Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng

Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới
Câu chuyện được kể lại qua lời tự thuật của bốn nhân vật là Bobby, Jonathan, Clare và Alice. Bobby là một cậu bé lớn lên ở vùng ngoại ô của Cleveland, bang Ohio, trong thập kỷ 60 và 70, khi ma túy và tiệc tùng đang là mối quan tâm của giới thanh niên. Cậu đã phải chứng kiến cái chết thương tâm của người anh trai yêu quý trong một vụ tai nạn kỳ lạ ở trong nhà, và rồi sau đó là cái chết của bà mẹ. Không được nuôi dạy chu đáo, Bobby đã lớn lên cùng người cha tối ngày say xỉn và cậu mau chóng chìm đắm vào ma túy và âm nhạc. Sau đó, cậu kết bạn với Jonathan, một cậu bé xuất thân từ một gia đình có vẻ ngoài yên ấm nhưng lại có những lệch lạc về giới tính. Họ đã trở thành những người bạn rất thân và thậm chí còn cùng nhau trải qua những kinh nghiệm đầu đời về việc khám phá bản năng giới tính. Mẹ của Jonathan là Alice đã tình cờ phát hiện ra bí mật đó của hai cậu bé, và đã đặt ra một vật cản giữa họ bằng cách lôi kéo Bobby đến với việc làm bánh. Thời gian trôi đi, Jonathan đến New York học đại học, còn Bobby an phận với vai trò một thợ làm bánh ở Cleveland. Tình cảm của họ tưởng như đã lắng dịu qua năm tháng, cho đến khi Bobby đến New York sống cùng với Jonathan và người bạn sống chung nhà với cậu là Clare. Lúc này Jonathan đã trở thành một kẻ đồng tính công khai. Cậu mong muốn có chung một đứa con với Clare, người đã chán ngấy việc yêu đương và chỉ muốn làm một bà mẹ độc thân đơn thuần. Tuy nhiên, kế hoạch đó đã bị xáo trộn khi Bobby và Clare có quan hệ tình cảm với nhau, và trở thành tình nhân, dù cả hai người đều không rõ mình có thực sự yêu người kia không. Và rồi Clare mang thai. Và ba người họ đã cùng nhau nuôi dạy “đứa con chung” của mình trong một căn nhà ở nông thôn, nơi họ đã có những ngày tháng vui vẻ và hạnh phúc, và tạo ra một kiểu gia đình mới. Thế nhưng cuộc sống không chỉ đơn giản như vậy… Tổ ấm nơi tận cùng thế giới đã xuất sắc mô tả những mối quan hệ xúc động, mong manh của cuộc sống thị thành ngày nay. Một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời về tình yêu, tình thân, tình bạn, và tình người. Cuốn tiểu thuyết này đã được đạo diễn Michael Mayer dựng thành film năm 2004. *** Michael Cickyham là một tiểu thuyết gia và nhà biên kịch người Mỹ. Ông nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết The Hour năm 1998, đã giành giải Pulitzer cho tiểu thuyết và giải thưởng PEN / Faulkner năm 1999. Cickyham là giảng viên cao cấp về văn bản sáng tạo tại Đại học Yale. Tác phẩm: Thời Khắc Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới Nữ Hoàng Băng Giá ... *** Tôi bước vào cuốn sách trong trạng thái của một kẻ say rượu, điên cuồng gặm nhấm sự si mê của nỗi cô đơn đến vắt kiệt tất cả các cảm giác của một con người còn đang sống. Tôi chìm vào trong đó như kiếm tìm, như bước theo, như vùng vẫy trong cái tổ ấm nơi tận cùng thế giới mà bản thân tôi cũng đang cần vô cùng, vô cùng. Lật giở từng trang của cuốn sách tôi đã