Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng

Alexandre Dumas - một tên tuổi rất thân thuộc với bạn đọc Việt Nam qua các tiểu thuyết : Bá tước Môngto Crixto , Hai mươi nǎm sau, Ba người lính ngự lâm  Robin Hood - Chúa trộm oai hùng, diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử nước Pháp vào những nǎm 1160.  Với ngòi bút linh hoạt và sức tưởng tượng hết sức phong phú, Alexandre Dumas đã hấp dẫn người đọc qua những tình tiết hết sức bất ngờ, hồi hộp, hấp dẫn, lý thú, pha chút châm biếm khi miêu tả nhân vật chính - người anh hùng Robin Hood.  *** Dưới triều đại vua Henry đệ nhị, vào năm Gia-tô kỷ nguyên 1162: một buổi chiều, hai khách du hành, quần áo vấy bẩn vì đường trường, vẻ mặt tiều tuỵ vì mệt mỏi, đi qua những lối nhỏ của khu rừng Sherwood, trong lãnh địa bá tước Nottingham. Không khí giá lạnh; cây cối mới bắt đầu trổ lá xanh phớt tháng Ba, rung nhẹ trong làn gió bấc cuối cùng của mùa đông, một lớp sương mù ảm đạm tràn lan khắp vùng trong lúc những tia nắng tà tắt lịm trong những đám mây đỏ tím ở chân trời. Chẳng bao lâu bầu trời mù mịt tối tăm, những cơn gió lạnh lướt qua khu rừng, báo trước một đêm dông tố. Người tuổi tác hơn trong hai khách du hành trùm kín mình trong chiếc áo choàng, nói: — Này Ritson, gió thổi dữ lắm, mi có sợ rằng ta sẽ gặp bão trước khi tới nơi không? Chúng ta có thực đi đúng đường không? Ritson đáp: — Thưa các hạ, chúng ta đang tiến thẳng tới đích: nếu tôi không nhớ sai, thì một tiếng nữa chúng ta sẽ gõ cổng nhà người gác rừng. Hai người khách lạ im lặng bước đi trong ba khắc đồng hồ. Người mà bạn đồng hành xưng là các hạ bồn chồn lớn tiếng hỏi: — Chúng ta sắp tới nơi chứ? — Thưa các hạ, mười phút nữa thôi. — Được, nhưng cái người gác rừng mà mi gọi là Head đó có đáng để ta tin cậy không? — Hoàn toàn đáng tin, thưa các hạ, Head, anh rể tôi, là người thô lỗ, thực thà, ngay thẳng; anh ta sẽ kính cẩn lắng nghe cái câu chuyện kỳ lạ do Đức Ông bày đặt ra, anh ta sẽ tin ngay; anh ta chẳng biết thế nào là nói dối, cũng chẳng biết ngay cả ngờ vực là gì nữa. Kìa, thưa các hạ, - Ritson ngừng khen ngợi người gác rừng vui vẻ kêu lên, - xin hãy trông phía dưới kia làn ánh sáng phản chiếu nhuộm màu cây cối, nó tỏa ra từ căn nhà của Gilbert Head đấy! Hồi còn trẻ, mỗi buổi chiều khi chúng tôi đi săn mệt mỏi trở về, biết bao lần tôi đã sung sướng vui chào vì tinh tú này của gia đình! Ritson đứng im lặng mơ màng, mắt đăm đăm cảm động nhìn làn ánh sáng chập chờn, nhắc nhở y những kỷ niệm dĩ vãng. Nhà quí tộc chẳng để ý gì đến nỗi xúc động của tên đầy tớ, cất tiếng hỏi: — Thằng bé ngủ à? Ritson, vẻ mặt tức thời trở lại hoàn toàn hờ hững, trả lời: — Dạ, thưa các hạ, nó ngủ say lắm. Tôi thực không hiểu sao Đức Ông lại phải nhọc lòng giữ gìn mạng sống của một đứa bé có hại cho quyền lợi của ngài đến thế. Nếu ngài muốn dứt bỏ hẳn thằng bé đó đi, thì tại sao ngài lại không đâm cho nó một nhát dao vào tim? Tôi xin tuân lệnh ngài, xin ngài cứ nói đi. Để thưởng tôi, xin ngài hãy hứa viết tên tôi vào tờ di chúc của ngài, và thế là thằng bé ngủ khì kia sẽ chẳng bao giờ thức dậy nữa. — Mi im đi, - nhà quí tộc bỗng nhiên nói tiếp, - ta không thích cái chết của thằng bé vô tội này. Ta có thể sợ sau này sẽ có ngày bị tiết lộ ra, nhưng ta thà phải lo âu về nỗi sợ hãi đó còn hơn là phải ăn năn cắn rứt vì tội ác. Vả chăng, ta có lý do để hy vọng và ngay cả tin tưởng rằng tấm màn bí mật bao trùm lên sự ra đời của đứa bé này sẽ chẳng bao giờ bị vén lên cả. Nếu như có sự xảy ra khác thế, thì đó chỉ có thể là công trình của mi thôi, Ritson ạ; ta đoán chắc với mi rằng suốt đời ta lúc nào cũng nghiêm ngặt canh chừng các hành vi, cử động của mi. Dù được nuôi nấng như một gã quê mùa, thằng bé này sẽ không phải chịu cảnh tầm thường của thân phận mình, trong thân phận này nó sẽ tự tạo cho mình một hạnh phúc hợp với các sở thích và thói quen của nó, và nó sẽ chẳng bao giờ phải tiếc cái tên họ và tài sản mà nay nó bị mất đi mà không hề biết. — Mong sao các hạ được toại nguyện! - Ritson lạnh lùng đáp; - nhưng thực ra thì mạng sống của một đứa bé oắt như thế này chẳng đáng để ta phải nhọc nhằn đi từ Huntingdonshire đến Nottinghamshire. Cuối cùng hai khách du hành đặt chân xuống đất trước một ngôi nhà xinh đẹp giống như một cái tổ chim ẩn náu trong đám rừng rậm. — Anh ơi! Anh Head ơi! - Ritson kêu to bằng một giọng vui vẻ, sang sảng, - anh ơi! Mở cửa mau lên; mưa dữ quá, đứng đây tôi trông thấy ánh lửa cháy hồng trong lò sưởi của anh. Mở cửa ra, có người bà con xin được tiếp đãi đây. Bầy chó sủa vang ở phía trong nhà, người gác rừng thận trọng thoạt tiên đáp: — Ai gõ đó? — Một người bạn. — Bạn nào? — Roland Ritson, em anh đây. Mở cửa ra, anh Gilbert. — Cậu đấy à, có phải Roland Ritson, ở Mansfeld không? — Phải, phải, chính em đây, em của chị Marguerite. Nào, anh mở ra chứ? - Ritson bồn chồn nói thêm; - anh em mình sẽ trò chuyện ở bàn ăn. Sau cùng cửa mở ra, hai người khách bước vào. Gilbert Head thân mật bắt tay em rể, rồi lễ phép chào nhà quí tộc: — Thưa ngài kỵ sĩ, tôi rất hân hạnh được tiếp đón ngài. Xin ngài thứ lỗi cho: vừa đây tôi đã thất lễ, để cho cửa đóng giữa ngài và gia đình tôi. Chỗ này hẻo lánh, lại thêm bọn đạo tặc lảng vảng trong rừng, bắt