Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút

Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Truyện tình báo Liên Xô Người dịch: Nguyễn Thụy Láng NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA HUẾ - 1987 Số trang: 240 Dịch từ nguyên bản tiếng Nga BA BỘ MẶT CỦA I-A-NÚT Báo Tiểu thuyết - Tháng 6-1984 àu ngầm «Van-ki-ri-a» mất tích Vào tháng sáu năm 1944, chiếc tàu ngầm của hải quân Đức mang tên Van-ki-ri-a bị mất tích. Khi thời hạn thẩm tra kết thúc, thì ở căn cứ hải quân, nơi chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a có trong danh sách, các tàu khác đã treo cờ rủ và các sĩ quan đều mang băng tang. Ban tham mưu xếp nó vào danh sách các tàu ngầm và thủy thủ bị mất tích, còn người thân của các thủy thủ thì được biết là họ đã hy sinh anh dũng trong một trận chiến đấu với kẻ thù của nước Đức vĩ đại. Ít người được biết số mệnh thật sự của chiếc tàu ngầm này. Hành trình các chuyến đi kéo dài của nó người ta lại càng biết ít hơn. *** Một người dáng vóc vạm vỡ, bắp thịt nở nang, da rám nắng, từ biển bước lên bãi tắm óng ánh cát vàng, gạt những giọt nước đọng trên mình rồi thủng thẳng đi dọc theo mép nước. Giờ này trên bãi tắm Ca-pa-ca-ban ở Ri-ôđơ Gia-nê-rô chỉ có ít người. Từ Đại Tây Dương, từng luồng gió mát thổi vào sâu trong lục địa xô bạt luồng khí nóng oi bức đang bốc lên từ những con đường rải nhựa của thành phố. Hắn ta đứng lại, lấy chân hất chiếc vỏ ốc nửa chìm nửa nổi trong cát. - Chào Ghéc-man! Người đàn ông đứng tuổi có bộ râu hung hung kiểu thủy thủ với thân hình rắn chắc cất tiếng chào. Y đang nằm ngửa cách Ghéc-man chừng dăm bước và bây giờ lật sấp, chống khuỷu tay nhỏm dậy, đưa tay che mắt cho khỏi bị chói nắng. - Chào bác sĩ Dên-khốp! Ghéc-man đáp lại rồi ngồi xuống cát bên cạnh y. - Anh đến muộn 15 phút đấy. - Có một chuyện hoàn toàn tình cờ, thưa bác sĩ. Ghéc-man nói. - Khỏi cần chi tiết. Ta hãy nói vào việc đi. Mong sao anh tránh khỏi được mọi chuyện tình cờ, chàng trai ạ. - Thuyền đã đến vào đêm qua. Đội thủy thủ đã được bố trí ngay tức khắc, và bây giờ chắc là đang vung tiền vào tiệc rượu chè. Trên thuyền chỉ còn lại thuyền trưởng và một gã Mê-hi-cô tên là Pê-rết. - Thế gã Pê-rết này làm việc ra sao? - Một chàng trai đáng tin cẩn. Có thể trông cậy vào anh ta. - Bọn họ chỉ có hai người thì không thể đưa thuyền ra khỏi cảng được! - Vâng, tất nhiên, nhưng tôi đã chuẩn bị thêm hai người nữa. Ghéc-man trả lời. - Hãy thận trọng đấy ! Đừng quên rằng chính phủ nước này, về hình thức, đang theo con đường trung lập. - Tôi hiểu ngài. Thưa bác sĩ. Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở đâu ạ? - Ở vuông 27-15. Các anh cần phải có mặt ở đấy từ 23 giờ đến nửa đêm. Tín hiệu - pháo lửa đỏ để mọi góc độ nhìn thấy rõ và ở phía dưới là những đốm sáng xanh. Anh sẽ bắn pháo hiệu. Họ sẽ tự tìm đến chỗ anh. Mật khẩu của họ «Chào buổi sáng». Anh sẽ trả lời: «Địa bàn bị hỏng, bây giờ đêm nào cũng lạnh». - Tất cả đã rõ. Ngay đêm nay ạ? Ghéc-man hỏi. - Chính đêm nay. Hàng chở trên tàu là bao nhiêu? - Một trăm sáu mươi tấn - Ghéc-man trả lời. - Một trăm tấn ở dạng thỏi, còn lại là tiền đúc. Bác sĩ Dên-khốp cau mày. - Phải đúc lại tất cả. Với những số tiền đúc ấy thì nguy hiểm hơn đấy. Ghéc man nhún vai. - Đấy