nói ma quái của chàng Hannes vang trong đầu cô, ngụp lặn giữa hàng vốc thuốc hãm phanh thần kinh... để trả lời câu hỏi đó. Đi tới cùng, hạnh phúc nên là và phải là tự tại; nó sẽ bước ngay sang địa hạt ác mộng nếu bị gắn với một dây xích bọc đường. “Mãi yêu em” của tác giả Daniel Glattauer, được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi dịch giả Lê Quang, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành trên toàn quốc từ tháng 5 năm 2017. Lan Phương Review *** Khi anh bước chân vào đời Judith, gót chân cô đau buốt, nhưng rồi đỡ ngay. Anh: “Xin lỗi”. Cô: “Không sao”. Anh: “Đông kinh khủng”. Cô: “Vâng”. Judith nhìn lướt qua mặt anh, tựa như đó là tít tin thể thao hằng ngày. Cô chỉ muốn biết sơ sơ mặt người đã giẫm nát bét gót chân người khác trước quầy phô-ma đông kín hôm thứ Sáu Tuần Thánh. Cô hơi ngạc nhiên, anh ta trông bình thường, như mọi người ở đây, không hơn mà cũng không kém, cũng không đặc biệt. Tại sao cả thế giới phải đổ đi mua phô-ma dịp Phục sinh? Tại sao chỉ vào một cửa hàng và cùng một lúc? Ở quầy thu ngần, anh ta, lại anh ta, xếp đồ lên băng chuyền cạnh đồ của cô. Cô nhận ra anh ta nhờ tay áo da lộn nâu đỏ có mùi da đặc trưng. Khuôn mặt anh ta thì cô quên từ lâu, à không, có nhớ đâu mà quên, nhưng cô thấy ưa động tác khéo léo, chính xác và uyển chuyển của tay anh. Kể cả trong thế kỷ hai mốt thì quả là kỳ lạ khi một đàn ông trạc bốn chục tuổi biết sắp xếp và gói ghém hàng mua trong siêu thị cứ như đã từng làm việc đó rồi. Ở cửa ra vào thì hầu như không còn tình cờ, khi lại là anh ta đứng đó để giữ cánh cửa mở ra cho cô và khoe tài nhớ mặt người của mình. Anh: “Xin lỗi chị lần nữa vì giẫm phải chân chị”. Cô: “Ồ, quên lâu rồi mà”. Anh: “Không, không, tôi biết, chỗ ấy đau khủng khiếp lắm”. Cô: “Cũng không đến nỗi”. Anh: “Vâng, vâng”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chào chị nhé”. Cô: “Vâng”. Anh: “Chúc chị ngày lễ vui vẻ”. Cô: “Anh cũng thế”. Cô thích kiểu nói chuyện như thế ở siêu thị, nhưng bây giờ thì thế là đủ cho phần đời còn lại. Ý nghĩ, tạm gọi là ý nghĩ cuối cùng dành cho anh, là năm, sáu hoặc bảy quả chuối, một nải vàng ươm mà anh ta gói vào trước mắt cô. Ai mua năm đến bảy hoặc tám quả chuối, người ấy ắt có hai, ba đến bốn đứa trẻ đói bụng ở nhà. Dưới cái áo khoác da chắc anh ta mặc áo thun kẻ ca-rô lớn nhiều màu như cầu vồng. Một ông chủ gia đình đích thực, cô nghĩ bụng, một người biết giặt giũ phơi phóng quần áo cho bốn đến năm hoặc sáu người, có lẽ treo bít tất thành một hàng, chập từng đôi một, ai phá hỏng trật tự ấy trên dây phơi thì cứ liệu hồn. Về đến nhà, cô dán một miếng băng dính dày cộp lên gót chân đỏ ửng. May mà gân gót không hề hấn gì, mà nói chung Judith luôn cảm thấy không ai có thể làm tổn thương mình. Lễ Phục sinh như mọi năm. Sáng thứ Bảy: thăm mẹ. Mẹ: “Bố khỏe không?” Judith: “Con không biết, chiều con đến bố”. Chiều thứ Bảy: thăm bố. Bố: “Mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe ạ, con ở chỗ mẹ ban sáng”. Trưa Chủ nhật: về nông thôn thăm em trai Ali. Ali: “Bố mẹ khỏe không?” Judith: “Khỏe, hôm qua chị thăm bố mẹ”. Ali: “Bố mẹ lại về với nhau