buộc tôi phải thận trọng, bởi vì muốn thoát khỏi hiểm nghèo mà chỉ có dũng cảm và sức mạnh thôi thì không đủ. Thưa quí khách, ngài hãy nhận cho lời tạ lỗi của tôi, và hãy xem nhà tôi đây như nhà của ngài vậy. Mời ngài đến ngồi bên lò sưởi cho khô quần áo, tôi bảo người đi chăm lo cho ngựa của ngài. Lincoln ơi! - Gilbert mở hé cửa phòng bên nói to, - hãy dắt ngựa của quí ngài đây đến nhà kho, vì chuồng nhỏ quá không đủ chỗ tiếp nhận, đừng để chúng thiếu gì cả nhé: bỏ cỏ khô cho đầy máng, chất rơm cho thật nhiều vào. Một gã quê bận y phục kiểm lâm tức thì xuất hiện, bước qua phòng, rồi đi ra ngoài chẳng hề tò mò đưa mắt nhìn các người mới tới; sau đó một phụ nữ xinh đẹp, trạc ba mươi tuổi, đến đưa tay và trán cho Ritson hôn. — Chi Marguerite! Chị thân yêu! - Ritson kêu to, vừa vuốt ve vừa trông ngắm người chị với một niềm thán phục hồn nhiên pha lẫn kinh ngạc; - chị chẳng có chi thay đổi cả, vẫn vầng trán thanh khiết, vẫn cặp mắt sáng chói, môi và má vẫn tươi hồng như độ nào anh Gilbert theo tán tỉnh vậy. — Đó là vì chị sung sướng đấy, - Marguerite đưa mắt dịu dàng nhìn chồng đáp lời. — Em có thể nói: chúng tôi sung sướng, em Maggie ạ, - người gác rừng trung thực nói thêm. - Nhờ em vui tính, nên nhà ta chưa hề có dỗi hờn, cãi lộn. Nhưng về chuyện đó nói thế là đủ rồi, ta phải nghĩ đến khách chứ… Nào! Cậu em, hãy cởi áo choàng ra, còn ngài kỵ sĩ, xin hãy giữ hết nước mưa đầm đìa trên y phục giống như giũ hạt sương mai đọng trên lá cây. Rồi chúng ta dùng bữa tối. Lẹ lên, em Maggie, bỏ vào lò một hai bó củi, bày lên bàn những món ăn ngon, trải lên giường những tấm khăn trắng nhất; lẹ lên, em. Trong khi người thiếu phụ mau mắn làm theo lời chồng, Ritson hất áo choàng xuống phía sau, để lộ ra một đứa bé xinh đẹp bọc trong một chiếc áo lông xanh. Đứa bé mới mười lăm tháng, khuôn mặt tròn trăn, đỏ tươi, báo trước một sức khỏe hoàn toàn và một thể chất tráng kiện. Khi Ritson đã cẩn thận vuốt thẳng những nếp nhàu trên mũ của đứa bé, y đặt cái đầu nhỏ xinh của nó xuống dưới một tia ánh sáng, làm nổi bật lên tất cả vẻ đẹp, rồi nhẹ nhàng gọi chị. Marguerite chạy mau đến. — Chị Maggie, - Ritson nói, - em có một món quà tặng chị, để chị khỏi trách em là trở về với hai bàn tay trống không sau tám năm trời vắng mặt… Nào, chị hãy nhìn xem cái em đem tới cho chị đây. — Lạy thánh bà Marie! - Người thiếu phụ chắp tay lại kêu lên, - lạy thánh bà Marie, một thằng bé! Nhưng mà, cậu Roland, có phải chú thiên thần xinh đẹp này là của cậu không? Anh Gilbert, anh Gilbert, hãy lại đây mà xem một thằng bé đáng yêu quá.. — Một thằng bé! Một thằng bé trong tay Ritson à! - Không phấn khởi như vợ, Gilbert đưa mắt nghiêm khắc nhìn về phía em vợ, trầm giọng nói. - Này cậu, từ khi hết làm lính cậu đã thành người nuôi con nít ư? Sao mà kỳ cục vậy, chạy rông khắp đồng quê với đứa bé bọc trong tấm áo choàng! Thế là nghĩa lý gì kia chứ? Tại sao cậu lại đến đây? Thằng bé này là thế nào? Cậu hãy nói đi, hãy nói thực, tôi muốn biết tất cả mọi chuyện. — Thằng bé này không thuộc về tôi, anh Gilbert ạ; nó mồ côi, vị quí tộc đây mới là người bảo hộ nó. Đức Ông quen biết gia đình chú thiên thần này, ngài sẽ nói anh biết vì sao, chúng tôi tới đây. Này chị Maggie, trong lúc chờ đợi, xin chị hãy nhận cho cái của báu này, nó trĩu nặng trên cánh tay em từ hai ngày… tức là hai giờ. Em chán cái vai trò vú em này lắm rồi. Marguerite hăm hở giật lấy thằng bé đang ngủ, đem vào phòng mình, đặt lên giường, hôn tới tấp lên tay và cổ, bọc ấm trong tấm áo choàng đẹp mặc trong dịp lễ, rồi trở lại chỗ khách ngồi. Bữa ăn tối trôi qua vui vẻ; lúc cuối bữa, nhà quí tộc nói với người gác rừng: — Bà nhà rất khả ái, tỏ ra quan tâm tới thằng bé này, vì vậy tôi quyết định đưa ra với ông một đề nghị dính dáng với hạnh phúc tương lai của ông. Nhưng trước hết, xin cho phép tôi được trình bày ông rõ một số chi tiết đặc biệt về gia đình, sự sinh ra và thân phận hiện nay của đứa trẻ mồ côi khốn khổ mà tôi là người bảo hộ độc nhất. Cha nó là bạn đồng ngũ cũ của tôi trong thời niên thiếu, giữa nơi doanh trại; ông là bạn tốt và thân nhất của tôi. Khoảng đầu triều đại đức vua Henry đệ nhị, chúng tôi cùng đóng với nhau tại Pháp, khi thì ở Normandie, khi thì ở Aquitaine, khi thì ở Poiton; sau mấy năm cách biệt, chúng tôi gặp lại nhau trong xứ Galles. Anh bạn tôi, trước khi rời Pháp, có yêu say đắm một thiếu nữ, đã cưới rồi đem cô ta về Anh ở với gia đình mình. Chẳng may gia đình này lại thuộc một chi phái của một nhà vương giả, vốn tự hào, kiêu hãnh, đây óc thành kiến, không chịu thâu nhận người thiếu phụ đó, cô ta thì nghèo, chỉ có sự cao quí về tình cảm mà thôi. Sự sỉ nhục đó đập mạnh vào tim cô ta, cô ta chết tám ngày sau khi cho ra đời đứa bé mà tôi muốn cậy ông coi sóc; nó không còn cha nữa, vì anh bạn khốn khổ của tôi đã bị thương vong trong một trận chiến ở Normandie, nay đã mười tháng. Những ý nghĩ của bạn tôi lúc sắp chết là hướng về đứa con trai, anh ta kêu tôi đến, vội vàng cho tôi biết tên và địa chỉ của bà vú nuôi đứa bé, rồi yêu cầu tôi nhân danh tình thâm giao của chúng tôi mà nhận làm chỗ nương tựa, người bảo hộ cho đứa con côi. Tôi thề và tôi giữ lời thề, nhưng sứ mạng của tôi thực khó nhà làm trọn vẹn, thưa ông