không phải là điều quan tâm của chúng ta, thưa bác sĩ. - Ghéc-man đáp... - Phải. - Dên-khốp xác nhận. - Thôi, đi đi, Ghéc-man! Trước tiên hãy xuống nước, sau đó lên bờ, ở đâu thì tùy ý. Ban ngày hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay anh phải đứng trước một công việc khó khăn nặng nề đấy. Hãy nhớ nhé: Ô vuông 27-15. *** Con cá Ma-rơ-lin to lớn lao nhanh vào tấn công. Đàn cá chuồn vọt lên, bay trên mặt nước, giương những cặp vây dài lướt sẹt trong màn đêm dày dặc để thoát nạn... Một lúc sau chúng lại hạ xuống nước. Chỉ còn một con vì bay cao hơn cả đàn nên không trở về với biển được. Bị mắc vào kính tiềm vọng, nó rơi xuống dưới chân những người đang đứng trên cầu tàu, chút nữa làm rơi chiếc mũ lưỡi trai của viên chỉ huy tàu. - Đồ dơ dáy! - Viên chỉ huy rủa rồi lấy chân hất con cá chuồn vào một góc. - Nửa giờ nữa là đến hẹn! - Tê-ô-đo Phôn Bết-man nhận định. - Anh tin rằng chúng ta đang ở đúng địa điểm đã định chứ? - Viên chỉ huy hỏi. - Hoàn toàn tin chắc. - Tốt. Chúng ta chờ đợi vậy. Chiếc tàu ngầm Van-ki-ri-a đã tắt đèn, đậu đúng ô vuông 27-15 trong tư thế chiến đấu: thân tàu dài và hẹp ẩn chìm dưới nước, chỉ có buồng chỉ huy, như một mỏm đá ngầm, nổi mập mờ trên mặt nước khó mà đoán nổi trong đêm tối. Địa điểm chúng ta đậu đúng trên chí tuyến Ma-kết. Viên thuyền phó thứ nhất phá tan sự im lặng. Trong khi đó chiếc thuyền «Ô-ri-nô-cô» đang tiến đến địa điểm hẹn. Vài giờ trước, dưới sự chỉ huy của Han-xơ Đrê-vít, một người Đức sinh ra ở Ác-hen-ti-na, con thuyền rời cảng Ri-ô đơ Gia-nê-rô ra khơi. Các nhà chức trách trên cảng theo thông báo của viên thuyền trưởng đã nhận xét trong các giấy tờ: cảng đến là Xan-tô Ca-ra-vê-lốc; hàng chuyên chở là máy khâu, đoàn thủy thủ gồm năm người. Đứng bên cạnh viên thuyền trưởng trên mạn tàu là người giúp việc có vẻ mặt rầu rĩ, đó là Pê-rết, mà trước đây theo lời đồn là một tên cướp sừng sỏ, gốc Mê-hi-cô. Ở đây còn có cả Ghéc-man và hai thủy thủ bỏ trốn từ chiếc tàu thủy Ác-hen-ti-na vì bị cám dỗ bởi viễn cảnh sẽ kiếm thêm chút đỉnh trong chuyến đi này. Tên chúng là Jô và Lu-ít. Trên thuyền gắn một máy nổ công suất lớn. Giờ đây, thuyền Ô-ri-nô-cô đang đi vào ô quy định, viên thuyền trưởng và Ghéc-man nhìn về phía trước. Pê-rết đứng bên tay trái, các thủy thủ đang chơi xúc xắc trong buồng của họ. - Có lẽ ta đã đến địa điểm - Viên thuyền trưởng nói và cho thuyền chạy chậm lại. - Dừng máy và chuẩn bị lửa hiệu. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ bắt đầu. Trên bầu trời, một phát pháo hiệu đỏ bùng lên như một ngôi sao và phía dưới nó nhấp nháy một đốm lửa xanh. *** - Lẽ ra đã đến lúc họ phải xuất hiện. Viên chỉ huy tàu ngầm Van-ki-ri-a vừa càu nhàu vừa đưa chiếc đồng hồ dạ quang lên tận mắt. - Mới quá có 10 phút. Phôn Bết-man trả lời - có thể họ đến muộn. - Thế anh tin chắc rằng chúng ta đang ở đúng vị trí ta phải có mặt chứ? - Viên chỉ huy hỏi lại. Tê-ô-đo Bết-man nói với vẻ bực mình: - Tôi đã đích thân kiểm tra lại những tính toán của hoa tiêu. Chính ông cũng có thể thấy rõ được điều đó. - Tôi đã thấy các đốm lửa rồi! - Tên nhận tín hiệu kêu lên. - Không thể nói khẽ hơn được à! - Viên chỉ huy càu nhàu - các anh không phải đang đi dạo chơi ở ngoại ô đâu nhé. Đứng bên bánh lái