Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân (Iulian Xêmiônốp)

Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nhà văn Yulian Semyonov, ra đời năm 1969. Tác phẩm được xây dựng trên cơ sở tài liệu về kế hoạch vô hiệu hóa cuộc đàm phán riêng rẽ của ban lãnh đạo Đức Quốc xã với tình báo Mỹ vào mùa xuân năm 1945.

Nhân vật chính của tiểu thuyết - một sĩ quan tình báo Liên Xô có tên Mikhail Isayev (mật danh Stierlitz).

Bối cảnh truyện diễn ra vào tháng Hai, tháng Ba năm 1945, ngay trước thời điểm phát xít Đức đầu hàng Đồng minh.

Câu chuyện trong Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân diễn ra vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lúc này, quân đội Nga đang chiến đấu trên đất Ba Lan, Rumani, Hungari...Thành phố Berlin, với bảy tuyến phòng ngự che chở, đêm đêm bị máy bay oanh tạc dữ dội.

Cũng trong những ngày tháng này, nhân viên tình báo Liên Xô Isayev đang hoạt động ở nước Đức phát xít với cái tên Stierlitz, đại tá SS phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc đế chế thứ ba đang trong một tình thế hết sức nguy hiểm. Tìm mua: Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân TiKi Lazada Shopee

Bằng cách nào Stierlitz có thể bảo toàn được vị trí hoạt động của mình để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cứu đồng đội thoát khỏi cái chết...***

Yulian Semyonov (1931-1993)Là một trong các nhà văn Xô viết nổi tiếng, chuyên viết về thể loại trinh thám. Sau khi tốt nghiệp khoa Đông phương học ở Trường đại học tổng hợp Moskva, ông làm phóng viên lưu động cho nhiều tạp chí thanh niên, về sau làm đặc phái viên báo “Sự thật”. Ông đã đi hầu khắp các nước trên thế giới, đã đặt chân đến Bắc và Nam cực, đã viết bài từ Việt Nam và Cuba, Mỹ và Nhật. Lúc nào cũng thấy ông sửa soạn lên đường, vội vã, đi công tác đây đó, vậy mà khả năng viết văn của ông vẫn sung sức lạ thường. Yulian Semyonov là tác giả tám tiểu thuyết dài. Ông đã viết kịch bản cho năm bộ phim và hàng loạt phim truyền hình nhiều tập nổi tiếng cả ở Liên Xô lẫn nước ngoài.

Đặc biệt, độc giả rất thích tiêu thuyết “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân” của ông. Đây là tác phẩm tư liệu về một nhân viên tình báo Liên Xô hoạt động ở nước Đức phát xít: Maxim Maximovich Isaуev; đó cũng chính là đại tá SS von Stierlitz, phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc Đế chế thứ ba...

Trả lời vô số câu hỏi của bạn đọc, Yulian Semyonov viết: “Có thể nào cho rằng Isaуev là một nhân vật tưởng tượng? Nhất quyết không. Hình tượng nhân vật này được đúc rút từ những con người chính trực hiện nay mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì họ đang trải qua một cuộc sống tuyệt vời, trung thực và dũng cảm”.

***

Lúc đầu, Stierlitz không tin vào tai mình nữa, có tiếng họa mi hót lảnh lót trong vườn. Không khí lạnh giá, nhuốm màu xanh xanh, và mặc dù vạn vật xung quanh đã mang sắc thái mùa xuân rụt rè giống như một bức tranh màu vẽ bằng thuốc nước tinh tế, tuyết vẫn còn kết lại chặt cứng và người ta chưa thấy nó nhuốm màu thiên thanh phơn phớt, là cái màu báo hiệu đến đêm sẽ tan.

Những thân cây cổ thụ khổng lồ đen sẫm lại. Trong vườn thoang thoảng mùi cá vừa ướp lạnh. Chưa thấy cái mùi hăng hăng của lá cây thông và cây dương năm ngoái thối rữa; đó là mùi vị của mùa xuân. Thế mà lại có tiếng họa mi véo von, lảnh lót tràn ngập khu vườn tối om và yên tĩnh này.