Gilbert, tôi còn là quân nhân, sống trong doanh trại hoặc ngoài chiến trường, không thể tự mình trông nom đứa bé yếu ớt này được. Về mặt khác, tôi không có bà con, bè bạn nào để có thể gửi gắm báu vật này mà không sợ cả. Tôi không còn biết khấn vái thần thánh nào nữa, thì một ý nghĩ chợt đến với tôi là nên hỏi Roland Ritson, là em vợ ông: anh ta tức thì nghĩ ngay đến ông, anh ta nói với tôi rằng, đã tám năm rồi xe duyên với một người vợ đức hạnh, đáng kính, ông vẫn chưa có được hạnh phúc làm cha, chắc chắn ông sẽ vui lòng đón nhận vào dưới mái nhà một trẻ mồ côi khốn khổ, con trai của một quân nhân dũng cảm. Nếu như Chúa ban cho đứa bé này mạng sống và sức khỏe, nó sẽ là người sống kề cận tôi trong lúc tuổi già; tôi sẽ kể lại cho nó nghe câu chuyện đau buồn và vẻ vang của đấng sinh thành ra nó; tôi sẽ dạy nó bước đi vững chắc trong cùng những nẻo đường mà chúng tôi, người cha oai dũng của nó và tôi, đã bước đi. Trong khi chờ đợi, xin ông nuôi nấng thằng bé giống như nó là con ông, mà ông sẽ chẳng phải nuôi nấng không công đâu, tôi xin đoan quyết với ông như vậy. Thưa ông Gilbert, xin ông hãy trả lời: ông có chấp nhận đề nghị của tôi không? Nhà quí tộc lo âu chờ đợi lời đáp của người gác rừng. Người gác, trước khi giao ước, đưa mắt nhìn vợ dò hỏi; nhưng bà Marguerite xinh đẹp ngoảnh đầu đi rồi, nghiêng cổ hướng về phía phòng bên, bà tươi cười lắng nghe tiếng đứa bé thở thì thào nhỏ nhẹ. Ritson, lén liếc mắt nhận xét về mặt của đôi vợ chồng, biết rằng chị mình đã sẵn lòng giữ đứa bé, mặc dầu Gilbert còn do dự, liền nói bằng giọng thuyết phục: — Tiếng cười của chú thiên thần này sẽ tạo nên niềm vui của gia đình chị, chị Maggie hiền hòa ạ. Lạy thánh Pierre! Tôi đoan chắc với chị như vậy, chị sẽ còn được nghe một thứ tiếng nữa cũng chẳng kém vui đâu, đó là tiếng những đồng ghi-nê mà Đức Ông đây hàng năm sẽ rót vào tay chị. Chà! Tôi trông thấy chị đã giàu có và luôn luôn sung sướng, dắt tay thằng bé xinh đẹp này trong các cuộc hội hè trong vùng, nó sẽ gọi chị là mẹ: nó sẽ ăn vận giống như một ông hoàng, sáng chói như vầng thái dương, còn chị thì rạng rỡ vì vui thú và kiêu hãnh. Marguerite không trả lời gì cả, nhưng nhìn Gilbert mà cười. Gilbert thì lặng lẽ, khiến cho nhà quí tộc hiểu lầm. Ông chau mày nói: — Thế nào, ông Gilbert, ông do dự sao? Đề nghị của tôi không vui lòng ông ư? — Xin lỗi ngài, đề nghị của ngài khiến tôi rất vui, chúng tôi sẽ giữ chú bé này, nếu như Maggie không thấy có chi trở ngại. Mình ơi, em nghĩ gì cứ nói ra, ý em sẽ là ý anh. — Vị quân nhân dũng cảm này có lý lắm, - thiếu phụ đáp; - ngài không thể nào nuôi nấng chú bé này được. — Thế thì sao? — Thì sao ư? Em sẽ là mẹ nó, chứ còn sao nữa. - Rồi hướng về phía nhà quí tộc, bà nói thêm: - Nếu một ngày nào đó ngài muốn lấy lại cậu con nuôi này, chúng tôi sẽ đau lòng mà trả lại ngài, nhưng chúng tôi sẽ tự an ủi dẫu rằng mất nó, vì nghĩ rằng từ đây được gần ngài, nó sẽ sung sướng hơn là ở dưới mái nhà tầm thường của một kẻ gác rừng nghèo khổ. — Lời của vợ tôi là một cam kết, - Gilbert nói tiếp, - còn về phần tôi, tôi thề coi sóc chú bé này và làm cha của nó. Thưa ngài kỵ sĩ, đây là bảo chứng cho lòng thành tín của tôi. Ông rút một chiếc bao tay ở thắt lưng ra, ném lên mặt bàn. Nhà quí tộc cũng ném một chiếc bao tay lên bàn, trả lời: — Thành tín đáp lại thành tín, bao tay đền lại bao tay. Bây giờ cần phải thỏa thuận về khoản tiền ăn ở của thằng bé. Nào, ông hãy cầm lấy số tiền này; hàng năm ông sẽ nhận được bằng ngần ấy. Rút từ phía dưới tấm áo ngắn ra một túi da nhỏ đựng đầy tiền vàng, nhà quí tộc cố gắng đặt túi đó vào tay người gác rừng. Nhưng ông ta từ chối không nhận. — Xin ngài hãy giữ lại số vàng này; bánh mì và những cái vuốt ve của Marguerite thì không bán đâu. Một lát lâu sau cái túi da nhỏ từ tay Gilbert được đưa trả lại nhà quí tộc. Cuối cùng người ta điều đình rồi đồng ý, theo đề nghị của Marguerite, là số tiền ăn ở được trả hàng năm cho đứa bé sẽ được để vào một nơi chắc chắn, để rồi sẽ trao lại cho nó khi đến tuổi trưởng thành. Sự việc đã được dàn xếp vừa lòng tất cả, mọi người chia tay nhau, đi ngủ. Rạng sáng hôm sau, Gilbert trở dậy, thèm thuồng ngắm những con ngựa của khách; Lincoln đang bận chải ngựa. Gilbert nói với người đầy tớ: — Con vật đẹp ơi là đẹp! Chẳng ai tin là chúng vừa mới rong ruổi suốt hai ngày trời, vì chúng tỏ ra còn mạnh mẽ lắm. Lạy Chúa! Chỉ có các ông hoàng mới được cưỡi những con tuấn mã như thế này, hẳn là chúng phải đáng giá cả khối bạc to sụ như hai con ngựa của ta. Nhưng mà ta đã quên khuấy mất chúng, những bạn đồng hành khốn khổ này! Máng cỏ của chúng chắc là trống không. Thế rồi Gilbert bước vào chuồng ngựa. Chuồng vắng tanh vắng ngắt. — Sao thế này, chúng không còn ở đây. Ôi! Lincoln ơi, mày đã dắt ngựa ra đồng cho ăn cỏ phải không? — Thưa ông chủ, không. — Thực lạ lùng quá, - Gilbert nói lẩm bẩm; rồi xúc động vì một dự cảm thầm kín, ông chạy xông vào phòng của Ritson. Ritson không có mặt tại đây. Nhưng có lẽ cậu ta đã đi đánh thức ngài quí tộc, Gilbert bụng bảo dạ như vậy trong khi bước sang phòng của vị kỵ sĩ. Phòng này vắng tanh. Marguerite bế thằng bé mồ côi xuất hiện. Gilbert , kêu lên: — Mình ơi, ngựa của ta biến mất rồi! — Làm sao lại có