à?” Sáng thứ Hai sau lễ Phục sinh Judith mời các bạn đến nhà mình ăn. Thực ra mời ăn tối, nhưng từ khi ngủ dậy cô đã bắt tay vào chuẩn bị. Sáu người cả thảy: hai đôi và hai người độc thân (một người độc thân vĩnh viễn, còn người kia chính là cô). Giữa các đợt đồ ăn bưng lên, câu chuyện diễn ra ở trình cao, xoay quanh các chủ đề như cách nấu ăn không làm mất vitamin và các diễn biến mới nhất trong nghiên cứu chống cặn kết tủa trong rượu vang. Nhóm này rất thuần, thậm chí có những chủ đề mà họ sống chết không rời (chống chiến tranh, xóa đói giảm nghèo, và gan ngỗng nhồi). Bộ đèn chùm kiểu Art Nouveau tỏa sáng ấm áp lên các khuôn mặt vui vẻ. CD mới nhất của nhóm The Divine Comedy tựa như kịp thời ra đời để phục vụ dịp này. Thậm chí Ilse còn có lần mỉm cười với Roland, và anh xoa bóp vai phải của cô, phải đến hai giây chứ không ít - dù họ đã cưới nhau mười ba năm và có với nhau ba mặt con trong niềm đam mê đang chết dần chết mòn mỗi ngày. Đôi kia trẻ hơn, Lara và Valentin, vẫn trong chu kỳ tay nắm tay say đắm. Thỉnh thoảng cô lại nắm các ngón tay anh bằng cả hai tay, có lẽ để giữ anh chặt hơn khả năng thực sự của cô xét về lâu dài. Tất nhiên Gerd lại là nhân vật nhộn nhất, luôn nổi bật ở bất cứ đám nào và ngày càng nổi hơn cùng với trách nhiệm làm cho những người khô khan phải vui vẻ và lắm mồm lên. Tiếc là anh ta không đồng tính để Judith tiếp xúc riêng nhiều hơn và tâm sự những chuyện cá nhân hơn, vốn bất khả thi trong một nhóm có nhiều đôi. Cuối những buổi tối tương tự, khi khách khứa đã ra về và chỉ còn không khí đặc quánh gợi nhớ đến sự hiện diện của họ, Judith luôn thẩm định tình trạng của mình trong khung cảnh thân thuộc và giữa một núi bát đĩa rếch. Ồ có chứ, rõ ràng đó là chất lượng sống vượt trội khi đầu tư một tiếng vào bếp, mở toang cửa sổ để không khí trong lành vào phòng, hít một hơi thật sâu, uống vội một viên thuốc đề phòng nhức đầu, để rồi rốt cục được ôm cái gối thân thương và chỉ buông nó ra vào tám giờ sáng hôm sau. Rõ ràng như thế còn hơn thâm nhập vào tâm lý của một gã “bạn đời” - có khả năng (cũng) phê phê, móc mồm cả ngày không ra một tiếng, không ưa bị giữ ở nhà, lười dọn dẹp nhà cửa - để dò xem hắn ta đang nuôi hi vọng hay run rẩy lo sợ sắp lên giường. Judith tránh được tình trạng xì-trét đó, trừ một vài buổi sớm mai cô thấy thiếu một người đàn ông cạnh mình trong chăn. Nhưng đó không được phép là một người đàn ông bất kỳ, người đàn ông nào đó, mà phải là một người nhất định. Vì vậy, buồn thay, người đó không trong số những người cô quen. Judith yêu công việc của mình. Và nếu không - thường là sau các ngày lễ - cô cố mọi cách tự huyễn hoặc là mình yêu công việc. Ít nhất thì cô cũng là sếp của chính mình, dù hằng ngày cô luôn mong có một bà sếp khác xông xênh hơn, ví dụ như Bianca, con bé học nghề của cô. Bianca chỉ cần một cái gương là có đủ việc cho cả buổi. Judith có một doanh nghiệp nhỏ ở phố Goldschlag, quận 15. Nghe chữ “doanh nghiệp” có hơi hướm kinh doanh hơn thực tế, song cô yêu cửa hiệu bán đèn của mình và không đổi nó lấy bất cứ cửa hiệu nào trên thế giới. Từ nhỏ, cô thấy đó là những căn phòng tuyệt diệu nhất trần gian, bao la giữa vô vàn vì sao nhấp nhánh và những quả cầu chói lọi. Trong bảo tàng ngoài trời lấp lánh của ông ngoại, ngày nào Judith cũng được vui lễ Phục sinh.   ​​Mời các bạn đón đọc ​Mãi Yêu Em của tác giả Daniel Glattauer & Lê Quang (dịch).