Stierlitz nhớ đến ông nội của anh. Ông cụ có cặp lông mày dày, có bộ râu quai nón. Ông cụ biết nói chuyện với các loài chim. Ông cụ gọi đàn chim sẻ bay đến, rồi ngồi dưới gốc cây mà ngắm chúng hồi lâu. Đôi mắt của ông cụ đưa đi đưa lại nhanh như mắt chim, và bầy sẻ hoàn toàn không sợ hãi ông cụ.

- Pinh - pinh - ta - ra - ra! - ông cụ huýt sáo gọi.

Bầy chim sẻ đáp lại một cách vui vẻ và tin cậy.

Mặt trời đã lặn hẳn và những thân cây cổ thụ màu đen in những cái bóng đều đặn, tím sẫm trên mặt tuyết trắng.

“Mày chết cóng mất thôi, họa mi đáng thương ơi, - Stierlitz nghĩ bụng. Anh khép vạt áo choàng lại và quay vào nhà. - Cũng chẳng giúp gì nó được, vì họa mi là loại chim duy nhất không tin con người.”

Stierlitz xem đồng hồ; đã bảy giờ đúng.

“Hắn sắp tới rồi đây, - anh thầm nghĩ. - Bao giờ hắn cũng đúng hẹn. Mình đã tự đề nghị hắn từ nhà ga đi thẳng qua rừng đến đây, để tránh mặt bất cứ ai. Không sao. Mình sẽ đợi hắn một lát. Chờ đợi ở một chỗ đẹp như thế này cũng dễ chịu thôi...”

Stierlitz bao giờ cũng tiếp tên điệp viên ấy ở đây, trong cái biệt thự nhỏ xinh xắn đứng bên bờ hồ. Địa điểm bí mật này là nơi thuận tiện nhất, vì nó ở giữa rừng sồi vắng vẻ, xa cách hẳn mọi người. Biệt thự này trước kia là của hai vợ chồng nghệ sĩ, múa tại nhà hát “Opera”. Họ đã chết trong một trận ném bom, để biệt thự lại cho các con. Stierlitz thuyết phục thượng tướng SS Paul trong ba tháng liền, để y đồng ý chi tiền mua biệt thự đó. Mấy đứa con của hai vợ chồng nghệ sĩ nọ đòi rất đắt, cho nên thượng tướng Paul, kẻ phụ trách Cục tài chính của hai tổ chức SS* và SD*, cương quyết từ chối lời thỉnh cầu của Stierlitz. Y nói: “Ông điên à? Sao ông không tìm mua một chỗ nào rẻ hơn? Sao ông say mê cái biệt thự xa xỉ ấy đến thế nhỉ? Chúng tôi không thể vung tiền qua cửa sổ được đâu! Như vậy là quá ư tàn nhẫn đối với một đất nước đang mang gánh nặng chiến tranh như nước ta”.

Schutzstaffel, là một tổ chức bán quân sự trực thuộc Đảng Quốc xã dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ Tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Sicherheitsdienst, Cục An ninh, là một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã. Từ năm 1944, SD nắm luôn ngành Quân báo.

Stierlitz đành phải lôi cấp trên trực tiếp của mình đến xem biệt thự. Đó là Walter Schellenberg, ba mươi tư tuổi, thiếu tướng, chỉ huy Cục tình báo chính trị của tổ chức SD. Là một người có trí tuệ siêu việt biết thưởng thức vẻ đẹp tinh tế. Schellenberg hiểu ngay rằng không thể tìm được địa điểm nào tốt hơn để nói chuyện với các điệp viên quan trọng, bằng biệt thự này. Việc mua bán được tiến hành qua một số người mạo tên. Và gã Bolsen, kỹ sư trưởng của “nhà máy hóa chất quốc dân mang tên Robert Ley” nhận được quyền sử dụng tòa biệt thự. Bolsen thuê ngay một người gác cổng với tiền lương khá cao và cho ăn đầy đủ. Cái gã Bolsen ấy chính là đại tá SS von Stierlitz.