thể thế được! … — Họ đã cưỡi ngựa của ta đi, mà bỏ ngựa họ lại cho chúng ta. — Nhưng vì sao họ lại bỏ ta mà ra đi như vậy kia chứ? — Hãy đoán xem, Maggie ạ, anh chẳng biết gì cả về chuyện này. — Có lẽ họ muốn giấu không cho ai biết họ đi hướng nào. — Thế thì có lẽ họ đã làm điều chi xấu xa phải tự trách mình chăng? — Họ không muốn cho ta biết trước họ lấy ngựa ta thế cho ngựa mệt lử của họ. — Không phải thế đâu: không ai cho là ngựa của họ đã đi tám ngày, vì sáng nay chúng còn tỏ ra lanh lẹ, mạnh mẽ lắm. — Kỳ lạ quá! Thôi đừng nghĩ đến nữa! Nào, hãy ngắm xem thằng bé xinh đẹp biết bao, đang cười kia kìa. Hãy hôn nó đi. — Rất có thể là vị quí tộc không quen biết đó vì muốn đền ơn ta nên đã đổi hai con ngựa đáng giá của ông ta lấy hai con ngựa già khọm của mình. — Có lẽ thế; vì sợ mình từ chối, ông ta đã ra đi trong lúc mình còn ngủ. — Ừ! Nếu quả là như vậy, tôi xin hết lòng cảm tạ ông ta; nhưng tôi chẳng hài lòng về cậu Ritson chút nào, cậu ta phải chào mình mới phải. — Ồ! Thế ra anh không biết, từ khi cô Annette, em gái khốn khổ của anh, vợ chưa cưới của cậu ta, chết đi, Ritson xa lánh vùng này hay sao? Cái cảnh hạnh phúc của vợ chồng mình sẽ gợi lại nỗi khổ của cậu ta. Gilbert thở dài thườn thượt đáp: — Em nói đúng. Annette đáng thương! Marguerite nói tiếp: — Trong vụ này phiền nhất là chúng ta không có cả họ tên, lẫn địa chỉ của vị bảo hộ thằng bé đó. Nếu nó bệnh, thì ta biết báo cho ai? Còn nó nữa, chúng ta sẽ gọi làm sao đây? — Hãy chọn tên cho nó, Marguerite ạ. — Anh hãy tự mình chọn lấy đi, Gilbert; nó là con trai, thì việc này là thuộc phần anh. — Ừ! Nếu em thích, chúng ta sẽ cho nó tên của người anh mà anh đã rất yêu mến; anh không thể nghĩ đến Annette mà không tưởng nhớ đến anh Robin bất hạnh. — Được rồi, thế là nó được đặt tên, và đây là thằng Robin dễ thương của chúng mình! Marguerite vừa nói to vừa phủ đầy những nụ hôn lên mặt đứa bé, nó cười với bà ta như thể bà Marguerite hiền hòa kia là mẹ sinh ra nó. Như vậy là đứa trẻ mồ côi ấy được đặt tên là Robin Head. Sau này, không hiểu vì sao, tiếng Head được đổi thành Hood, và đứa bé xa lạ này lừng lẫy tiếng tăm dưới cái tên Robin Hood. Một thứ tiền tệ xưa của nước Anh. Mời các bạn đón đọc Robin Hood Chúa Trộm Oai Hùng của tác giả Alexandre Dumas & Cao Xuân Hạo (dịch) & Trần Hoàng Ly (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giọt Rừng - Mikhail Prisvin
Mikhail Prisvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. K. Paustovski, tác giả Bông hồng vàng rất quen thuộc với độc giả Việt Nam đã viết về ông: “Nếu như thiên nhiên có thể cảm thấy sự biết ơn đối với con người vì con người đã đi sâu vào đời sống bí ẩn của thiên nhiên và ca ngợi vẻ đẹp của nó, thì trước hết sự biết ơn đó phải dành cho Mikhail Prisvin”. Về M. Prisvin, xin đọc bài của K. Paustovski ở cuối sách, ở đây chỉ ghi lại mấy nét tiểu sử của nhà văn. Mikhail Mikhailovitr Prisvin (Михаил Михайлович Пришвин) sinh ngày 4 tháng 2 năm 1873 tại trang ấp Khrusevo (Хрущево) gần thành phố Eles (Елец), tỉnh Orlovskaia (Орловская губерния), miền Trung nước Nga, trong một gia đình ban đầu khá sung túc nhờ thừa kế tài sản của ông nội giàu có nhưng sau bị phá sản vì người bố ham mê săn bắn, cờ bạc. Thuở nhỏ ông học ở trường trung học Eles nhưng bị đuổi học vì “xung đột với thầy giáo” – ông thầy này về sau cũng là một nhà văn khá nổi tiếng và trở thành bạn đồng chí hướng của Prisvin. Sau khi học qua các trường Trung học Tiumen, Cao đẳng Bách khoa Riga, năm 1902, ông tốt nghiệp kĩ sư Nông học Đại học Tổng hợp Leipzig (Đức), làm việc ở nhiều vùng nông thôn Nga, xuất bản một số cuốn sách và bài viết về nông nghiệp. Từ năm 1905, ông bắt đầu bước vào nghề báo chí, năm 1906 in truyện ngắn đầu tay Sasok (Сашок), từ đó M. Prisvin lần lượt cho ra đời những cuốn sách tạo nên tên tuổi của ông trong làng văn nước Nga như Ở xứ sở những con chim không sợ hãi (В краю непуганых птиц, 1907), Bên những bức tường của thành phố vô hình (У стен града невидимого, 1909), Adam và Eva (Адам и Ева, 1909), Aral đen (Черный Арал, 1910)... Năm 1912 - 1914, xuất bản bộ Tuyển tập tác phẩm đầu tiên của M. Prisvin gồm ba tập. Trong thời gian Thế chiến thứ nhất, M. Prisvin làm phóng viên chiến tranh, sau đó làm nghề dạy học ở Smolensina (Смоленщина). Năm 1925, ông viết Những nguồn mạch Berendei (Родники Берендея) mà năm 1935, được bổ sung in lại với tên mới Lịch thiên nhiên (Календарь природы). Từ năm 1927 đến 1930, nhà văn xuất bản bộ mới Tuyển tập tác phẩm gồm bảy tập với lời giới thiệu của M. Gorki. 