Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF TIẾU LÂM VIỆT NAM (1968) - CỬ TẠ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Truyện cười (còn gọi là truyện tiếu lâm) là một lĩnh vực truyện kể dân gian rộng lớn, đa dạng, phức tạp bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện trào phúng, truyện trạng, giai thoại hài hước...Tiếng cười trong sinh học mang tính bản năng, vô thức phát ra do phản ứng của cơ thể một cách đơn thuần. Trong khi, tiếng cười tâm lý xã hội biểu thị thái độ, bộc lộ tư tưởng, tình cảm con người. Tiếng cười tâm lý xã hội có hai loại nhỏ: tiếng cười tán thưởng và tiếng cười phê phán.Tiếu Lâm Việt Nam gồm có:1. CHẾT VÌ CƯỜI2. LÀNG SỢ VỢ3. GIỐNG GIAN TỰU VỊ4. CUA CẮP5. GIÁ GẶP TAY TAO6. PHẢI LÀM THEO7. THÈM QUÁ8. CHỒNG NÀO VỢ NẤY9. TRA CÁN10. ĂN MẤT RỒI11. HÂN HẠNH12. MỒ HÔI MỰC13. CHỮ ĐIỀN14. NGHE SAO LÀM VẬY15. TÀI NÓI LÁO16. ĐỒ PHẢN CHỦ17. MÈO HOÀN MÈO18. VỎ QUÝT DẦY MÓNG TAY NHỌN19. TIỀN « ĐỒNG-MÔN »20. QUÝT LÀM CAM CHỊU21. TƯỚNG CÔNG KỴ BÀ LÃO22. THIÊN SINH TỰ NHIÊN23. CẮM CỔ XUỐNG, THÒ ĐẦU RA24. TAM ĐẠI CON GÀ25. CHẾT CÒN HƠN26. CHẾT VẪN LƯỜI27. CÂY BẤT28. CÁ RÔ LÁCH NGƯỢC29. THÀY ĐỒ ĂN VỤNG CHÈ30. ĐƯỢC CẢ ĐƠN LẪN KÉP31. ĐÊM KHUYA GÀ GÁY32. NƯỚC MẮM HÂM33. HÁN-VƯƠNG ĂN ỚT34. THUA GÌ ĐƯỜNG HÁN33. TỘI HÒA THƯỢNG36. BUÔN VỊT TRỜI37. HỌC GÌ NỮA38. SỢ MA39. GÌ CŨNG ĐƯỢC40. TRỪ CHỒN41. GỚM QUÁ42. NHANH NHẢU ĐOẢNG43. HẬU UYỂN44. TRÊN DƯỚI45. VỊT HAI CHÂN46. PHÁT ĐIÊN47. NGŨ PHÚC LÂM MÔN48. TRỜI SINH THẾ49. ẤY ĐI XEM50. THƠ QUAN VÕ51. ĐƯỜNG LÊN TRỜI52. NGỦ VỚI AI53. KIÊNG CỮ54. THƠ CON CÓC55. TÔI ĐÁNH CON CHA56. MUA PHÂN57. CÂY CỘT MỐI58. THEO SAO KỊP59. ĐÊM KHUYA GIÓ LẶNG…60. TÔI LÀ AI ?61. CAN CAN ĐAO THỔ…62. NHƯ MẶT VUA63. RỂ QUÍ64. CÁI GÌ CỨNG NHẤT65. RẮN VUÔNG66. VỠ VÒ RƯỢU67. BẮT VỀ CHO TRẺ CHƠI68. XỎ GẶP XỎ69. TUẦN TỰ70. LẨY KIỀU71. PHÊ ĐƠN72. KHÔNG CƯỜI, CÓ ÔNG THÁNH !…73. HỌC ĐI CÀY74. CHỈ LIẾM THÔI75. MUỐN CHẾT THÌ ĐÂY76. HẾT HÁCH !!!77. VÔ-ĐỊCH78. ĐỂ ĐO ĐÃ79. LÁI MỘT CHÚT80. QUÁ CẨN THẬN81. MỖI THỨ MỘT NỬA82. CAN ĐẢM CHƯA ?83. MÊ NGỦ84. TRẮC NGHIỆM85. LẮM THẦY NHIỀU MA86. ĐỂ VÀO DĨA87. NGÓN SỞ TRƯỜNG88. THỰC TẾ89. GÓP PHẦN90. CẤP BỰC91. CẢ ĐỜI NGƯỜI92. GIỎI LẮM93. BÍ MẬT NHÀ NGHỀ94. ÁI TÌNH CAO THƯỢNG

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC - NGUYỄN DỮ
Truyền kỳ mạn lục (chữ Hán: 傳奇漫錄, nghĩa là Sao chép tản mạn những truyện lạ), là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dư (thường được gọi là Nguyễn Dữ), sống vào khoảng thế kỷ 16 tại Việt Nam. Đây là tác phẩm được Hà Thiện Hán viết lời tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm (thầy dạy tác giả) phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm, và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút". Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này. Ngay từ khi tác phẩm mới hoàn thành đã được đón nhận. Về sau, nhiều học giả tên tuổi như: Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Trần Ích Nguyên (Đài Loan)... đều có ghi chép về Nguyễn Dữ và đánh giá tác phẩm này.Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất. Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản dịch của Trúc Khê năm 1943 được coi như đặc sắc nhất.Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh. Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán (người cùng thời) viết năm 1547, thì Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ông ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16... Trong Từ điển Văn học (bộ mới), nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân cho biết trong thế kỷ 16, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ trước; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực... Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước... Cho nên Nguyễn Dư đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ 16...