Bày bàn ăn xong, Stierlitz vặn radio. Đài phát thanh Luân Đôn đang truyền đi một bản nhạc vui. Dàn nhạc của một người Mỹ tên là Glenn Miller đang chơi một khúc nhạc trong phim “Khúc nhạc chiều của thung lũng mặt trời”. Thống chế Himmler rất mê bộ phim ấy, nên đã cho mua bên Thụy Điển một bản mang về. Từ đó, nó thường được đem ra chiếu trong hầm ngầm ở phố Hoàng tử Albrecht, nhất là giữa các trận ném bom đêm, khi không thể tiến hành hỏi cung những người bị bắt.

Stierlitz gọi dây nói cho người gác cổng chạy lên. Anh bảo:

- Hôm nay, anh có thể về nhà với các con. Sáu giờ sáng mai, anh hãy trở lại đây, và nếu tôi chưa đi, thì anh hãy pha cho tôi một cốc cà-phê đặc, thật đặc vào, rõ chưa?

“Yustas gửi Alex,

Từ Berlin.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân PDF của tác giả Iulian Xêmiônốp nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Người Vô Hình
Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích. *** Trong đau đớn, khốn cùng, trong khoái cảm, và cái chết - Đó là đời sống mà nhà khoa học Griffin đã nếm trải khi trở thành một người vô hình. Ở Người vô hình, thiện và ác là những bện xoắn rất chặt vào nhau, ràng buộc, tựa nương vào nhau mà phát triển. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Giết người sẽ dẫn đến giết người. Có lẽ đó là cái lý lẽ phù hợp với quy luật tự nhiên nhất, và nó chạy theo nhau, đẩy mãi, đẩy mãi đến tận cùng của xung đột. Cái chết của người vô hình là sự hóa giải cuối cùng. Tại sao cuộc đời người vô hình lại đi đến mức ấy? Người vô hình là một vật thể lạ giữa loài người. Và loài người từ xưa tới này vốn là sinh vật không chấp nhận sự khác biệt, hoặc hoảng sợ, hoặc ruồng rẫy, và trước sau gì sự hủy diệt cũng sẽ xảy ra. Là tham vọng hay thực chất chỉ là thanh trừng những gì không nằm trong hệ thống. *** Vào một ngày mùa đông đầu tháng hai, gió lạnh thổi từng cơn như cắt da, những đợt tuyết cuối cùng trong năm rơi xuống phủ lên mặt đất một màu trắng xóa. Từ ga xe lửa Bramblehurst, có một người khách lạ đi tới, mình mặc áo khoác đen, cầm một túi đen nhỏ trên tay mang găng dày, chân mang ủng. Ông ta quấn kín từ đầu đến chân, và một chiếc nón rộng vành che hết khuôn mặt chỉ chừa lại chóp mũi sáng bóng. Tuyết rơi phủ trên vai và lưng trông giống như ông ta đang mang một túi hành lý thật nặng. Ông ta bước vào quán trọ “Xe và Ngựa” như là một người sắp chết và ném cái túi xuống. - Lò sưởi! Làm ơn cho tôi thuê một phòng có lò sưởi! - Ông khách kêu lên. Ông ta dậm chân và lắc mình làm tuyết rơi đầy trong quán rượu và theo chân bà Hall, vợ chủ quán đi vào phòng khách mà không cần hỏi giá. Không nói lời nào, khách lạ ném hai đồng vàng sovereign lên bàn và đi vào phòng của ông. Giữa những ngày đông tháng giá, không có một bóng khách qua lại thì đây là một dịp may hiếm có cho bà Hall. Bà vội vàng đốt lò sưởi cháy đỏ lên và tự đi lo bữa ăn thậi xứng đáng cho ông khách. Khi thức ăn, nước uống đã được làm xong bà đem khăn, dĩa, ly vào dọn lên bàn. Mặc dù