1933 là năm ra đời một trong những tác phẩm hay nhất của Prisvin Nhân sâm (Женьшень). Năm 1940, ông viết trường ca bằng văn xuôi Phaselia (Фацелия) và tập tiểu phẩm trữ tình – triết học Giọt rừng (Лесная капель), cả hai được xuất bản năm 1943. Sau Thế chiến II, những tác phẩm đáng chú ý của M. Prisvin có thể kể Kho mặt trời (Кладовая солнца, 1945), Câu chuyện của thời đại chúng ta (Повесть нашего времени, 1946), Rừng thông cao vút (Корабельная чаща, 1954), Đôi mắt của đất (Глаза земли, 1957), v. v… Nhà văn qua đời ngày 16 tháng 1 năm 1954 tại Moskva. Tên của ông được đặt cho nhiều đường phố ở các địa phương khác nhau của nước Nga. *** Thuở xưa khi còn là những đứa trẻ hiếu kì, chúng tôi thường hay đập vỡ đồ chơi của mình cũng như bất cứ thứ quà tặng nào, thậm chí cả đồng hồ, để biết được bên trong có những gì. Rồi ở trường, người ta cũng dạy chúng tôi cách ứng xử với thiên nhiên như thế: được dẫn ra ngoài cánh đồng, mỗi người hái một bông hoa rồi bứt cánh để đếm xem hoa có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhuỵ, đài hoa kết cấu ra sao v.v... Nói chung, sự thể xảy ra với bông hoa cũng hệt như với những đồ chơi thời thơ bé: hình dạng bị dập nát, xé nhỏ - và không còn cả bông hoa cũng chẳng còn cả đồ chơi nữa. Còn bây giờ thì chúng tôi học thiên nhiên không chỉ không phá hỏng hình ảnh của bông hoa đá sống động(1) mà ngược lại còn làm giàu cho thiên nhiên những hình ảnh mang tính người của mình. Chính tôi cũng đã học được điều đó trong quá trình ghi chép viết lách. Và thế là Giọt rừng của tôi ra đời như một trải nghiệm nghiên cứu đầy chất thơ cái thiên nhiên được hiểu trong sự hoà hợp với con người sống trong nó và tạo ra nó. Mikhail Prisvin Mời các bạn đón đọc Giọt Rừng của tác giả Mikhail Prisvin.
Đàn Cổ Cầm Khỏa Thân - Sơn Táp
Đàn cổ cầm khỏa thân’ của Shan Sa (Sơn Táp) xuất bản năm 2010 tại Pháp và lọt vào Top 10 cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất châu Âu cùng năm. Tiểu thuyết lấy bối cảnh Trung Hoa từ năm 420 đến 585, trong thời kỳ hỗn loạn về chính trị. Đế quốc Trung Hoa bị chia làm hai miền Nam Bắc. Một cô gái thuộc tầng lớp quý tộc, từ nhỏ đã sống trong nhung lụa, được bao quanh bởi nghệ thuật và thi ca, đã bị bắt cóc và buộc phải kết hôn với một người lính của miền Nam. Cô gái cuối cùng đã yêu kẻ bắt cóc mình và mang thai đứa con của ông. Họ cùng đến Tử Cấm Thành, vượt qua bao nhiêu khó khăn, anh lính năm xưa trở thành hoàng đế của Trung Hoa, còn cô gái thành hoàng hậu. 200 năm sau, một nghệ nhân làm đàn Cổ cầm đột nhập ngôi mộ của hoàng đế, lấy gỗ từ ngôi mộ của ông làm nên một cây đàn. Khi tiếng đàn cất lên, nó đã đánh thức linh hồn của vị hoàng hậu năm xưa, đưa mối tình ngủ sâu hai thế kỷ sống lại. Cuốn tiểu thuyết được đặt trong một không gian đậm chất nghệ thuật và cổ điển, với yếu tố tình dục được miêu tả khéo léo, yếu tố ấm nhạc như một phần không thể thiếu, len lỏi trong từng con chữ. *** Shan Sa (Sơn Táp) là bút danh của Diêm Ni, sinh ngày 26/10/1972, một nhà văn người Pháp gốc Hoa nổi tiếng. Cô sinh ra trong một gia đình trí thức cao cấp ở Bắc Kinh và rời Trung Quốc để đến Paris năm 1990. Năm lên 8, cô đã có thơ in thành tuyển tập. Năm 14 tuổi, cô được giải thưởng văn học thiếu nhi toàn quốc và xuất bản bốn tập thơ khi còn ở trong nước. Năm 1997, với bút danh Sơn Táp, cô từng bước chiếm lĩnh văn đàn Paris. Tiểu thuyết "Thiếu nữ đánh cờ vây" xuất bản năm 2001, giành được bốn đề cử giải văn học lớn của Pháp và đoạt giải thưởng văn học Goncourt dành cho giới trẻ. *** “Đàn cổ cầm khỏa thân" là một cuốn tiểu thuyết về thời gian. Với thời gian, vật đổi sao dời. Thông qua số phận của đàn cổ cầm, Sơn Táp kết nối các điểm thời gian với nhau, xen lẫn chúng, hòa chúng với nhau: thế gian hàng trăm năm, hàng nghìn năm, đổi thay như một bản nhạc cô độc đang suy tư về chính cuộc đời. Đó là thế giới “thượng lưu”, tầng lớp quý tộc cao cấp nhất ở Trung Nguyên, nay đã không còn tồn tại. Từ thế giới đó bước ra một cô gái gia giáo, tài sắc cùng người cha nghệ sĩ giao du với các tầng lớp thấp hèn bị gia phong cấm kỵ. Tiếng đàn dịu ngọt từ đôi bàn tay thiếu nữ còn chưa tắt thì chiến tranh đến, trong một buổi sáng “mặt trời ném xuống cửa sổ một tấm mạng đỏ rực”, buổi sáng đã lấy đi cái đầu của cha nàng ngay giữa sân nhà. Cái tấm mạng đỏ rực của chiến tranh ấy còn mang cuộc đời nàng đi đến đâu? Phải chăng số phận nàng là sự lặp lại của số phận người con gái năm xưa - chủ nhân cây đàn cổ gia bảo của gia đình nàng? Đi đến tận đâu để rồi nàng gặp một người con trai mà nàng chỉ được thấy dáng người thấp thoáng trong bức tranh chính nàng vẽ ra? Đó là chàng Thẩm Phong của gần hai trăm năm sau, đứa con trai mồ côi sống cùng thầy là thợ làm đàn vào thời buổi cái nghề đang rơi vào vận mạt. Chàng thanh niên mới lớn đắm chìm trong đam mê âm nhạc, ngây thơ trộm mộ trong chùa để cứu sống bạn, để rồi bị triều đình truy đuổi, khép tội chết. Lịch sử vốn dĩ nghiệt ngã với mọi cuộc đời, nhưng dường như có những cuộc đời mà điểm bắt đầu và kết thúc rất khó nhận ra. Thẩm Phong sinh ra từ đâu? Chàng có chết không? Người con gái kinh qua bão táp lịch sử có chết không? Kết cục câu chuyện về họ thế nào? Đặt những câu hỏi này cũng giống như đặt ra câu hỏi: “Âm nhạc bắt đầu từ đâu và kết thúc ở đâu?” vậy… Tiếng đàn dìu dặt mãi không thôi, những trang cuối cùng vẫn chưa phải là giới hạn. Ở ngã ba lịch sử, văn minh, nghệ thuật của quê hương mình, Sơn Táp vẽ ra những bức tranh tỉ mỉ bằng ngôn ngữ tiểu thuyết, với những chất liệu đầy kỳ thú, tất nhiên, nhưng cũng với những điều đơn giản thường nhật mà chỉ có nhà văn mới đem lại độ căng trên từng con chữ nữa. Cả thế gian dồn nén lại trong cuốn tiểu thuyết, như thời gian, như âm nhạc, như độ dày ẩn trong khoảnh khắc không nói nên lời của một người yêu đàn được ngắm một cây đàn cổ cầm. Khỏa thân. CÉNACLE A Mời các bạn đón đọc Đàn Cổ Cầm Khỏa Thân của tác giả Sơn Táp.