đi. Việc chuyển các hòm nặng từ thuyền lên tàu ngầm kéo dài đến tận lúc rạng đông. Tham gia vận chuyển có đoàn thủy thủ của cả hai chiếc tàu và thuyền. Pê-rết đã hai lần xuống tàu ngầm và trở về với một chai rượu vốt-ca chính phẩm trên tay. Trong một lần đi như vậy, chớp lấy thời cơ khi trong khoang không có ai. Pê-rết đã nhanh như cắt rút từ trong áo khoác ra một hộp kim loại dẹt to như hộp thuốc lá, cúi xuống nhét dưới một ống chạy dọc theo boong tàu Van-ki-ri-a. Đến sáng, tất cả các máy khâu đã nằm gọn trong chiếc bụng thép của tàu Van-ki-ri-a. Ghéc-man lên cầu tàu nói thầm vào tai viên chỉ huy khoảng 5 phút, sau đó trở về thuyền Ô-ri-nô-cô. Các thủy thủ tàu Va-ki-ri-a tháo dây buộc, và cả tàu lẫn thuyền đều tiến theo các hướng khác nhau. - Chúng ta đi lên phía bắc chứ, thuyền trưởng? - Ghéc-man nói - đến Rê-xi-phi, Pê-rết hãy đứng lên bánh lái đi. Ta muốn ứng tiền trước cho mấy anh bạn này. Ê! Jô, Lu-ít! Các thủy thủ đang ngồi trong khoang thuyền, buông thõng những cánh tay rã rời vì khuân vác từ đêm đến giờ, nặng nề đứng dậy đi về phía Ghéc-man đang đứng bên cửa buồng điều khiển. - Các chàng trai ơi, các anh giỏi lắm - Ghéc-man nói - các bạn nghĩ sao về một hớp rượu ngon và mấy đồng tạm ứng? Jô, một lên lai lực lưỡng, cười sung sướng và nhảy cẫng lên ở trên boong. - Tốt quá, thưa ông chủ, tốt quá! - Hắn nói. Lu-ít, một tên Ấn Độ bán thuần chủng có thân hình dài ngoằng và gầy gò, mỉm cười rụt rè. - Các bạn, hãy cầm lấy rượu và tiền đây này! Và có thể nghỉ ngơi được! - Ghéc-man nói. Các thủy thủ xoay lưng lại, sánh vai nhau đi về buồng thủy thủ ở phía mui thuyền. Ghéc-man nhìn viên thuyền trưởng đang đứng bên chiếc cửa sổ mở của buồng điều khiển, hắn đưa mắt về phía tấm lưng to bè của Lu-ít và dùng tay trái lấy khẩu súng máy trong chiếc tủ con ra. Những tiếng nổ vang lên liên tiếp. Lu-ít khựng lại, ngã sấp mặt xuống boong, co giật rồi hết cựa quậy: chai rượu từ từ tuột khỏi tay hắn. Viên đạn làm cho Jô sững lại dường như có một bức tường bỗng hiện lên trước mặt hắn. Hắn đứng sững trong giây lát, không nhúc nhích và thế là Ghéc-man lại nâng khẩu súng máy lên một lần nữa. Chỉ có điều hắn chưa kịp bắn thì Jô đã đột ngột quay ngoắt lại, đôi mắt mất hết thần sắc, nhìn thẳng, tiến về phía Ghéc-man đang giương súng. Jô tiến lại gần, còn Ghéc-man thì giật lùi về buồng điều khiển. Cuối cùng, trong buổi sáng yên tĩnh của biển khơi vang lên những tiếng nổ chát chúa của loạt súng máy, những viên đạn từ nòng súng bay ra cắm ngập và xé nát tấm ngực nở nang của tên lai. Hắn bước thêm được một bước cuối cùng, rồi thở khè khè đứt đoạn: - Ông... chủ... sao... lại… *** Hành trình của chiếc tàu ngầm hải quân Đức Van-ki-ri-a trong một thời gian được thực hiện trên mặt nước. Sau đó, viên chỉ huy ra lệnh bắt đầu lặn, vì tàu đi ngang qua khu vực nhiều tàu bè và thủy thủ tàu ngầm Đức không muốn để một ai phát hiện ra mình. - Tê-ô-đo, tôi sẽ ngủ chừng hai tiếng - viên chỉ huy nói với Phôn Bết-man - hãy cho tàu chạy về phía đảo Mác-tin Vác, từ đó ta sẽ rẽ về hướng xích đạo. Hai giờ nữa tôi sẽ thay ca cho anh. Tê-ô-đo suy nghĩ về những điều ngang trái mà số phận đã ném hắn - một sĩ quan tàu ngầm xuất sắc - vào cái hộp thép nhét đầy những máy khâu để thay thế cho những