Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Đình (Thân Vẫn Chỉ Tiêm)

Trong cõi đất trời bao la vô tận này, có nhiều người dành cả đời mình tìm tòi, khám phá những mong lý giải được hết thảy những điều họ có thể nhận biết, đồng thời ước vọng rằng thông qua đó họ có thể khám phá ra sự huyền bí của đất trời. Song, tuyệt đại đa số người trong số đó cho dù đã dùng cạn sinh lực của mình cũng chỉ có thể kéo dài được thêm mấy trăm năm tuổi thọ, có thể vận dụng một số quy luật thần diệu của đất trời, còn cái cụm từ 'thọ cùng trời đất' chẳng qua chỉ là trăng trong đáy nước mà thôi.

Lại có rất nhiều người suốt đời đều dồn vào việc lý giải những người và sự việc xung quanh mình, mong sao có thể tìm thấy sự siêu thoát trong tâm hồn, vậy mà cuối cùng lại được vinh danh là bậc thánh hiền của thế gian.

Bất kể là loại người nào đi chăng nữa, nếu như đem so với cả thiên địa cũng đều chỉ như muối bỏ biển, dẫu cho những người đó có dâng nên sóng cả bão bùng, nhưng chỉ chớp mắt một cái thôi rồi họ cũng sẽ lại im lìm tĩnh mịch mà hòa mình vào cõi hư vô.

Ở nơi đất trời kỳ lạ này có đủ loại sinh linh, khi ngược dòng thời gian tìm về thời điểm thiên địa còn đang diễn hóa thì có thể thấy mỗi loại sinh linh đó có khi cũng đã từng trải qua một thời quá khứ huy hoàng. Những sự việc và người trong quá khứ kia đã dần mai một theo sự xói mòn của dòng thời gian, nhưng cũng có một vài câu chuyện và con người trong số đó lại trở thành truyền thuyết, thần thoại.

Khi những truyền thuyết mà chúng sinh lưu truyền được tập hợp lại ở một nơi, nó sẽ hóa thành cơn sóng triều lịch sử của thiên địa, bao la và mạnh mẽ. Tìm mua: Hoàng Đình TiKi Lazada Shopee

Nếu như trên chín tầng trời có Thiên đình thống ngự các đấng tiên thần trong thiên hạ, trong Thiên đình lại có một tấm gương lớn soi rọi khắp nơi trên thế gian thì trong gương sẽ hiện lên hình ảnh vô số sinh linh trong thiên địa không ngừng bước tới đi lui, đó là hình ảnh của bọn họ kể từ khi sinh ra cho tới khi mất đi, kể từ khi còn phàm tục cho tới khi vang danh khắp sơn hà. Nếu thật sự nhìn kỹ thì có lẽ sẽ phát hiện rằng trong số những sinh linh hỗn loạn kia có một ông lão đi khắp thiên địa, dấu chân lão lưu lại khắp nơi, bất kể cho đó là danh sơn đại trạch hay là nơi tà địa hung sát.

Bỗng một ngày, ở phía sau ông lão có thêm một đứa trẻ. Nó đi theo sau lão, dần dần trưởng thành, cuối cùng hai người dừng chân trong một tòa thành rồi chia tay. Ông lão vẫn như trước kia, một thân một mình đi tới khắp nơi trong thiên địa như đang mải mê tìm kiếm thứ gì. Còn đứa trẻ đã trưởng thành kia tựa như giọt nước đã hòa mình vào sông lớn, có lẽ, đôi khi có sóng gió bão bùng nổi lên trong dòng lịch sử cũng chính là do một giọt nước ấy tạo thành...***

Đôi lời từ nhóm dịch:

Tác giả Thân Vẫn Chỉ Tiêm có lẽ không còn xa lạ với các đồng đạo chuyên "cày" convert qua những bộ truyện Tiên hiệp cổ điển mang hơi hướng mông lung, mờ ảo xen lẫn chút bi thương và bí ẩn như Nhân Đạo Kỷ Nguyên, Bạch Cốt Đạo Cung, Chúng Diệu Chi Môn v.v... Hoàng Đình cũng không ngoài số đó, nó như một chốn tĩnh lặng để ta chiêm nghiệm về cái tình, hòa mình vào thiên địa.***

Tháng chạp cuối đông, tuyết bay đầy trời.

Tuyết lớn đã phủ trùm lên cả một dải Thiên La dài hơn trăm dặm, cây lớn bị tuyết đọng gãy cành, suối đóng thành băng. Núi Thiên La là tên gọi chung cho một vùng núi non lớn nhỏ hơn ngàn ngọn như sao giăng, ngọn trung tâm là nơi Thiên La môn tu hành huyền môn đại đạo. Tính trong toàn bộ thiên địa, Thiên La Môn là một môn phái nhỏ, nhưng trong phương viên ngàn dặm thì đây là môn phái hàng đầu, đã có lịch sử hơn ba trăm năm.