Buồn Như Thể Muốn Tan Ra - Dora Nguyen
Với cuốn truyện dài đầu tay “Buồn như thể muốn tan ra”, Dung Keil lại xuất hiện với bút danh hoàn toàn mới: “Dora Nguyen”. Chúng tôi đã có một cuối tuần thực sự vui vẻ. Chúng tôi mua burger để ngồi ăn trên tàu về thành phố. Từ ga Kent, chúng tôi có thể mua được vé ưu đãi đi rất nhiều nơi. Lúc tàu chạy qua những nhà máy sản xuất xi măng, tôi mở túi lấy máy ảnh ra chụp lại. – Chứ ở Việt Nam người ta không sản xuất xi măng hả? – Jan là người vô cùng kiên nhẫn trong hành trình châm chích tôi. – Có, nhưng em không nghĩ thành phố này cũng có những nhà máy giống hệt ở nước em như thế! – Tôi thật thà thanh minh. – Chứ em nghĩ ở đây người ta không cần xây đường, xây nhà hả? Tôi nghĩ kĩ rồi: Khi châm chích tôi, Jan có lòng kiên nhẫn vô biên. Dora Nguyen sinh ra ở Việt Nam và sống trong tình yêu ở Malaysia. Cô là một cô gái nhỏ sở hữu nỗi tự ti rất lớn, thích viết lách và luôn mong có thể viết ra những điều không khiến chính bản thân mình thất vọng. “Trong tình yêu, dù niềm vui hay là nỗi buồn đều là những phút giây đáng giá” đã từng là thông điệp mà tác giả gửi gắm trong rất nhiều câu chuyện của mình. Các tác phẩm đã xuất bản: Yêu như một cái cây (4/2014) Cấp Visa cho trái tim (1/2014) Chuyện ngàn lẻ một độ – Nhớ (2013) *** Tôi đã không mất quá nhiều thời gian để hoàn thành “Buồn như thể muốn tan ra” - cuốn truyện dài đầu tay của mình. Những kỉ niệm như đã được xếp đặt một cách ngay ngắn trong ngăn trang trọng nhất của trái tim, chỉ chờ đến ngày được mỉm cười qua từng câu chữ. Song hơn ai hết, tôi hiểu để có được những trải nghiệm đó hoàn toàn không phải điều dễ dàng và tôi thực sự muốn cảm ơn những người đã cùng tôi làm nên những ngày tháng ấy. Cảm ơn tòa soạn báo Điện tử Giáo Dục Việt Nam, Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam và phòng Thương mại Ireland tại Hà Nội đã tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu đất nước, con người và nền giáo dục Ireland”, tạo sân chơi cho những bạn trẻ mê viết lách và luôn mơ ước được hiểu sâu hơn nữa về đất nước của “cỏ ba lá”, của “khoai tây”, của “thánh Patrick” và những điều rất đỗi bình dị… Cảm ơn chị Trần Phương Mai - chuyên gia tư vấn, cán bộ liên lạc của Phòng Thương Mại Ireland - đã giúp đỡ tôi rất tận tình trong quá trình chuẩn bị giấy tờ làm visa, đặt vé máy bay, mua bảo hiểm; hỗ trợ tôi trước, trong và sau khoảng thời gian tôi sang Ireland học tập. Cảm ơn thầy Brendan, cô Carolyn, cô Youngsin đã chào đón tôi rất nhiệt tình và giúp tôi hòa nhập với môi trường học tập ở Trung tâm Ngôn ngữ thuộc Đại học tổng hợp Cork (UCC Language Center - University College Cork, Ireland). Cảm ơn hai bác Patricia và Matthew Mulcai vì sự quan tâm chu đáo, về những bữa sáng có mì hoặc phở, về những bữa tối có cơm Việt Nam, về sự thương yêu rộng lượng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ có thể quên. Cảm ơn chị Quỳnh Vân và anh Đức Long, biên tập viên mảng truyện ngắn của tòa soạn báo Sinh viên Việt Nam - Hoa Học Trò đã cho tôi cơ hội được rèn giũa ngòi bút và thỏa sức vẫy vùng trong trí tưởng tượng của chính mình. Cảm ơn Zbooks đã đặt lòng tin ở một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ của tôi, đã cho “Buồn như thể muốn tan ra” một cơ hội được xuất hiện trước bạn đọc. Cảm ơn ông bà, bố mẹ, anh trai, chị dâu, Chuột Chít và Sherman đã luôn ở bên động viên, cổ vũ trên mỗi bước đường tôi đi. Cảm ơn bạn đã chọn mua và đọc cuốn sách này khi mà Dora Nguyen chỉ là một cái tên rất lạ, rất mới. Trong cuộc đời mình, tôi luôn mong có thể viết ra những điều không khiến bản thân mình phải thất vọng. Nhưng hơn tất cả, tôi mong bạn - những người đã tin tưởng chọn cuốn sách này - sẽ có thể tìm thấy những câu chuyện bạn luôn muốn nghe, những điều trái tim bạn luôn muốn được an ủi. Gửi từ Malaysia, Dora Nguyen Mời các bạn đón đọc Buồn Như Thể Muốn Tan Ra của tác giả Dora Nguyen.