quả thủy lôi khủng khiếp. Tê-ô-đo Phôn Bết-man, tất nhiên hiểu rằng món hàng này quan trọng đối với nước đại Đức biết chừng nào. Nhưng công việc của hắn là đánh chìm các tàu địch chứ không phải là lẩn tránh giữa đại dương trên chiếc tàu ngầm không có máy phóng ngư lôi. Hắn liếc nhìn đồng hồ, mắng nhiếc tên cầm lái đã làm tàu lệch hướng mất 3 độ và lom khom chui qua những chiếc cửa hình ô-van của các ngăn buồng đi đến ca-bin. Song, Tê-ô-đo Phôn Bét-man đã không kịp tới đó. Một luồng khí nén từ phía sau xô hẳn ngã chúi xuống, đập cằm vào khung cửa. Hắn thấy đau ở cằm. Sau đó, viên thuyền phó thứ nhất không còn cảm thấy được gì nữa. Tên cầm lái ở vị trí trung tâm thấy lớp vỏ bọc có một chỗ bị bung vào phía trong và một dòng nước đen ngòm cuồn cuộn chảy về phía hắn rồi cuốn lấy hắn, vò xé hắn và dìm hắn chết ngập. Viên chỉ huy cũng chết ngập trong nước không kịp dậy. Các thủy thủ trong khoang mũi của tàu thì còn sống sót được một ít vì tiếng nổ làm cho chiếc tàu đứt làm đôi, nhưng phần mũi vẫn còn đủ kín. Chiếc quan tài bằng sắt vừa nhào lộn vừa chìm sâu xuống đáy đại dương, và ở đây nó bị một lớp nước dày chừng 300 mét đè lên. Chừng nửa dặm về bên phải, chiếc tàu chở hàng đang chạy từ Ri-ô Grăng đi Môn-rô-via thấy một vòm nước nổi lên lóng lánh dưới ánh mặt trời. Cột nước chùng chình giây lát rồi sau đó vỡ tung ra, gây nên sự kinh hoàng cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu Bra-xin mang tên «Xao-pao-lô». Khoảng đen lấp lánh các màu lan rộng ra ở ngay chỗ vòm nước đã biến đi. Con tàu quay mũi đến gần nó, hạ xuồng, bắt đầu lượm lặt những mảnh vỡ và xác chết bị tung lên cùng với những bóng nước bị vỡ ra trên mặt biển. Bấy giờ là thời chiến và thuyền trưởng tàu «Xao- pao-lô» cấm không được báo tin về sự kiện đã xảy ra. Viên thuyền trưởng cố xác minh quốc tịch của những xác người đã được thủy thủ mình vớt lên, nhưng việc đó không thể được. Chẳng có giấy tờ gì, chẳng một dấu hiệu nào ngoài những dấu hiệu về chủng tộc. Ông ta không tìm được gì hết. *** Chiếc tàu ngầm «Van-ki-ri-a» bị mất trong tình trạng bí ẩn đối với các nhà chỉ huy Đức, nó chở 160 tấn ni-ken dưới dạng thỏi cùng với tiền đúc của Mỹ và Ca-na-đa. Ni-ken - một kim loại ánh bạc có giá trị bậc nhất trong bảng tuần hoàn của Men-đê-lê-ép với ký hiệu 28, là kim loại khó nóng chảy, cứng và không bị biến đổi trong không khí. Ni-ken trở thành một vấn đề nan giải đối với nước Đức cũng như nhiên liệu và còn có thể nan giải hơn. Dầu sao thì dầu lửa còn có thể thay thế được. Còn ni-ken thì không. Thiếu ni-ken không thể có vỏ thép. Thiếu vỏ thép không thể có xe tăng. Thiếu xe tăng thì không chiến thắng nổi trên những chiến trường của đại chiến thế giới lần thứ II. Thiên nhiên đã bớt xén, không cho nước Đức đủ ni-ken. Ở thung lũng sông Ranh chỉ có một trữ lượng ni-ken không đáng kể. Phần lớn ni-ken nước Đức phải mua của Ca-na-đa. Chiến tranh bắt đầu và nước Đức bị mất đi nguồn ni-ken từ Ca-na-đa. Hít-le chiếm được Hy-lạp và cùng với nó là các mỏ ni-ken. Nước chư hầu Phần Lan mở rộng cửa các mỏ ni-ken ở miền Bắc tại vùng Pết-xa-mô cho người Đức. Ở đó có các tù nhân và tù binh làm việc. Cả một quân đoàn SS đảm nhận bảo vệ các hầm mỏ và đảm bảo khai thác, liên tục loại quặng pyrit đỏ có hàm