Lúc lập phái, Thiên La tổ sư đã lấy kiếm dẹp yên yêu linh khắp núi, chấn nhiếp ngàn dặm, được tôn làm Thiên La Tiên Quân. Nhưng bởi tiên đạo khó cầu, tuy pháp lực cao cường, đạo hạnh cao thâm nhưng cuối cùng Thiên La Tiên Quân vẫn không thoát khỏi luân hồi. Ông đã tọa hóa trong núi từ trăm năm trước.

Hơn trăm năm trôi qua, Thiên La Môn không những không còn uy thế như hồi Thiên La Tiên Quân còn sống, mà ngay cả sự trầm tĩnh an tâm tu đạo, một lòng cầu trường sinh cũng gần như đã mất.

Cuối đông giá lạnh, vào lúc nửa đêm.

Vài tia sáng yếu ớt chiếu qua khe cửa Tàng Kinh các, nơi trọng địa Thiên La Môn, lộ rõ vẻ cô tịch trong trời tuyết yên tĩnh lạnh lẽo này.

Từ cửa các đi vào, bên phải là một cái bàn gỗ dài cũ kỹ, giữa bàn có một ngọn đèn xám, bên cạnh ngọn đèn là một thanh trường kiếm vỏ gỗ bình thường đặt nằm ngang. Một thanh niên đang cúi đầu chăm chú đọc một quyển sách lụa.

Dưới ánh đèn yếu ớt có thể thấy được trong phòng này ngoại trừ mấy hàng giá sách và sách thì chỉ có một bàn, một ghế dựa, một đèn, một người, toát ra cảm giác cô tịch lạnh lẽo.

Chỉ có người của Thiên La môn mới biết, trông coi Tàng Kinh các là một việc cực kỳ kham khổ và buồn chán, bởi vì sau khi nhận trách nhiệm sẽ không thể tự ý rời đi, dẫu ăn hay ngủ cũng đều ở trong Tàng Kinh các.

Người thanh niên này tên là Trần Cảnh, hắn gia nhập Thiên La môn đã được ba năm. Lúc hắn nhập môn cũng là lúc trời đông giá rét, tuyết lớn cũng bay đầy trời như bây giờ. Hắn được đệ tử duy nhất của chưởng môn tiền nhiệm là Diệp Thanh Tuyết đưa về núi Thiên La, sau đó được chưởng môn thu làm đệ tử. Tuy tính là đệ tử của chưởng môn nhưng lại chưa từng gặp mặt người, ngay cả phương pháp luyện khí của Thiên La môn cũng do sư tỷ Diệp Thanh Tuyết truyền thụ. Cho dù là như thế nhưng những đệ tử nhập môn lâu hơn cũng không có một ai khinh khi hay vô lễ với hắn.

Không thể ngờ rằng khi hắn vừa mới học được phương pháp luyện khí của Thiên La Môn thì môn chủ Thiên La môn là Đạo Trùng chân nhân lại đột nhiên tọa hóa. Hắn lập tức cảm nhận được sự biến hóa cực lớn trong thái độ của các đệ tử khác, vừa lúc Tàng Kinh Các thiếu một gã đệ tử trông coi, gã bèn xin nhận việc này, môn chủ đương nhiệm Giang Lưu Vân cũng chỉ động viên vài câu rồi chấp nhận. Hắn thủ hộ nơi này đã gần ba năm rồi.

"Cốc cốc cốc..."

Tiếng gõ cửa với nhịp điệu không nhanh không chậm vang lên. Nó thể hiện sự trầm ổn của người gõ cửa, không nóng vội, không gấp gáp.

Trần Cảnh khẽ cau mày, nhẹ nhàng cầm thanh kiếm dựng vào góc khuất của chân bàn. Hắn không lập tức đứng dậy mà mở miệng hỏi:

- Ai đó?

- Trần Cảnh sư đệ, là ta, Huyền Đồng đây.

Từ ngoài cửa truyền vào một giọng nói điềm đạm. Giọng cũng như tên, rất điềm đạm.

- A, Huyền Đồng sư huynh đó ư!?

Trần Cảnh đáp rồi đứng dậy đi ra mở cửa.