bị cuốn vào một cõi bi thương, lập dị, bí hiểm và cũng tuyệt diệu nhất thế gian này. Nơi mà những kẻ cô đơn đã vùng vẫy và khao khát cháy bỏng có được sự yêu thương của một tổ ẩm thực sự. “Tổ ẩm nơi tận cùng thế giới” là nơi duy nhất khiến tôi có cảm giác của một tình yêu thương vĩ đại nhất thế gian này. Câu chuyện về ba người trẻ Bobby, Janathan, Clare là một câu chuyện khiến người đọc sững sờ trong những đau thương, tuyệt vọng, nghẹn ngào, mơ mộng, khao khát và hạnh phúc. Tất cả những xúc cảm ấy đều luôn được đẩy đến tận cùng của ranh giới mong manh của cuộc sống này. Bobby là một đứa trẻ lớn lên trong không gian ngập ngụa mùi bia rượu và sự ớn lạnh của những ám ảnh chết chóc, với một thứ âm nhạc u mê cay đắng bao trùm. Đen kịt. Quạnh đắng. Cuộc sống của cậu đã chìm ngâp trong một nỗi cô đơn kinh hoàng như bóng đêm. Cả cha, mẹ và anh trai đều chết – những cái chết uất nghẹn trong đớn đau và khổn khổ. Cuộc sống ấy đã dẫn lối cậu đến với cái khói mê hoặc của cần sa, như tìm kiếm sự lãng quên, như trốn chạy thực tại ủ ê và chán chường. Cuộc sống của cậu tưởng như mãi chìm trong những đêm tối nghiệt ngã ấy, nhưng rồi sự gặp gỡ với Jonathan đã khiến cậu khác đi. Tình cảm của hai gã đàn ông đơn côi giữa cuộc đời này lại khiến tôi cảm thấy trân trọng và cảm động. Cái cách họ yêu thương, quan tâm và chăm sóc đến cuộc sống của nhau đã khiến tôi nghĩ đến một mối tình đồng tính tuyệt đẹp. Nhưng rồi, cuộc sống của họ cũng thay đổi khi Jonathan lên thành phố học đại học.  Cuộc gặp gỡ giữ Jonathan, Bobby và Clare chính là một diều đặc biệt, và là cái duyên cớ để câu chuyện cuốn hút hơn đối với bản thân tôi. Tôi chìm đắm trong những ngỡ ngàng về tình cảm con người mà tác giả đã cố gắng xây dựng nên trong “Tổ ấm nơi tận cùng thế giới”. Jonathan đã thực sự thừa nhận chuyện anh là người đồng tính nhưng anh vẫn luôn khao khát có một đứa con với Clare. Nhưng rồi Clare và người bạn thân yêu Bobby của anh lại nảy sinh tình cảm với nhau. Họ đã trở thành tình nhân của nhau và có với nhau một đứa con. Điều đó đáng ra đã chẳng khiến tôi ngạc nhiên và cũng không làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn, nhưng điều thực sự đã làm tâm hồn tôi phải cảm động trong một sự day dứt vô cùng đó chính là niềm hạnh phúc bao dung của cả ba con người ấy. Cả Jonathan, Bobby và Clare đã quyết định sẽ cùng sống chung với nhau và cùng nhau đợi chờ đến ngày đứa trẻ ra đời. Khoảnh khắc gần gũi của ba kẻ cô đơn trong cuộc đời này đã khiến tôi ngỡ ngàng, vì một tổ ấm lạ lẫm, nhưng vẫn là một tổ ấm thực sự và duy nhất với họ ở thế giới này. Một tổ ấm nơi tận cùng của những đau đớn, hạnh phúc và hi vọng. Tổ ấm của họ có ba người lớn đã từng trải qua những khốn khổ nhất của cõi đời, và một đứa trẻ mới sinh đáng yêu, trong veo nhất thế giới. Tôi đã khóc rất nhiều khi đọc từng trang, từng trang sách của “Tổ ấm nơi tận cùng thế giới” và chứng kiến cuộc sống của những con người được xem là kì dị trong thế giới người nhộn nhạo này. Hạnh phúc của họ mong manh như sương khói, và rồi dễ tan