Nước Ý, Câu Chuyện Tình Của Tôi - Trương Anh Ngọc
“Nước Ý, câu chuyện tình của tôi” là cuốn sách dành cho “người tình” của tác giả: Italia xinh đẹp, lãng mạn, đa tình và cuồng nhiệt. Mối tình của Trương Anh Ngọc bắt nguồn từ bóng đá, bằng tiếng sét ái tình khi nhìn vào đôi mắt Tardelli sau bàn thắng thứ hai vào lưới đội tuyển Đức trong trận chung kết ở Espana 1982. Khoảnh khắc ấy đã nhen lên nhiệt huyết cho hành trình không mệt mỏi qua 17 trên 21 vùng miền của nước Ý, và rồi trở nên cuồng si trong mỗi khoảnh khắc của hơn một ngàn ngày sống trong lòng “người tình.” “Nước Ý, câu chuyện tình của tôi” không phải cuốn cẩm nang du lịch với những dòng hướng dẫn khô khan. Trương Anh Ngọc dẫn độc giả men theo chính hồi ức của mình để khám phá từng thành phố, từng miền đất đã ghi sâu vào tâm tưởng, đến nỗi ngay cả tác giả khi nhìn vào những bức hình mình đã chụp cũng chẳng thể nào còn nhớ được ngày hôm đó đã nắng hay mưa. Mỗi dòng, mỗi chữ Trương Anh Ngọc đã viết đều thấm đẫm cảm xúc, không chỉ là hoài niệm mà còn đầy yêu thương. Yêu thương với một Roma hoa lệ có những con đường lát đá gồ ghề. Yêu thương một Venezia bồng bềnh trên kênh rạch chẳng biết rồi sẽ trôi dạt về đâu cùng vẻ đẹp quyến rũ, cổ điển đã đi vào thi ca. Yêu thương Toscana có cánh đồng hoa hướng dương vàng rực vươn mình về phía bầu trời xanh. Yêu thương Chanti Classico với rượu rất ngon và phụ nữ rất đẹp… Cứ thế, gã trai si tình Trương Anh Ngọc càng si mê nước Ý. Si mê một bản trường ca thuộc về cuộc sống, tình yêu và cái chết – bóng đá. Có lẽ chỉ khi đọc “Nước Ý, câu chuyện tình của tôi”, người đọc mới có thể bắt gặp những hình ảnh độc đáo về bóng đá Italia mà không một khuôn hình, không một thước phim nào của các hãng thông tấn có thể truyền tải được. Trên cây cầu tình yêu Milvio, bên những ổ khóa của những cặp tình nhân còn có ổ khóa của những cặp đối thủ sẽ gặp nhau trong trận derby của thành Roma. Trên thực đơn của những quán bánh ngọt có những món lấy tên của những cầu thủ, vì Roma là pane và pallone (bánh mì và trái bóng). Rồi còn nụ hôn im lặng của chàng trai Ý lên chiếc khăn đỏ đen của Milan trong siêu thị, âm thầm nhưng cuồng nhiệt. Và có những trận bóng mà cầu thủ chính là những thầy tu suốt một đời phụng sự Chúa. Italia – “đất nước lãng mạn và là điểm đến lý tường cho các lứa đôi, cũng là nơi mà tỷ lệ ly dị và ly thân đang tăng lên chóng mặt, người ta có thể từ bỏ người tình hoặc vợ, sẵn sàng chia tay tay những người bạn và tạo thêm cho mình những kẻ thù nhưng họ không bao giờ phản bội đội bóng mà họ yêu và đi theo suốt cuộc đời.” Nước Ý, “người tình” của Trương Anh Ngọc, là đất nước của tình yêu với những lá thư từ khắp mọi nơi trên thế giới gửi cho nàng Juliet ở Verona, là đất nước của những viên kem ngọt ngào, là đất nước của những chiếc xe Vespa chỉ còn lại trong quá khứ hoa mộng… Nước Ý ấy xa lạ nhưng cũng thật gần gũi với những câu chuyện chân thực về cuộc sống, về những bon chen, lo lắng thường nhật vì giao thông hỗn loạn ở Roma, vì trường học xuống cấp, thiếu hụt giáo viên,… Nước Ý, trong con mắt của Trương Anh Ngọc, có Đức Hồng y và mafia, có bầu trời xanh và những vũng nước nhầy nhụa, có tình yêu cháy bỏng nồng nhiệt và những vụ ly hôn… Nước Ý ấy, không hoàn hảo, không lộng lẫy, nhưng vẫn đẹp và vẫn khiến người ta yêu say đắm. “Nước Ý sẽ ở trong tim bạn ngay cái nhìn đầu tiên, như một tình yêu sét đánh mà người Ý, vốn hoa tình và quá lãng mạn trong đời sống tình cảm, luôn vướng vào như mắc phải tơ nhện [...] Tình yêu ấy với nước Ý đôi khi không chỉ bắt nguồn từ âm nhạc, ngôn ngữ, bóng đá, ẩm thực và đàn bà mà có thể qua cả mafia và cuộc chiến chống mafia nữa. [...] Trên đất nước của những điều kỳ diệu của con người, thiên nhiên, của các tác phẩm nghệ thuật, của lịch sử và văn minh, có quá nhiều điều bất công, có biết bao tội ác và những điều nghịch lý. Nhưng những ai đã có nước Ý trong tim rồi sẽ chẳng bao giờ từ bỏ tình yêu ấy vì điều đó.” *** “Series A, Mafia, Bầu trời Tuscany và Anh Ngọc. Một hành trình khám phá nước Ý qua gọng kính của một kẻ lãng mạn.” - Đạo diễn Việt Tú    “Nước Ý sẽ ở trong tim bạn ngay cái nhìn đầu tiên, như một tình yêu sét đánh mà người Ý, vốn hoa tình và quá lãng mạn trong đời sống tình cảm, luôn vướng vào như mắc phải tơ nhện [...] Tình yêu ấy với nước Ý đôi khi không chỉ bắt nguồn từ âm nhạc, ngôn ngữ, bóng đá, ẩm thực và đàn bà mà có thể qua cả mafia và cuộc chiến chống mafia nữa. [...] Trên đất nước của những điều kỳ diệu của con người, thiên nhiên, của các tác phẩm nghệ thuật, của lịch sử và văn minh, có quá nhiều điều bất công, có biết bao tội ác và những điều nghịch lý. Nhưng những ai đã có nước Ý trong tim rồi sẽ chẳng bao giờ từ bỏ tình yêu ấy vì điều đó.” “Cuốn sách này là “đồng xu” mà Anh Ngọc đã tặng cho bạn, để bạn ném xuống đài phun nước Trevi. Nó sẽ giúp bạn đến được với nước Ý.” - Nhà báo Yên Ba   “Nếu nói nước Ý là quê hương thứ hai của Ngọc, có lẽ là nói quá lên về mặt địa lý. Nhưng nói nước Ý đã sinh ra một chàng trai Việt, có lẽ người-tình-trong-anh gắn bó với mảnh đất này không thể dỗi hờn!” - Nhiếp ảnh gia Dương Minh Long    “Với Nước Ý - câu chuyện tình của tôi của Anh Ngọc, những ai đã đến hoặc chưa hoặc rồi sẽ đến, đã yêu hay không yêu hoặc chưa yêu đều sẽ biết đến một nước Ý hoàn toàn khác. Một nước Ý theo kiểu của một Milanista đích thực, yêu Milan đến quặn lòng, nhưng bình luận trận Roma vô địch nước Ý hồi năm 2001 thì lại khóc, khóc nghẹn cả giọng vì… sung sướng!” - Nhà thơ Đoàn Ngọc Thu *** Tôi làm quen với nước Ý từ năm lên bảy. Espana 82. Tiếng nhạc Tây Ban cầm