Đế quốc An Nam và người dân An Nam
Tác phẩm Aperçu sur la géographie, les productions, l'industrie, les moeurs et les coutumes de l'Annam đăng lần đầu trên tờ Courrier de Saigon vào năm 1875 và 1876, xuất bản dưới sự bảo trợ của chính quyển thuộc địa. Năm 1889, Chánh Tham biện Pháp ở Nam kỳ, Giáo sư Học viện Khoa học Chính trị Jules Silvestre tiến hành định bản ấn phẩm này từ bản in trên báo và xuất bản dưới nhan để dài hơn L'empire d'Annam et le peuple annamite. Aperçu sur la géographie, les productions, l'industrie, les moeurs et les coutumes de l'Annam Đế quốc An Nam và người dân An Nam Tổng quan về địa lý. sản vật, kỹ nghệ phong tục và tập quán An Nam; Jules Silvestre bổ sung một số ghi chú cần thiết và những tiểu dẫn nhằm cập nhật một tác phẩm theo ông là đã hoàn thành vào năm 1858. Dưới nhan để khiêm tốn như trên ẩn giấu một công trình thú vị và tin cậy. Hơn thế, nó còn có thể cung cấp các công cụ thực tế bất cứ khi nào cần phải trình bày một bức tranh chính xác về Nam kỳ, người ta không thể không viện dẫn. Nghiên cứu này được xuất bản mà không có tên tác giả. Trên thực tế, đó không phải là công trình của một người chỉ cần đọc nó sẽ nhận ra đó là bản tóm tắt các quan sát chính xác, được theo dõi trong nhiều năm và trên các địa điểm khác nhau của đế quốc An Nam, bởi những con người thành tín sống hòa nhập với người An Nam và do đó, được đánh giá cao và mô tả chính xác các sự việc về đời sống dân chúng.
Nguyễn Trãi: Anh hùng dân tộc - Trúc Khê Ngô Văn Triện
NGUYỄN TRÃI: ANH HÙNG DÂN TỘCTác GiảNguyễn TrãiChương 1. Băng Hồ Tướng CôngChương 2. Danh Sĩ Nguyễn Phi KhanhChương 3. Nguyễn Trãi Gặp Đồng ChíChương 4. Vào Lam Sơn Tìm Gặp Chân ChủChương 5. Lê Thái Tổ Khởi Nghĩa Lam SơnChương 6. Trong Quân Trướng Nguyễn Trãi Vận Trù Quyết SáchChương 7. Tập Thư Trao Cho Các Tướng Minh
Bùi Viện với cuộc duy tân của Triều Tự Đức
Bùi Viện là nhà ngoại giao đầu tiên trong lịch sử nước ta sang Mỹ và đã hai lần gặp Tổng thống Mỹ. Các cứ liệu viết về cuộc công du của Bùi Viện không nhiều. Tác phẩm duy nhất viết về sự kiện này “Bùi Viện và Chính phủ Mỹ” của nhà sử học Phan Trần Chúc in từ năm 1945, mới đây, NXB Văn hóa Thông tin in lại với cái tên “Bùi Viện và cuộc duy tân của triều Tự Đức thế kỷ XIX”. Tuy nhiên, với số sử liệu sơ sài này, chúng ta cũng có thể hình dung được tư duy táo bạo trong tư tưởng cứu nước của Bùi Viện. Từ cửa biển Thuận An (Huế), sau hai tháng, Bùi Viện đến được Hương Cảng (Hồng Kông). Tại đây, Bùi Viện đã gặp gỡ và quen thân với một viên sứ thần (đại sứ bấy giờ) Mỹ. Vị sứ thần này rất thông thạo tiếng Hán nên qua người bạn này, Bùi Viện biết Hoa Kỳ trước đây là một nước lạc hậu và cũng chịu cảnh chia rẽ Nam Bắc như Trịnh - Nguyễn, nhưng đến nay đã thống nhất đất nước và phát triển thịnh vượng. Bùi Viện coi đây như là tấm gương để học tập. Ông quyết định không sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh như một số người đã làm mà sang Mỹ - một đất nước hoàn toàn xa lạ với người Việt lúc đó. Đó là hành động sáng suốt trên tầm thời đại, thể hiện rõ bản lĩnh của Bùi Viện.