biến đi mất dù họ khao khát và cố gắng níu giữ, nhưng rồi khi câu chuyện kết thúc, tổ ấm ấy đã khuyết thiếu và mất mát. Kết thúc câu chuyện, các nhân vật đáng thương ấy vẫn vùng vẫy trong niềm cô đơn, chới với và níu kéo cuộc sống với sức lực kiệt cùng khiến tôi tâm hồn tôi nặng trịch và day dứt khôn nguôi. Khi gập trang cuối cùng của cuốn sách lại, tôi lục tung đống băng đĩa của mình để tìm âm nhạc. Tôi thèm khát một thứ âm khiến tôi trải nghiệm những cảm giác u ám, cô đơn và hạnh phúc này, giống như những nhân vật trong truyện. Vậy là tôi nằm im lìm, và mở Gun’n Rose. Âm nhạc chảy trôi vào trái tim tôi nghẹn ngào bật thành những giọt hình cầu mặn chát, và khiến những nhân vật của “Tổ ấm nơi tận cùng thế giới” trở về trong tôi rõ ràng đến từng nét cười. Tôi đã nằm như thế suốt cả một buổi chiều với đôi mắt chẳng thể nhắm lại. Phải mất khá lâu sau tôi mới có thể viết lại được những dòng chữ cảm nhận về cuốn sách này khi cảm xúc đã dần lắng lại. Một cuốn sách thực sự khiến tôi phải nhớ. Và người viết nên câu chuyện ấy thực sự làm tôi khâm phục, biết ơn vì những cảm giác mà ông đã khiến tôi cùng tất cả những người đọc như tôi phải trải nghiệm trong cuộc sống này. Tôi xin thay lời kết bằng một nhận định của nhà phê bình Sherry Rosenthal dành tặng cho “Tổ ấm nơi tận cùng thế giới”: “Lâu lắm rồi mới xuất hiện một cuốn tiểu thuyết quá lôi cuốn bởi vẻ đẹp và sự nhạy cảm đến mức độc giả ngấu nghiến nó gần như hoàn toàn, với một vẻ vô cùng háo hức, để rồi sau đó cảm nhận nỗi đau dai dẳng, khôn nguôi”... THỤY   Mời các bạn đón đọc Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới của tác giả Michael Cunningham.
Những Người Tình Cô Đơn Kỳ Lạ Của Tôi
"Tôi" ở đầu truyện chỉ là một cô sinh viên bình thường, ngoan ngoãn với những suy ngẫm về tình cảm gia đình với đứa em trai và bố, mẹ cô đã ra đi sau khi họ li dị, về tình bạn với Tee - cô bạn có những nét đồng cảm đã gắn bó với cô suốt thời thơ ấu. 21 tuổi, cô đã quyết định dọn ra ở riêng với Tee để tìm kiếm cuộc sống tự do của một người trưởng thành, và từ đó những câu chuyện kỳ lạ xảy ra: những mối quan hệ, những câu chuyện tình, những ám ảnh...Càng đi sâu hơn bạn sẽ càng trải nghiệm những cảm xúc mạnh mẽ và thực sự "kì lạ", chúng sẽ cuốn bạn đi mặc dù bản thân bạn không ý thức được điều đó. Những ngày đầu trong cuộc sống riêng của "tôi" cùng Tee trôi đi, cũng như những con người khác ở lứa tuổi đó, họ cùng nhau chia sẻ việc học hành, gia đình... sự thân thiết giữa họ chỉ có thể lí giải bằng một sợi dây vô hình nào đó. Cho đến khi họ gặp Chi Ngắn tại một lớp tiếng Trung, anh chàng này bước vào cuộc sống của họ rất tự nhiên. Sau một lần ba người họ - tôi, Tee, Chi Ngắn đi chơi, "tôi" thức dậy trong một căn phòng hết sức kỳ lạ, có phần quái dị "...thằn lằn hàng trăm con đủ màu ở đâu kéo nhau chui ra...chúng nằm đè lên nhau, chúng đang làm tình. Thứ nước màu vàng tuột ra từ những thân hình lắc lư cuồng dại của chúng... Vô số những con gián màu da cam đầu và râu trắng ởn đang xòe cánh đập toán loạn,... dường như