lửa trong lò sưởi đã cháy đượm, nhưng ông khách lạ vẫn còn để nguyên quần áo và nón, đứng nhìn đăm đăm ra cửa sổ xem tuyết rơi ngoài sân, lưng quay về phía bà và dường như ông ta đã hóa đá. Đôi tay đeo găng của ông chắp ra sau và có vẻ như ông ta đang mải mê suy nghĩ. Bà thấy tuyết trên vai ông khách đã tan thành nước và chảy ròng ròng xuống, làm ướt cả tấm thảm trải sàn nhà. Bà ngạc nhiên hỏi: - Thưa ông, ông cho phép tôi mang nón và áo khoác vào nhà bếp để hong khô chứ? Không hề ngoái lại người khách nói: - Không cần, bà cứ để mặc tôi. Bà chắc mình đã không nghe rõ câu trả lời, nên lặp lại câu hỏi. Ông ta quay đầu lại nhìn qua vai bà và nói: - Tôi thích để như vậy! - Ông ta nhấn mạnh từng lời với vẻ thật cương quyết. Bà để ý thấy ông khách mang một cặp kính to màu xanh đen, mớ tóc rậm và một hàm râu rậm rạp phủ đến tận cổ áo khoác che khuất cả gò má và khuôn mặt. - Được thôi, thưa ông. Nếu ông thích như vậy. Chỉ một chút nữa căn phòng sẽ ấm lên theo ý ông muốn. - Bà nói. Ông khách không trả lời, lại quay mặt đi nơi khác. Bà Hall cảm thấy không phải là lúc tiếp tục cuộc nói chuyện nên để mọi thứ lên bàn rồi lặng lẽ rời khỏi phòng. ... Mời các bạn đón đọc Người Vô Hình của tác giả Herbert George Wells & Nghiệp Khánh (dịch).
Bà Dalloway - Virginia Woolf
Bà Dalloway có thể coi là một trong những cuốn sách văn học tiêu biểu đầu thế kỉ 20 (được tờ Telegrap đánh giá là 100 cuốn tiểu thuyết nên đọc trong đời), khi mà người ta đã "chán" kiểu lãng mạn, mơ mộng của Jane Austen hay chị em nhà Bronte, thay vào đó là trào lưu tư tưởng về thuyết sinh tồn. Đầu thế kỉ 20 là thời gian biến động của thế giới nên văn học cũng chuyển biến theo như vậy, theo chiều hướng nặng nề và khắc khổ hơn. Người ta nghĩ rằng tư tưởng sinh tồn (coi cuộc sống vô nghĩa) sẽ chỉ là một trào lưu nhất thời trong thời kì đen tối nhưng thực chất đã ảnh hưởng đến một thế hệ lớn sau này và người ta nhận ra rằng, con người trong thời kì nào cũng tiềm tàng tư tưởng đó. *** Virginia Woolf (tên thời con gái Stephen) (sinh 25 tháng 1, 1882 - mất 28 tháng 3, 1941) là một tiểu thuyết gia và là một nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỉ 20. Trong suốt thời gian giữa chiến tranh, Woolf là một nhân vật có tầm ảnh hưởng của xã hội văn học London và là một thành viên của Bloomsbury Group.   Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm: Đêm và ngày (Night and Day, 1919), Căn phòng của Jacob (Jacob’s Room, 1922), Bà Dalloway (Mrs.Dalloway, 1925), Đến ngọn hải đăng (To the Lighthouse, 1927), Orlando (1928), Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929), Những đợt sóng (The Waves, 1931), Ba đồng tiền vàng (Three Guineas, 1938). Trong các sáng tác của bà, tác phẩm luận văn Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929) có một câu châm ngôn rất nổi tiếng:"a woman must have money and a room of her own if she is to write fiction" ("một người phụ nữ phải có tiền và một căn phòng riêng nếu cô ta phải viết tiểu