Đường Hầm Ôđetxa
- Tên sách : Đường hầm Ôđetxa Tập 1+2         - Tác giả : Valentin Kataep                         Trần Lê Huy, Thương Thục, Hoài Dân dịch         - Nhà xuất bản Văn học         - Năm xuất bản : 1968         Dịch theo bản dịch Pháp văn LES CATACOMBES D'ODESSA của Esfir Berstein và Olga Wormsber — (Nhà xuất bản Ngoại văn Mạc-tư-khoa — Nhà xuất Editeurs Franẹaís Réunis — Paris) Đ ường hầm Ôđetxa của Valentin Kataep[1] cho ta một khái niệm về chiến tranh nhân dân ở Liên-xô và chứng minh qui luật chiến tranh nhân dân nhất định thắng lợi. Ôđetxa là một thành phố cảng lớn của Liên-xô, nằm trên bờ Hắc-hải, có truyền thống lâu đời chống ngoại xâm, đã từng chứng kiến cuộc thất trận thảm hại của quân Thổ-nhĩ-kỳ, cũng như đã từng đập vỡ cuộc can thiệp của mười bốn nước đế quốc vào nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Trong lòng đất dưới thành phố và miền phụ cận, có một hệ thống hầm, hào chằng chịt, có từ lâu đời, tạo nên cả một thành phố ngầm với hàng trăm ngàn đường, ngõ ngoắt ngoéo, được mệnh danh là những hầm mộ ở Ôđetxa. Hệ thống hầm ngầm ấy đã từng được sử dụng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đã từng là cơ sở bí mật của các chiến sĩ bônsêvich hồi Cách mạng tháng Mười. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, trước khi đội thiết giáp Đức tiến vào thành phố, những hầm mộ ấy lại trở thành những căn cứ vững chắc của các đội du kích, các đội công tác bí mật, các cơ quan kháng chiến nằm trong lòng địch để bám đất, bám dân. Bọn phát-xít chiếm đóng có biết điều ấy không? Biết. Nhưng không phải bất kỳ lúc nào chúng cũng dám sục xuống cái mê hồn trận ấy. Những tên liều mạng đã phải trả bằng một giá rất đắt vì nhưng quả mìn tự động, vì những tràng đạn rất chính xác từ các ngóc ngách tối om bắn ra. Những vòm hầm đổ ụp xuống làm hàng đơn vị địch bị tan xác, thậm chí những đống xác chết chồng chất của chính bọn chúng cũng tạo nên những vật chướng ngại vít hẳn đường vào. Bọn phát xít dùng đủ mọi cách, đại bác, bom, mìn, hơi độc, chẹn kín các cửa lên, xuống... Nhưng kết quả không hoàn toàn như ý đồ đen tối của chúng. Trong suốt thời kỳ phát-xít chiếm đóng, đội công tác bí mật của Secnôivanenkô, cũng như bao nhiêu đội khác, vẫn tồn tại và phát triển, vẫn phá hoại có kết quả trong lòng địch, vẫn đánh cho địch những đòn ác liệt làm cho chúng điên cuồng lồng lộn, ăn không ngon ngủ không yên. Họ vẫn nắm được nhân dân và gắn bó với nhân dân, vẫn đem được luồng sinh khí của Đảng đến thổi cao ngọn lửa căm thù, chiến đấu trong lòng nhân dân. Những ai đã nhảy vào cuộc vật lộn gay go, dai dẳng trong lòng địch như vậy? Đó là Secnôivanenkô, một cán bộ Đảng lãnh đạo trực tiếp đội công tác bí mật, người chỉ huy rất sáng suốt, kiên quyết, không khoan nhượng với địch, đồng thời yêu thương đồng đội một cách sâu sắc. Đó là bác công nhân già Xiniskin