lựợng ni-ken và gửi về các nhà máy luyện kim ở Đức. Khi xe tăng T-34 của Liên Xô xuất hiện trên các chiến trường, các chuyên viên Đức kinh ngạc bởi độ bền của vỏ thép các xe tăng dó. Theo mệnh lệnh từ Béc-lin, chiếc xe tăng T-34 đầu tiên chiếm được đã được đưa về Đức. Ở đây, các nhà khoa học đã phân tích vỏ thép của nó. Họ xác định rằng vỏ thép của xe tăng Nga có một tỷ lệ ni-ken cao và do đó vỏ thép này cực kỳ bền vững. Việc thiếu ni-ken trong vỏ thép đã dẫn đến tình trạng là cho đến năm 1944, các nhà máy quốc phòng của Đức quốc xã phải sản xuất xe tăng vỏ dày hơn bình thường. Nhưng ngay vỏ như vậy vẫn dễ bị phá vỡ và các xe tăng «con hổ» «con báo» «phéc-đi-năng» rõ ràng là nặng nề hơn và yếu thế hơn các xe tăng và xe tự hành của Liên Xô. Ni-ken và ni-ken! Cần nhiều ni-ken hơn nữa! Mời các bạn đón đọc Ba Bộ Mặt Của I-A-Nút của tác giả Xta-nhi-xlap Ga-ga-rin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giờ Này Anh Ở Đâu? - Mary Higgins Clark
Ngày của Mẹ. Điện thoại reo. Mười năm trước, Mack MacKenzie biến mất. Anh hứa hằng năm sẽ gọi về nhà vào Ngày của Mẹ. Mười năm sau, Leesey Andrews mất tích. Cô hứa hằng năm sẽ gọi về nhà vào Ngày của Mẹ. Đó phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Và trong vòng mười năm ấy, đã có đến ba cô gái khác cũng bỗng dưng "bốc hơi". Em gái của Mack, Carolyn MacKenzie, quyết tâm tìm cho ra anh trai. Cô không ngờ mong muốn đó lại đẩy mọi chuyện trở nên rối rắm. Liệu cô có khám phá được sự thật khi muôn vàn khó khăn liên tục ập đến? Chưa kể, cảnh sát còn dồn hết mọi nghi ngờ trong tất cả các vụ mất tích của những cô gái vào Mack. Hoang mang tột cùng, một câu hỏi cứ xoáy sâu trong đầu Carolyn: "Giờ này anh ở đâu?" *** Nữ hoàng truyện trinh thám Mỹ Mary Higgins Clark đã gửi tới độc giả yêu mến một câu chuyện hấp dẫn về hành trình khám phá bí ẩn trong bi kịch gia đình cô gái trẻ Carolyn Mackenzie. Cuộc truy tìm để lại những hậu quả khủng khiếp. Giờ này anh ở đâu là tiểu thuyết trinh thám về mối quan hệ chồng chéo, các tình huống căng thẳng. Bắt đầu bằng một bi kịch gia đình nhuốm màu bí ẩn, kết thúc bất ngờ và đau đớn, nhưng Giờ này anh ở đâu cũng không thiếu những chi tiết ấm áp tình người. Bên cạnh đó, những diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật được lồng ghép khéo léo giữa mạch truyện gay cấn thể hiện tài năng đỉnh cao của tác giả. Tất cả những điều này khắc họa nên nét đặc sắc nổi trội cho tác phẩm... Mary Higgins, sinh năm 1929 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Mary Higgins Clark được mệnh danh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Hơn ba mươi năm sáng tác, với nhiều tác phẩm được dựng thành phim, bà đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Hầu hết các tác phẩm của Mary Higgins Clark đều trở thành sách best-seller như: Where are the children? (Con chúng ta đâu?), The cradle will fall (Lộ diện), A cry in the night (Tiếng thét trong đêm), No place like home (Không đâu bằng nhà mình), Two little girls in blue (Hai cô bé trong đại dương) *** Một năm sau. Khi kiểm tra sổ sách, chúng tôi biết rằng Elliott đã cướp của chúng tôi cả một gia tài. Rõ ràng, như Altman đã huênh hoang, rằng Mack đã nhận ra có điều gì đó bất ổn với quỹ ủy thác