chúng đang mắc kẹt, có vẻ gì đó hốt hoảng, đau đớn...". Điều khó tin hơn nữa là Chi Ngắn và Tee hoàn toàn biến mất. Cảm giác cô đơn, lo lắng, sợ hãi và bị phản bội xâm chiếm "tôi" mà cô không thể giải thích. "Tôi" còn có một mối quan hệ kỳ lạ với Taurus - người hấp dẫn "tôi" ngay từ lần gặp đầu tiên. Chàng trai này xuất hiện một cách bất ngờ, ngay cả đến nhân vật chính của chúng ta còn không ngờ được có người thu hút cô từ những hành động ban đầu ấy. Tình cảm của cô dành cho Taurus ngày một lớn hơn cũng là lúc cô nhận được những lời cảnh báo từ Tee về những chuyện cô ấy đang phải trải qua, về sự biến mất khó hiểu của bạn và một ngày nào đó cô sẽ phải đứng trước sự lựa chọn. Liệu điều gì sẽ đến với nhân vật chính, cô sẽ lựa chọn ra sao, sống yên ổn chờ đợi Tee trở về hay chủ động đi tìm tình yêu của mình?, Có sự liên quan nào giữa những con người kỳ bí đó: Taurus, Chi Ngắn và họ có sự liên hệ nào tới hình ảnh của căn phòng "quái dị" với những con thằn lằn và gián kia? Bạn sẽ cùng nhân vật chính trải nghiệm trong "Những người tình cô đơn kỳ lạ của tôi". Với cách dẫn dắt truyện nhẹ nhàng, lối văn không quá cầu kì bạn dần dần bị ngấm vào cốt truyện ấy. Không phải tất cả đều có cùng một cảm nhận, rút ra được cùng một ý nghĩa khi đọc xong cuốn sách này. Hãy đọc và bạn sẽ tìm ra được ý nghĩa của riêng mình trong câu chuyện này. *** Tôi không gặp lại Taurus từ đêm hôm ấy. Đôi khi, vào những đêm dài mất ngủ, tôi vẫn thoáng nhìn thấy vài hạt bụi nhỏ li ti lấp lánh buồn bã trong đáy ly rượu vang gần cạn của mình. Có thể anh ấy đúng. Tất cả đã quá muộn. Madame J cũng biến mất, như chưa hề tồn tại trong thế giới mà tôi từng biết. Sau vài lần tìm cách liên lạc với cô, tôi buộc phải thừa nhận sự biến mất sạch sẽ ấy. Văn phòng đại diện, điện thoại, địa chỉ email. Tất cả đều câm lặng. Trong những giấc mơ cũ kỹ của mình, tôi vẫn thấy cô, với dáng vẻ trễ nải thường thấy, nằm sưởi nắng dưới những cái ô trắng tinh dọc hiên nhà trong ngôi biệt thự trắng. Để rồi thứ tình cảm nồng ấm gần gũi hoàn hảo của cô lại ôm ấp tôi suốt những ngày dài sau đó. Chúng ta đã đều có sự lựa chọn của mình. Những lựa chọn khiến đường ray cuộc đời chúng ta bẻ sang một hướng khác. Như những con tàu chạy trên những đường ray song song, có thể nhìn thấu nhưng không còn có thể gặp nhau. Một buổi sáng đầu hè ấm áp, khi cái nắng mới lên khiến thứ không khí ẩm ướt còn vương lại từ cuối mùa xuân tan biến, tôi bị đánh thức bởi tiếng mở cửa lách cách, tiếng cái khóa rơi đến choang xuống nền nhà lát gạch, tiếng một ai đó rất quen làu bàu khi xô vào cánh cửa. Tee kéo lê cái vali màu đỏ sẫm đầy bụi của mình vào tận giữa nhà, chống nạnh, nheo mắt nhìn tôi dưới cái mũ lưỡi trai. - Giờ này còn ngủ. Bạn về mà không thèm chui ra khỏi giường tiếp đón. Tôi bật dậy, dụi nhẹ vào đầu mũi cay cay của mình, cười xuề xòa. - Về rồi đấy à? - Ừ, cuối cùng thì cũng về rồi đấy. Hai đứa ôm lấy nhau, bật khóc. Nắng trải từng viên lấp lánh xuống sàn nhà. Mời các bạn đón đọc Những Người Tình Cô Đơn Kỳ Lạ Của Tôi của tác giả An Hạ.