Jêleznư, con người “bằng sắt”, tuy mắc bệnh lao phổi nhưng có một ý chí chiến đấu không gì lay chuyển nổi. Đó là Kôletnisuc, một cán bộ ngoài Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh dưới ngọn cờ của Đảng, cùng vợ là Raitxa Lvôpna, một phụ nữ gốc Do-thái, muốn ở bên chồng để chia sẻ nỗi gian nguy. Đó là bà Matriôna Têrenchiepna, vợ người chủ tịch một ngư trang tập thể ở vùng phụ cận thành phố, một phụ nữ rất kiên cường, sôi nổi. Đó là đại úy Hồng quân Drujinin với những hoạt động táo bạo và tinh thần bất khuất đáng kính. Đó là anh thanh niên dũng cảm và rất yêu đời Xviatôxlap. Đó là Batsây trầm tĩnh, từ Mạc-tư-khoa xuống, ngẫu nhiên tham gia và tham gia kiên trì vào cuộc chiến đấu trong mấy năm ròng rã. Đó là nhà tri thức Xêrêđôpxki khảng khái nhất định không chịu cộng tác với quân thù. Đó là các em thiếu niên tiền phong Pêchya và Valentin. Các em đã góp phần không nhỏ vào việc tết vòng hoa chiến thắng cho thành phố Ôđetxa thân yêu. Tính chất nhân dân trong cuộc chiến tranh giữ nước của Liên-xô là như vậy. Nhiều người đã hy sinh. Những “hầm mộ“ từ bao đời đã trở thành hầm mộ thực sự của những người con bỏ mình vì sự nghiệp vinh quang bảo vệ đất nước xô-viết. Khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn giữ vững một niềm tin tưởng lạ lùng ở chiến thắng. Những ngày cuối cùng ở dưới hầm mộ, nhóm của Secnôivanenkô bị lạc trong cái mê hồn cung trăm ngàn ngõ ngách ấy, họ không tìm được lối lên mặt đất trong khi bi-đông của họ chỉ còn một giọt dầu cuối cùng. Họ đã kiệt sức, hấp hối trong cơn khát, nhưng vẫn tin là “không thể chết được“. Chúng ta hãy nghe Secnôivanenkô truyền niềm tin tưởng say sưa đó cho người bạn chiến đấu Batsây trong hoàn cảnh nguy nan: “Chúng ta sẽ tiêu diệt được bọn chúng, vì chúng ta làm một cuộc chiến tranh chính nghĩa, một cuộc chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh kiểu mới. Một cuộc chiến tranh vì tương lai của tất cả nhân loại cần lao, một cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa cộng sản!“. Cuộc chiến tranh nhân dân đã tôi luyện cho họ một nhân sinh quan cách mạng chân chính, một tình đoàn kết sâu sắc, một tinh thần dũng cảm đầy sáng tạo và một lòng tin tưởng vô bờ bến. Đó là những nền tảng không thể thiếu được của chiến thắng. * Valentin Kataep có một phong cách nghệ thuật độc đáo khi thể hiện chủ đề của mình. Trước hết là vấn đề nhân vật. Trong các tác phẩm của ông, các em thiếu niên thường đóng một vai trò quan trọng. Một nhà phê bình văn học viết: “Trong tâm hồn nhà văn Kataep, vẫn còn một thằng bé ẩn náu ở đâu đó!“ Đúng. Lần này, “thằng bé“ đáng yêu đó lại xuất hiện và hoạt động dưới hình dạng của chú thiếu niên tiền phong Pêchya Batsây với nhiệm vụ mở đầu và kết thúc cuốn sách. Trong suốt câu chuyện chú bé không phải chỉ là người chứng kiến thời đại mà còn là một thủy thủ trên con tàu thời đại. Hành động tham gia chiến đấu đầu tiên của chú bé là nhận lá cờ đẫm máu của một chiến hạm Liên-xô từ tay anh thủy binh hấp hối Lavrôp. Tác giả đã miêu tả một cách lý thú sự diễn biến tâm lý của chú bé, từ trạng thái rụt rè sự hãi chuyển sang thái độ can đảm, hăng