và điệu gõ gót chân Flamenco. Những bàn thắng trên sân cỏ Tây Ban Nha. Và những hình ảnh không bao giờ có thể xóa mờ cho đến lúc chết về đôi mắt sáng rực của Tardelli sau bàn thắng thứ hai vào lưới đội tuyển Đức trong trận chung kết. Đôi mắt Ý ấy cứ ám ảnh tôi mãi, vì sau ánh mắt hạnh phúc và xúc động tột cùng dường như không thể tin nổi vào chiến thắng ấy là rất nhiều những ánh mắt khác nữa, ánh mắt hân hoan tột độ, lóe lên rồi tắt ngấm của Schillaci ở Italia 90, ánh mắt buồn bã nhưng không đau khổ đến mức tuyệt vọng của Roberto Baggio sau những loạt penalty thất bại ở World Cup 94, và ánh mắt như say trong cơn mê của Grosso trong trận chung kết World Cup 2006. Bóng đá Ý là vậy ư, tràn ngập những cảm xúc về cuộc sống, về con người, về những bon chen và thủ đoạn, là tấm gương phản ánh tất cả những nét đẹp đẽ và xấu xa của cuộc đời? Những đôi mắt Ý là vậy ư, sâu thẳm, đầy tình cảm, lãng mạn, nhưng cũng rất thực tế mà mỗi thành công trong cuộc sống phải trả những cái giá rất đắt, để đến khi những niềm vui biểu lộ ra bao giờ cũng xúc động như chan chứa những giọt lệ rơi? Và cũng có một âm hưởng chung như thế với những bài dân ca Napoli trong tiếng đệm mandolin, những bài hát lãng mạn mà mỗi câu lại được viết bằng thứ tiếng Ý trong trẻo và vang lên trên đầu lưỡi mỗi người, bản thân nó, khi không đệm nhạc cũng đã đầy chất nhạc và thơ? Phải, và có lẽ vì thế, những ai đã đến đất nước lãng mạn và xinh đẹp hình chiếc ủng bên bờ Địa Trung Hải và Adriatico ấy đều mong ngày trở lại. Chẳng cần phải đến cho bàn tay vào La Bocca della Verita1 để kiểm tra xem tình cảm ấy có đúng không, chẳng cần phải ném những đồng xu may mắn xuống đài phun nước Trevi ở Roma, hay ngồi trên những Bậc thang Tây Ban Nha để mơ mộng một cách mê đắm như Audrey Hepburn trong Kỳ nghỉ ở Roma để thể hiện tình yêu ấy là thật. Chỉ cần bạn nói bạn yêu nước Ý, thế là đủ. Italia Mia2! Nước Ý sẽ ở trong tim bạn ngay cái nhìn đầu tiên, như một tình yêu sét đánh mà người Ý, vốn hoa tình và quá lãng mạn trong đời sống tình cảm, luôn vướng vào như mắc phải tơ nhện (có phải vì thế mà người ta đã nói từ thời Trung cổ: “Không hiệp sĩ Ý nào lại không giắt dao găm dưới áo giáp, không có người phụ nữ Ý nào lại không có bồ”?). Tình yêu ấy với nước Ý đôi khi không chỉ bắt nguồn từ âm nhạc, ngôn ngữ, bóng đá, ẩm thực và đàn bà mà có thể qua cả mafia và cuộc chiến chống mafia nữa. Ai đã sống cùng tôi những năm 1980 hẳn sẽ chẳng bao giờ quên những thước phim Bạch tuộc, những thước phim về cuộc chiến của thanh tra Cattani, về cái chết bi thảm của ông như một bản sao từ cái chết của viên tướng Dalla Chiesa ở Palermo năm 1982, báo hiệu cho những cái chết tiếp theo của các thẩm phán Falcone và Borsellino. Trên đất nước của những điều kỳ diệu của con người, thiên nhiên, của các tác phẩm nghệ thuật, của lịch sử và văn minh, có quá nhiều điều bất công, có biết bao tội ác và những điều nghịch lý. Nhưng những ai đã có nước Ý trong tim rồi sẽ chẳng bao giờ từ bỏ tình yêu ấy vì điều đó. Tôi đã luôn mơ đến việc đắm mình trong cuộc sống ở đó, đi dạo trên những quảng trường và ngắm những đài phun nước ở Roma, lái một chiếc xe du lịch dọc bờ biển gần Napoli để đến Positano và Sorrento, ra bờ biển Capri và nghe những bài dân ca bằng thổ ngữ Napoli, đọc những vần thơ của Dante và ngắm hoàng hôn trên sông Arno ở Firenze, thăm quảng trường San Marco, lướt nhè nhẹ trên dòng Kênh Lớn3 ở Venezia bằng những chiếc gondola, thăm những bức tường cổ với những nét văn hóa từ thời Hy-La, Phoenici và Byzantine ở Palermo, đi trên những cánh đồng hướng dương vàng đến tận chân trời xứ Toscana, uống rượu Chianti được làm bằng thứ nho hảo hạng nhất, dự một lễ hội Palio ở Siena và dự khán một trận derby Milano, đã nghĩ tới một ngày nắng đẹp đặt chân đến Roma, ngửa đầu nhìn bầu trời xanh Địa Trung Hải cao lồng lộng, hít một hơi của một bầu không khí mới mẻ và nói tiếng Ý với những người Ý thực thụ... Tất cả như một giấc mơ lớn cần được hoàn thành trong đời, rồi sau đó, chẳng cần biết ra sao nữa. Giờ đây, khi đã trở về sau một hành trình dài trong lòng nước Ý, sống với những người Ý cả gần gũi lẫn xa lạ, được chia sẻ tất cả những gì có thể với những người có chữ cuối ở tên thường là “a”, “o” hay “i”, tôi cảm thấy mình như một phần của họ, và bản thân họ sống trong tôi. Cuốn sách này là câu chuyện tình của tôi với nước Ý. Tôi không có tham vọng đây sẽ là cuốn sách hướng dẫn du lịch cho các độc giả muốn hiểu biết thêm về nước Ý, mà đơn giản là một tập hợp những ghi chép từ trái tim của một nhà báo đã không chỉ sống ở đó hơn ba năm, mà còn thực sự yêu đất nước ấy từ trước khi đặt chân lên đó. Nước Ý ấy hiện ra một cách lãng mạn qua những tấm ảnh tôi chụp trong những năm sống tại Ý và được chọn riêng cho cuốn sách này. Nước Ý ấy cũng hiện lên đầy sinh động, bắt đầu từ những trang viết về thủ đô Roma, nơi tôi đã sống và làm việc phần lớn thời gian, về nước Ý tôn giáo và sùng đạo với hình ảnh nhà thờ Thánh Pietro, về nước Ý của tình yêu qua những ổ khóa trên cầu Milvio và ban công nhà nàng Juliet ở Verona; qua nước Ý của La dolce vita4 với rượu vang Chianti; tới nước Ý đẹp đẽ như một thiên đường ở miền Nam. Nước Ý sẽ sống trong bóng đá một cách sinh động và thậm chí điên rồ ở phần hai và những trăn trở trong bộn bề cuộc sống ở phần cuối cuốn sách. Hãy đọc cuốn sách này với sự đam mê, và nếu có thể được, hãy đọc trong tiếng nhạc nhè nhẹ của Andrea Bocelli, Claudio Baglioni hay Francesco de Gregori. Italia Mia! TRƯƠNG ANH NGỌC Mời các bạn đón đọc Nước Ý, Câu Chuyện Tình Của Tôi của tác giả Trương Anh Ngọc.