Một Mình Yêu Anh
Một truyện tình cảm thời xưa tiêu biểu của nữ tác giả mà mình thích nhất – Julia Quinn. Romancing Mr. Bridgerton nằm trong loạt series Bridgerton Chronicles, về một gia đình sang trọng, danh giá có tám người con. Mỗi người được đặt tên theo thứ tự A-B-C cho đến H, mỗi truyện là một mối tình của họ. Nhân vật chính của Romancing là người con thứ ba, Collin Bridgerton, mà mình nghĩ là thú vị nhất. Truyện còn tiết lộ một bí mật xuyên suốt cả ba tập trước, và còn chứa một thông điệp khá ý nghĩa nữa. Hình của Damgaard . Đóa hồng dù héo tàn thì tình em vẫn còn đó. *** Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra 24 thứ tiếng, 16 lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA và Chuyện xảy ra ở London đã mang lại cho Quinn giải RITA năm 2010. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác khi vừa rời trường trung học, và thành công ngay từ các tác phẩm đầu tay. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ.   Những tác phẩm của Julia Quinn đã được xuất bản: Như Chốn Thiên Đường - Julia Quinn Tử Tước và Em - Julia Quinn Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn Công Tước Và Em - Julia Quinn Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế - Julia Quinn Rồi Cũng Khép Những Tháng Ngày Đơn Độc - Julia Quinn Chuyện xảy ra ở London - Julia Quinn Rạng rõ hơn Ánh Mặt Trời - Julia Quinn Hẹn Ước dưới Vầng trăng - Julia Quinn Tiểu Thư Tinh Ranh Bí Mật Của Những Nụ Hôn Một Mình Yêu Anh ... Mời các bạn đón đọc Một Mình Yêu Anh của tác giả Julia Quinn.
Mây Mùa Thu
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy.... viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm. Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc... Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành. Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4 năm 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp. Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc. Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm. Các tác phẩm chính: Đêm thánh vô cùng Hoa thiên lý Ðiệu ru nước mắt Luật hè phố Thằng Vũ Dấu chân sỏi đá Dzũng ÐaKao Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang Bồn Lừa Ảo vọng tuổi trẻ Gấu rừng Cỏ non Ngày xưa còn bé Nặng nợ giang hồ Mùa thu Con suối ở Miền Ðông Danh ná truyện tuổi nhỏ Giặc cờ đỏ truyện tuổi nhỏ Nhóc tì phản động truyện tuổi nhỏ Hồn say phấn lạ tiểu thuyết trường thiên      Cầu Mơ Ánh lửa đêm tù Ánh mắt trông theo Thằng Côn Trường cũ Tuổi 13 Nhà tôi Mơ thành người Quang Trung Ðàn bà Chương Còm Mặt Trời nhỏ Lứa tuổi thích ô mai Giặc ôkê Đồi Fanta truyện La colline de Fanta dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Một người Nga ở Sài Gòn truyện (1986) Nam Á, Paris Un Russe à Saïgon dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris Un prisonnier Américan au Viêtnam truyện nxb Belfond Paris Hôn em kỷ niệm nhạc (1986) Nam Á, Paris Ru tình ngất ngây nhạc      Thơ tù thơ (1984) Nam Á, Paris