thuyết". *** Bà Dalloway bảo bà sẽ tự đi mua hoa. Vì Lucy có công việc phù hợp với cô ta. Mấy cánh cửa sẽ được tháo khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer sẽ tới. Và sau đó, Clarissa Dalloway nghĩ, thật là một buổi sáng tuyệt vời – tươi tắn như thể được ban phát cho lũ trẻ con trên bờ biển. Thật hân hoan! Thật chìm đắm! Vì dường như đối với bà, khi những cái bản lề kêu rít lên, như lúc này bà có thể nghe, bà phải mở tung những khung cửa sổ kiểu Pháp và lao người vào bầu không khí thoáng đãng của Bourton. Trong lành biết bao, êm ả biết bao, dĩ nhiên là yên tĩnh hơn lúc này, bầu không khí sớm mai hồi ấy giống như tiếng vỗ của một làn sóng; nụ hôn của một làn sóng; lạnh và gắt, thế nhưng nghiêm trang (với một cô gái mười tám tuổi như bà thuở ấy),khi bà cảm thấy như đã từng cảm thấy lúc đứng đó ở khung cửa sổ mở, rằng một điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra; khi nhìn những bụi hoa, những cây cối với làn khói ngoằn ngoèo lan tỏa và những con quạ đang vọt lên, sà xuống; đứng và nhìn cho tới khi Peter Walsh bảo: “Đang suy tư giữa đám rau củ hả? – Phải thế không? – “Tôi thích những người đàn ông hơn là những cây cải bắp” – Phải thế không? Hẳn ông ấy đã nói thế vào bữa điểm tâm của một sớm mai nào đó khi bà đã bước ra trước sân hiên – Peter Walsh. Một hôm nào đó, trong tháng Sáu hoặc tháng Bảy này, bà quên mất là tháng nào, ông ấy sẽ trở về từ Ấn Độ, vì những lá thư của ông ấy cực kỳ buồn nản; những câu nói của ông ấy chính là thứ làm cho người ta nhớ; đôi mắt, con dao nhíp, nụ cười, tính tình gắt gỏng của ông ấy, và khi hàng triệu thứ đã hoàn toàn biến mất, một vài câu nói như câu này về những cây cải bắp thật kỳ lạ biết bao! Bà hơi cứng người lại chút đỉnh trên vệ đuờng, chờ chiếc xe tải của Durtnall chạy qua. Một người phụ nữ quyến rũ, Scrope Purvis nghĩ về bà (ông ta biết bà như người ta biết về những người sống bên cạnh nhà mình ở Westminster); ở bà có cái dáng vẻ của một con chim, một nàng chim giẻ cùi, xanh lam, nhẹ nhàng, sôi nổi, dù bà đã quá năm mươi, và đã bạc trắng mái đầu từ khi ngã bệnh. Bà đứng đó, không hề nhìn thấy ông, chờ để băng qua đường, người thật thẳng. ... Mời các bạn đón đọc Bà Dalloway của tác giả Virginia Woolf.
Người Chậm - John Maxwell Coetzee
Chọn thành phố Adelaide của Úc làm bối cảnh, tác giả Người chậm dường như tạo điều kiện cho các nhân vật có một nơi thật yên tĩnh để được quyền chậm rãi. Sống chậm rãi, suy tư chậm rãi, nghiền ngẫm về đời sống và những con người vây quanh ta, tự hỏi và tự giải đáp... Người đàn ông bị tai nạn giao thông, phải cưa cụt một chân nhưng khăng khăng từ chối lắp chân giả. Ông trăn trở về việc mình chỉ như người khách trên đất nước này, nhưng ông cũng không phải là người Pháp dù gốc gác Pháp, cũng không phải là người Anh, hay là người Hà Lan như ông bố dượng của mình. Người phụ nữ gốc Croatia mới nhập cư cũng không thuộc về xứ sở này. Suy cho cùng, tất cả đều là dân ngụ cư, là tạm trú trên xứ sở và trên cả hành