của anh, và nhận thức đó đã phải trả giá bằng chính sinh mạng của anh. Thật là một phép lạ khi Leesey vẫn còn sống sót. Cô ấy bị trói chặt trên cái sàn nhà dơ bẩn ấy trong mười sáu ngày đêm, không thể động đậy được. Altman cứ hết dọa dẫm sẽ giết chết cô ấy rồi lại nhiếc móc cô về việc đã nhảy vào chiếc SUV bên ngoài Woodshed khi hắn bảo cô rằng Nick đã gửi hắn đến để lái xe đưa cô về nhà. Hắn chỉ cho cô một vài hớp nước mỗi ngày. Đói và bị mất nước, cô ấy ở trong tình trạng cực kỳ nguy kịch khi được đưa vào bệnh viện. Cũng giống như mẹ thức trắng đêm bên cạnh tôi, cha và anh của Leesey cũng thức trắng trong phòng bệnh của cô ấy, vỗ về và van xin cô ấy hãy quay trở lại với cuộc sống. Gia đình Andrews đã trở thành những người bạn rất tốt của chúng tôi. Bác sĩ David Andrews, cha của Leesey, thường xuyên mời mẹ và tôi dùng cơm tôi ở câu lạc bộ của ông tại Greenwich. Tình bạn của họ là sự an ủi rất lớn khi mẹ và tôi phải chiến đấu với nỗi đau về cái chết của Mack. Tôi biết chúng tôi là nguồn giúp đỡ Leesey khi cô ấy phục hồi cảm xúc từ thử thách khủng khiếp mà cô phải chịu đựng. Mẹ đã bán căn hộ ở Sutton Place và hiện đang sống trên đường Central Park West. Tôi chú ý thấy rằng bác sĩ David thường xuyên đến dùng cơm tốì và đi xem hát với bà. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Này Anh Ở Đâu? của tác giả Mary Higgins Clark. Người đăng: 0
Hãy Nhắm Mắt Khi Anh Đến 2: Ám Lân - Đinh Mặc
Chỉ một chút nữa thôi là hắn sẽ bắt được tôi. Nhưng chuyện này tôi sẽ không bao giờ để xảy ra. Tôi là hình cảnh Giản Dao, vợ của giáo sư Bạc Cận Ngôn. Trên núi có một người kỳ lạ không bao giờ nói chuyện với ai cả vô cùng ngạo mạn. Nghe nói ai ta là một thần thám. Vì sao tôi biết rõ như vậy ư? Bởi vì tôi đã gặp anh ấy rồi. Nhưng bây giờ anh ấy... Đừng nói nữa...tôi biết rất rõ mọi chuyện, cái gì tôi cũng biết. *** Tiếp nối Hãy nhắm mắt khi anh đến, Ám Lân mang màu sắc hoàn toàn khác, bi thương, u ám và ghê rợn hơn rất nhiều. Vì vậy, nếu bạn đã hài lòng với kết thúc ở Hãy nhắm mắt khi anh đến và không thể chịu đựng những mất mát, tàn khốc của Ám Lân vui lòng back. Mở đầu câu chuyện trong Ám Lân này là một vụ án xảy ra ở một thành cổ yên bình chưa từng có bất kỳ vụ án nghiêm trọng nào. Một vụ giết người đầy man rợ với hơn 40 nhát chém trên cơ thể và mặt vô cùng điên cuồng. Đó giống như là sự “bình tĩnh lại phẫn nộ, kiềm chế mà cuồng loạn”, tàn nhẫn đến mức khiến người khác khiếp sợ. Nhưng ở đâu có tội ác thì ở đó nhất định có công lý. Bóng tối cho dù che khuất hết thảy thì khi ánh sáng đến cũng là nó lúc trần trụi trước chính nghĩa. ... *** Còn nhớ khi đó con bé mới 3 tuổi, cái đầu nho nhỏ, cánh tay mập mạp, ánh mắt đen láy. Ai từng gặp cũng khen con bé xinh đẹp. “Cô nhóc xinh đẹp này lớn lên nhất định sẽ là mỹ nhân.” Khi đó, tôi luôn vui sướng, kiêu ngạo. Đông Sinh kế thừa ưu điểm của tôi và chồng, trong mắt tôi, từ nhỏ con bé đã là đứa vô cùng xinh đẹp. Hơn nữa khi còn nhỏ, con bé còn thông minh như vậy. Lúc nào cũng phải mẹ ôm, dính lấy tôi không chịu buông tay. Điều này khiến cho cha con bé ghen không ít, nhưng có cách nào chứ, con bé là linh hồn, là miếng thịt trong tim tôi. ... Mời các bạn đón đọc Hãy Nhắm Mắt Khi Anh Đến 2: Ám Lân của tác giả Đinh Mặc.