Em, Sài Gòn và Paris thơ Một người mang tên Trần Văn Bá truyện (1985) Nam Á, Paris Sỏi đá ngậm ngùi truyện (1985) Nam Á, Paris Bầy sư tử lãng mạn truyện (1985) Nam Á, Paris Quán trọ trước cổng thiên đường truyện (1987) Nam Á, Paris Thơ của đàn bà truyện Nhánh cỏ mộng mơ truyện Động lòng chữ nghĩa đoản văn Nhà tù hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Trại tập trung hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ Sài Gòn ngày dài nhất hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ Nhìn lại những bến bờ hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ *** Mùa mưa dứt, gánh Đồng Ấu đã rời Tân Châu. Qua một quãng đường và một con đò, chúng tôi tới tỉnh lỵ Châu Đốc. Gánh hát không gặp may ở đây. Bữa tạnh bữa mưa. Mới diễn được ba đêm thì đại ban từ Sàigòn xuống, gánh Đồng Ấu cảm thấy lép vế, thu dọn đồ nghề ra đi. Lại dọc đường gió bụi, lui về quận Cái Dầu. Rồi về Long Xuyên, Thốt Nốt, Ô Môn... Càng đi xa, đi nhiều, gánh Đồng Ấu càng nghèo nàn, rách rưới. Tôi thương nghệ sĩ Năm Chiêu, ông Nghị bội phần. Tình thương, đôi khi, đã làm mờ tình tôi yêu Liên Hương. Hai con người đã từng làm vua, làm hiệp sĩ trên sân khấu Bắc, Nam, từng làm đau nhói biết bao con tim phụ nữ ở bốn phương trời; hai con người từng tạo ra vua, hoàng hậu, hiệp sĩ, từng xây dựng những vương quốc hạnh phúc ấm no trong trí tưởng tượng. Và trí tưởng tượng đó giãi bày xuống giấy trắng thành những vở tuồng. Giờ đây, túng đói, cực khổ vì chuyện tạo ra vua, tạo ra hiệp sĩ, tạo ra ý nghĩa đẹp đẽ cho cuộc đời. Người nghệ sĩ chỉ đủ khả năng dựng lớp lang cho nhân loại nhưng đã bất lực khi muốn dựng một đoạn kết đẹp rực rỡ cho chính bản thân mình. Số kiếp người nghệ sĩ Việt Nam, dường như, đều bị ràng buộc bằng đói rách, bênh hoạn. Ít có người chết bình thường, chết sau khi đã bằng lòng những gì mình làm xong. Những người viết văn làm thơ, soạn kịch, chết đi còn để lại tí tên tuổi còm. Chứ nghệ sĩ Năm Chiêu, ông Nghị chết đi sẽ để lại cái gì? Ai biết ông Tư Chơi, ai biết ông Huỳnh Thái bây giờ ra sao? Cùng lắm, người ta nói "Họ đã chết rồi, họ đã giải nghệ rồi". Sau này, người ta ngâm thơ Đinh Hùng, người ta nức nở khen. Nhưng mấy ai chịu nhớ, khi ông nằm yên dưới mộ, bạn bè thân thích của Đinh Hùng phải góp tiền mua cho vợ con Đinh Hùng căn nhà bé nhỏ tiều tụy. Tôi bắt đầu sợ cái tương lai "nằm gánh". Tôi phải thú thật rằng tôi không dám liều lĩnh, không dám bỏ cái gì đang có để kiếm cái gì sắp có. Vì thế, tôi thiếu đam mê không si tình mãnh liệt. Tôi dễ chán nản. Việc gì khó khăn, tôi lẩn tránh, Tôi bằng lòng với trái cây vừa tầm tay tôi, dù trái cây đó èo ọt, xanh chua. Tôi lười biếng tỏ tình vì nhút nhát. Bị thất vọng, tôi quên ngay. Và bị hắt hủi, tôi không dám nhìn mặt người hắt hủi tôi. Đau khổ cho một người con gái nào trót yêu tôi. Ví như nàng hẹn hò thì chỉ cần một cơn mưa nhỏ, tôi cũng sẵn sàng bắt nàng chờ đợi. Tôi không đến. Mời các bạn đón đọc Mây Mùa Thu của tác giả Duyên Anh.