tinh. Ông có cảm tình với người đàn bà gốc Croatia được thuê đến để chăm sóc mình, cảm tình hay là tình yêu? Sự giúp đỡ mà ông đề nghị với chị là trong sáng hay vụ lợi trong cốt lõi? Đứa con trai của chị, thích phóng xe máy và muốn vào trường nội trú đắt tiền, là kẻ ngang tàng, bừa bãi hay là người chu đáo, tận tâm như mẹ cậu? Tất cả đã được bóc tách ra từng lớp, dần dần, lớp sau gây giật mình, thậm chí lật nhào kết luận vừa mới đến từ lớp trước. Sự mổ xẻ tâm lý nhiều lúc rợn người, đau xót. Sự phân tích tâm trạng nhiều lúc tỉ mỉ, tinh tế ở mức độ cao. Sự phân tích sắc sảo, dồn thúc đối tượng vào thế cùng để tự thú, một phần là do một nhân vật bí ẩn gây ra. Một bà già tự xưng là nhà văn, tìm đến, ám ảnh và quấy rầy ông. Ngôn từ nghiệt ngã, khô gọn và chính xác, bà bóc trần những trạng thái tâm sinh lý của người đàn ông hiền lành và từ tâm. Không phải để hạ bệ lòng tốt của con người, mà chỉ ra cho con người thấy cái đáy sâu của tấm lòng ấy. Không chỉ là ông già trong truyện, mà ngay cả người đọc có lẽ cũng có lúc bất bình, cảm thấy bị tổn thương trước sự sắc sảo quai quái của bà già này. Bà xuất hiện một cách bất ngờ, hiện diện thường xuyên một cách bí ẩn, và cũng ra đi một cách không thể lý giải ở cuối truyện. Cũng có thể bà không tồn tại bằng xương bằng thịt, chỉ đơn giản bà chính là con người thứ hai, bước ra từ trong chính nhân vật và trong độc giả. Trong cuốn sách này, Coetzee đưa ra suy ngẫm thâm thuý về những gì làm chúng ta thành người, về những cách làm ta chín chắn hơn và ý niệm phải sống ra sao trong đời. Bằng giọng văn chắc chắn và kiên quyết, Coetzee vật lộn với các vấn đề này, và cho ra đời một câu chuyện cảm động sâu sắc về tình yêu và cái chết làm người đọc sững sờ ở từng trang. *** Tai họa vồ lấy ông từ phía bên phải, đột ngột, bất ngờ và đau đớn như một tia lửa điện, nhấc bổng ông khỏi chiếc xe đạp. Bình tĩnh nào! Ông tự nhủ lúc bay trong không khí (bay vèo trong không trung sao dễ thế!), thực vậy, ông cảm thấy chân tay ông ngoan ngoãn buông chùng. Giống hệt một con mèo, ông tự nhủ, cuộn tròn rồi nhún chân bật lên, sẵn sàng tiếp nhận điều sắp tới. Tiếp đến là cái từ mềm dẻo lạ thường. Song le, sự việc lại không hoàn toàn như thế. Không hiểu vì đôi chân ông không nghe lời hay vì lúc ấy ông quá choáng váng (ông nghe thấy hơn là cảm thấy sọ ông đập mạnh lên lớp nhựa đường chắc, cứng đơ đơ như đập vào cái vồ), ông không bật lên bằng chân tí nào, ngược lại bị trượt đi nhiều mét, trượt mãi, cho đến lúc ông ngất lịm. Ông nằm sóng sượt, im lìm. Buổi sáng hôm đó thật huy hoàng. Ánh mặt trời ve vuốt dịu dàng. Nằm soài ra như thế, đợi phục hồi sức khoẻ còn tệ hơn. Thực ra có thể còn thứ tệ hơn là chợp mắt một lát. Ông nhắm mắt, thế giới chòng chành, xoay tròn bên dưới; rồi ông thiếp đi. Đột nhiên ông chợt tỉnh. Thân thể ông vừa bay trong không khí nhẹ nhõm là thế mà mỗi lúc một nặng nề, nặng đến mức ông không sao nhấc nổi một ngón tay. Có ai đó hiện ra lờ mờ phía trên ông, một người trẻ hơn, tóc thô và xoắn bện thừng. - Xe đạp của tôi - ông nói với cậu ta, phát âm khó khăn từng từ, từng từ một. Ông muốn hỏi chiếc xe của ông ra sao rồi, vì một cái xe đạp có thể biến mất trong chớp mắt. Nhưng chưa kịp nói ra những lời ấy, ông lại ngất đi lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Người Chậm của tác giả John Maxwell Coetzee.