Tận Cùng Là Cái Chết (Dương Văn Tám Dịch) - Agatha Christie
Ở Ai Cập vào năm 2000 trước công nguyên, cái chết được xem là mang lại ý nghĩa cho sự sống. Tại chân một vách đá là thi thể co quắp bấy nát của Nofret, thiếp yêu của một giáo sĩ. Trẻ, đẹp và ác dạ, hầu hết mọi người đồng ý rằng đó là định mệnh - cô ta đáng phải chết như một con rắn! Tuy nhiên tại nhà của cha mình bên bờ sông Nile, cô con gái Renisenb của giáo sĩ lại nghĩ rằng cái chết của người phụ nữ thật đáng ngờ. Càng ngày cô càng tin mầm mống của cái ác nảy nở trong nhà mình - và chứng kiến một cách bất lực những mê đắm của gia đình trong cảnh chết chóc. Agatha Christie sinh tưởng tại Devonshire nước Anh. Bà khởi sự viết văn từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong suốt mấy chục năm cầm bút, bà đã làm cho thế giới kinh ngạc và thán phục không những về số lượng tác phẩm đồ sộ, về tài xếp đặt, bố trí các tình tiết một cách chặt chẽ, khéo léo, hay "nghệ thuật đánh lạc hướng" có một không hai - vốn là yếu tố quyết định sự thành công của một cuốn tiểu thuyết trinh thám - mà còn về nhãn quan sắc sảo tinh tế của bà về tâm hồn con người qua những xung đột, phát triển nội tâm về tính nhất quán và đột biến của hành vi con người. Chính do điều đó, một số tác phẩm của Agatha Christie không chỉ dừng lại ở phạm vi giá trị của thể loại tiểu thuyết trinh thám, chúng còn đặt ra những vấn đề về con người buộc chúng ta phải suy nghĩ, băn khoăn. Là vợ của một nhà khảo cổ học tiếng tăm, bản thân bà cũng đã từng đi điền giã khảo cổ nhiều lần ở vùng Cận Đông. Lần này, trong "Tận cùng là cái chết", bạn đọc sẽ được cuốn hút vào những tội ác xảy ra tại Ai Cập Cổ Đại, bên bờ sông Nile hai ngàn năm trước Công nguyên. Ở đây, Agatha Christie đã mô tả thật đặc sắc những uẩn khúc của tâm hồn con người, lột tả và lên án gay gắt thói ích kỷ, sự sụp đổ của nền tảng đạo đức, trật tự gia đình dưới sự chi phối của vật chất đến mức lên án của chế độ phong kiến, chế độ nô lệ. Tầng sâu của tư tưởng tác giả, qua "Tận cùng là cái chết", còn nhằm tố cáo những khía cạnh suy đồi đó của xã hội tư sản, đế quốc đương thời, nơi mà "sự phát triển của con người không theo hướng tốt hơn, lớn lao hơn, mà nó nuôi dưỡng điều ác" - như lời Hori, một nhân vật trong tiểu thuyết đã nói. Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với Agatha Christie qua các tiểu thuyết "Cái chết trước sân gôn", "Bí mật chiếc bình xanh"... Lần này chúng tôi giới thiệu Agatha Christie qua tiểu thuyết "tận cùng là cái chết" theo bản tiếng Việt của Dương Văn Tám dịch. *** Renisenb ngồi nơi ngưỡng cửa của căn phòng đá, đưa mắt ngắm nhìn dòng sông Nile và đắm mình trong một giấc mơ hoang đường của chính nàng. Đối với Renisenb, dường như đã lâu lắm kể từ lần đầu tiên nàng đến ngồi đây, ngay sau khi nàng về nhà cha. Đó là cái ngày mà nàng tuyên bố một cách vui sướng rằng mọi thứ đều không thay đổi, rằng tất cả mọi người, mọi thứ ở nhà đều y hệt như khi nàng rời nhà tám năm về trước. Bây giờ nàng nhớ lại là Hori đã bảo nàng rằng ngay chính nàng cũng không giống cái cô Renisenb đã ra đi với Khay và nàng đã trả lời một cách tự tin rằng nàng sẽ lại như xưa. Rồi thì Hori tiếp tục nói về những sự thay đổi phát xuất từ bên trong, đến sự hủy hoại không để lại một dấu hiệu gì bên ngoài. Bây giờ nàng mới biết một đôi điều của ý tưởng anh lúc đó khi anh nói những chuyện ấy. Anh đã cố chuẩn bị cho nàng nhưng nàng thì quá chắc chắn - quá mù quáng - nên dễ dàng chấp nhận những giá trị bên ngoài của gia