say. Tâm hồn lãng mạn cách mạng của tuổi thiếu niên được miêu tả rất đúng qua cử chỉ giơ tay tuyên thệ trước xác anh thủy thủ Hồng quân. Lá cờ thiêng liêng được cất giấu giữa đêm đoàn xe tăng phát-xít tiến vào chiếm đóng Ôđetxa. Từ đó Pêchya đi vào cuộc chiến đấu, cùng chia nỗi vui, buồn, gian khổ với các bạn đồng đội vào tuổi cha, chú. Cuốn truyện chấm dứt bằng cuộc “khải hoàn” của chú bé từ thành phố Ôđetxa giải phóng trở về Mạc-tư-khoa, với tấm huân chương chiến công chói lòa trên ngực bộ quân phục nhỏ bé. Chú đã giữ đúng lời thề của thiếu niên tiền phong hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng khi tìm ra và trao lá cờ nói trên cho bộ tư lệnh Hồng quân. Tác giả gắn vào hình tượng thiếu niên tất cả tấm lòng ưu ái và tin tưởng, quí trọng lớp măng non tương lai của đất nước. Trong truyện, chúng ta gặp lại nhiều nhân vật trong các tác phẩm trước của ông. Hai chú bé Pêchya và Gavrick trong Cánh buồm trắng tham gia sôi nổi vào làn sóng Cách mạng từ đầu thế kỷ đã trở nên bác Batsây rất trung thành và đồng chí Secnôivanenkô giàu nghị lực. Thế là lớp trước trưởng thành, lớp sau bước tiếp. Niềm hy vọng nồng nhiệt, thiết tha của thế hệ trước gửi lại thế hệ sau được gói ghém trong bức thư của Đrujinin trước giờ bị hành quyết, ghi trên bức tường của ngục tối gửi cho con gái yêu quí của mình. Sức sống của chủ nghĩa xã hội, của Tổ quốc xô-viết thực là bất diệt. Tuy cấu trúc và nội dung tác phẩm dành cho tuổi trẻ một địa vị quan trọng, nhưng tác phẩm của ông không phải chỉ viết riêng cho thiếu niên. Pêchya cũng như Valentin đều không phải là nhân vật chính. Nhân vật chính là cả một tập thể chiến đấu. Tâm hồn, ý chí, cảm nghĩ của mỗi người được ngòi bút sắc sảo của Kataep phân tích tỉ mỉ, đúc thành những dạng điển hình. Tác phẩm ông không phải chỉ có con người bàng bạc trong thời gian và không gian rộng rãi, ta luôn thấy hình ảnh thành phố quê hương thân yêu của ông, với đường phố, lâu đài, bến cảng, cầu tàu, cần trục, bờ dốc đứng, thảo nguyên... khi ẩn khi hiện, với tất cả buồn, vui, thương, giận. Không phải chỉ có con người xô-viết đánh giặc mà cả thiên nhiên xô-viết cũng vùng lên, tiêu diệt bọn cướp nước hung tàn. Phong cách sáng sủa, cách bố cục chặt chẽ, chia chương ngắn gọn, khiến câu chuyện tuy dài mà vẫn dễ theo dõi, tiếp thu. * Đường hầm Ôđetxa đến với chúng ta giữa lúc cả nước ta đang quyết liệt tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước. Những hầm ngầm chiến đấu nổi tiếng của thành phố Ôđetxa khiến chúng ta liên tưởng đến hệ thống địa đạo vô cùng vĩ đại của đồng bào miền Nam đánh giặc. Tất nhiên hoàn cảnh lịch sử, địa lý mỗi nơi mỗi khác, phương thức chiến đấu cũng không hẳn giống nhau, nhưng có một khía cạnh có thể cung cấp cho chúng ta nhiều suy nghĩ bổ ích. Ấy là vấn đề con người trong chiến tranh nhân dân. Con người được giác ngộ sâu sắc, được lãnh đạo tốt, được tổ chức tốt, nhất định sẽ làm nên những sự nghiệp thần kỳ. Với ý nghĩ ấy, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc Đường hầm Ôđetxa.   Hà-nội, 16-3-1967 LÊ HUY Mời các bạn đón đọc Đường Hầm Ôđetxa của tác giả Valentin Petrovich Kataev.