Anh trai Em gái - Tào Đình
“Anh Trai - Em Gái” cùng một tác giả Tào Đình “Xin lỗi, em chỉ là con đĩ”, “Thiên thần sa ngã”, “Yêu anh hơn cả tử thần”, “Hồng hạnh thổn thức” Nếu nói rằng: “Yêu là mỗi sợi tơ. Tấm vải tình yếu nhất định phải do hai người dệt từng sợi một mới tạo nên hạnh phúc” thì yêu đơn phương, hỏi có phải tình yêu? Yêu đơn phương đã khổ. Yêu chính anh trai của mình lại càng khổ hơn nữa. Mai Mai yêu anh trai Dương Dương, một tình yêu tội lỗi nhưng không bệnh hoạn, tội lỗi mà vẫn đáng thương. Bởi, Mai Mai là cô gái câm. Trong thế giới “hư ảo, lặng lẽ, không người”, trống rỗng và cô độc của cô, duy nhất chỉ có người anh trai ngự trị. Yêu anh và muốn độc chiếm người anh, Mai Mai đã tự tước đi niềm vui hồn hậu của tuổi thơ, đẩy mình vào vòng xoáy của những mâu thuẩn giằng xé giữa hờn ghen ích kỷ và tình yêu thương. “Chị em sinh đôi, chị em như hoa, tương thân tương ái không rời xa”. Vậy mà Mai Mai đã ghen với từng tiếng gọi “anh” nũng nịu, ngộ nghĩnh của An An, Người em gái sinh đôi láu lỉnh, thông minh, hoạt bát, dễ thương. Có lần, An An bị ngã - một vết sẹo dài theo cô suốt cuộc đời, nhức nhối trong tim một nỗi đau không nói nên lời. Cô tinh nghịch, bất cần. Cô sống đơn giản và bồng bộ. Có ai hình dung cô thế nào trong những khoảnh khắc mơ màng đứng bên cửa sổ, ánh mắt u ám nhìn xa xăm, khao khát về một “ngọn đèn” cho riêng mình?...... “Mình là mặt trời, chị là mặt trăng, một bầu trời không thể cùng lúc có cả mặt trăng lẫn mặt trời, hai thiên thể thần linh” *** Một buổi sớm mùa xuân, Hà Tặc, gã trai cùng lớp với tôi, sửng sốt khi nhìn thấy Mai Mai lần đầu tiên. Không kìm được, gã reo lên đầy kinh ngạc: "Trời, đẹp quá!" "Chị là người ở đâu thế, trông chị rất đặc biệt!" "Chị học trường nào?" "Chị tên gì?" "Sao khinh người thế?" Gã hỏi liền một thôi một hồi; lần đầu tiên cảm thấy lăn tăn về sức hấp dẫn của mình đối với người khác giới. Mai Mai nhìn Hà Tặc, lại nhìn tôi, nụ cười hồn hậu, vẻ bình thản, êm đềm như mặt nước mùa thu. Mai mai mặc sơ mi trắng, bên trong là áo bó và váy đều màu hồng. Nắng xuân đã về nhưng không khí vẫn còn phảng phất hơi lạnh. Trông em tao nhã, tràn trề sức sống, ánh mắt như cười, như giễu cợt sự vụng về, bất cẩn của người đối diện. Mai Mai đem bút và màu ra ban công ngồi vẽ. "Ông bạn, ích kỷ thật đấy, có cô bạn đẹp như vậy mà không sớm giới thiệu với anh em!?" Hà Tặc lại quay đầu về phía tôi, đùa đùa thật thật; đột nhiên nét mặt thoáng băn khoăn, gã lẩm bẩm: "Ồ, mà tại sao nàng lại không thèm để ý đến tớ nhỉ, "Trái tim không ngủ yên" của tớ bị tổn thương mất." ... Mời các bạn đón đọc ​Anh trai Em gái của tác giả Tào Đình.