đình. Phải, khi Nofret đến nàng mới mở mắt… Phải, Nofret đến. Tất cả bắt đầu từ đó. Và với việc Nofret chết… Dầu thật sự Nofret có độc ác hay không, chắc chắn cũng chính cô ta mang mầm ác đến. Và cái mầm ác vẫn còn ở giữa họ. Một lần cuối cùng, Renisenb cố dỗ dành mình tin rằng chính hồn ma của Nofret là nguyên nhân của mọi chuyện. Nofret, ranh mãnh, độc ác, và đã chết… Hoặc Henet, ranh mãnh, độc ác, và đang sống… Henet, cái mụ Henet khúm núm, quỵ lụy, bợ đỡ, bị mọi người coi thường… Renisenb rùng mình, khích động. Nàng đứng lên. Nàng không thể chờ Hori thêm được nữa. Mặt trời đang lặn. Nàng tự hỏi, tại sao Hori không đến? Nàng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh rồi bắt đầu theo lối dốc đi xuống thung lũng. Trời chiều thật im lặng. Yên tĩnh và tuyệt đẹp. Nàng nghĩ không biết điều gì đã khiến Hori hoãn lại? Giá như anh ấy đến, ít ra họ cũng được hưởng cái giờ yên tĩnh này với nhau… Mà cũng không còn được bao nhiêu giờ phút nữa. Trong một tương lai rất gần, khi nàng là vợ Kameni… Có thật sự nàng sắp làm vợ Kameni không? Trong một cơn chấn động, nàng lắc mình thoát khỏi sự ràng buộc tẻ nhạt trước nay vẫn giữ lấy nàng. Nàng cảm thấy mình như một người đang ngủ được đánh thức khỏi cơn mê sảng. Trong trạng thái tê mê của sợ hãi và nghi hoặc, nàng đã bằng lòng nhận tất cả điều gì người ta đề nghị với nàng. ... Mời các bạn đón đọc Tận Cùng Là Cái Chết của tác giả Agatha Christie.
Những Quân Bài Trên Mặt Bàn - Agatha Christie
“Những quân bài trên mặt bàn” một lần nữa cho thấy óc quan sát tinh tế, sự hiểu biết sâu sắc tâm lý tội phạm của Agatha Christie. Cuốn sách chắc chắn sẽ gợi những suy nghĩ cần thiết cho các nhà chuyên môn, và nó cũng góp phần khẳng định vị trí “Nữ hoàng của tiều thuyết trinh thám” mà giới văn học đã dành cho bà. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm “Những quân bài trên mặt bàn” của Agatha Christie, một trong những tác giả nổi tiếng nhất thế giới về thể loại trinh thám, thể loại mà như nhà văn Somerset Maugham đã nhận xét: “ngày nay thậm chí những người có trí tuệ phát triển nhất cũng đọc…” *** Đó là giờ phút của Poirot, mọi khuôn mặt đều quay về phía ông. Ông mỉm cười nói: - Các bạn thật là tốt. Các bạn hiểu rằng tôi đã rất đắc ý với bài tuyên án vừa rồi. Tôi quả là một lão già tầm thường.Theo tôi, đây là một trong những vụ án hay nhất tôi được biết. Các bạn thấy đấy, chẳng có gì lắm. Có bốn người, chắc chắn một trong số đó là thủ phạm, nhưng ai? Có gì để buộc tội không? Về mặt vật chất thì không. Chẳng có một manh mối nào hết, không dấu tay, không tài liệu hay giấy tờ buộc tội nào, chỉ có chính những nhân vật ấy. Còn một đầu mối nữa, những tờ ghi kết quả các ván bài.Chắc các bạn còn nhớ, ngay từ đầu tôi đã tỏ ra rất quan tâm đến kết quả ấy. Chúng nói với tôi về các nhân vật đã ghi từng tờ và còn hơn thế nữa. Chúng đã gợi cho tôi một ý rất quí. Tôi đã lập tức nhận thấy rằng, trong ván thứ ba, con số 1.500 ở trên. Con số đó chỉ có thể cho biết một điều - chuẩn bị ăn hết quân bài. Nào, nếu có một người sắp sửa quyết định gây tội ác trong hoàn cảnh bất bình thường, như trong khi đang chơi bài Brit này chẳng hạn, kẻ đó rõ ràng là phải liều lĩnh ở hai điều rất nghiêm trọng: thứ nhất là nạn nhân có thể sẽ kêu lên; thứ hai là, ngay cả khi nạn nhân không thể kêu, thì một trong số ba người kia có thể tình cờ nhìn lên vào đúng lúc quan trọng nhất và thực sự chứng kiến hành động. ... Mời các bạn đón đọc Những Quân Bài Trên Mặt Bàn của tác giả Agatha Christie.