Đứng ngoài cửa là một công tử mặc áo gấm, nhác trông ấm áp như ngọc. Hắn tên Tôn Huyền Đồng, là đệ tử thân truyền thứ ba của môn chủ đương nhiệm Giang Lưu Vân. Chỉ là bây giờ đã vào dịp cuối năm, đệ tử đại gia tộc như y đáng lẽ là đã sớm về nhà, sao lại tìm đến mình lúc đêm hôm khuya khoắt?! Trần Cảnh lấy làm khó hiểu nhưng vẫn mỉm cười đón Tôn Huyền Đồng vào bên trong, hắn đi phía sau Tôn Huyền Đồng, vừa đi vừa nói:

- Sư đệ lo việc trà nước đang không ở đây, trong phòng không trà, mong sư huynh thứ lỗi.

- Ha ha, không sao, sư đệ trông coi Kinh các đúng là khổ cực, đợi lúc ta trở lại sẽ kêu người đưa trà ngon tới, mong sư đệ đừng cự tuyệt.

Tôn Huyền Đồng chắp tay đứng, y liếc mắt nhìn quanh Tàng Kinh các rồi nói một cách ôn hòa. Từ thái độ nói chuyện của y có thể thấy hiển nhiên lời nói của y có trọng lượng trong nhà, chiêu thi ân thi huệ này dùng cực kỳ tự nhiên.

Trần Cảnh cười nói:

- Đa tạ sư huynh quan tâm.

- Ha ha, sư đệ khách sáo rồi, nói ra thì có rất nhiều sư huynh đệ ước ao công việc của sư đệ đấy.

Trần Cảnh chỉ cười cười chứ không nói gì.

Tôn Huyền Đồng nói thêm:

- Không ai quản thúc, lại có thể thoải mái đọc kinh thư trong các, tuy cuộc sống vắng lặng nhưng với những người tu hành như bọn ta mà nói thì đó không hẳn là một chuyện không tốt.

- Ha ha, sư huynh nói giỡn rồi, huynh là đệ tử thân truyền của môn chủ tất rõ hơn đệ chuyện tu hành pháp thuật không cần đa mà cần tinh. Nếu tâm cảnh không đủ, đọc càng nhiều pháp chú, càng nhiều kinh thư lại càng vô ích.

Hắn dừng một chút rồi hỏi:

- Không biết có chuyện gì mà sư huynh tới muộn như thế?

Trần Cảnh đi vòng qua người Tôn Huyền Đồng tới cạnh chiếc ghế ngồi lúc trước.

- Sư đệ nói rất đúng, pháp thuật cần tinh mà không cần đa. Ài, chỉ là một tiểu muội trong nhà gần đây say mê pháp thuật, tháng trước ta về nhà bị nó bám riết nên đành đáp ứng lúc hạ sơn sẽ mang về một quyển pháp chú cho nó mượn. Ha ha, sư đệ yên tâm, chỉ mượn ba tháng là trả, không biết sư đệ có thể giúp đỡ một chút được không?

Lời nói thái độ của Tôn Huyền Đồng vẫn ôn hòa, miệng mỉm cười, mắt nhìn thẳng vào mắt Trần Cảnh.

Trần Cảnh khẽ giật mình, thầm nghĩ: "Với thân phận của y thì nếu xin linh phù mượn sách tuyệt không khó, sao lại phải đêm hôm khuya khoắt tới tìm ta cơ chứ?"

Trong lòng nghĩ vậy, hắn tỏ vẻ khó xử nói:

- Sư huynh, có lẽ huynh không biết, lúc đệ nhận trông coi Tàng Kinh các đã được chưởng môn nhắc nhở, nếu tự ý cho mượn kinh thư đem ra ngoài mà bị phát hiện thì cả hai sẽ bị phế pháp lực, trục xuất khỏi sơn môn.

- Ha ha, sư đệ đừng lo, đệ không nói, huynh cũng không nói thì tự nhiên không ai biết, dù cho có người đã biết ta cũng có thể bảo hộ được cho sư đệ, sư đệ cứ yên tâm.

Tôn Huyền Đồng khẳng định xong, lập tức hiển lộ vẻ bề trên đảm đương trách nhiệm.

Đa số người tu hành trong Thiên La môn là đệ tử các danh môn phú quý trong các thành ở ngàn dặm xung quanh. Bọn họ không lấy đạo trường sinh làm mục tiêu mà chỉ muốn học pháp thuật hay rồi trở về trần thế hưởng phú quý.

Trần Cảnh mỉm cười, nghênh đón ánh mắt Tôn Huyền Đồng rồi nói:

- Sư huynh chớ trách, đó là chức trách của sư đệ, thực sự không thể đáp ứng.

- Tốt tốt...

Tôn Huyền Đồng khe khẽ vỗ tay, vừa cười nhẹ vừa nói:

- Sư đệ có trách nhiệm như vậy đích xác không sai. Nhưng mà, đệ với huynh đều là kẻ tu hành, không phải là những người chức tước trong thành trì ở nhân gian. Cái chúng ta tu chính là đạo, vậy cũng không nên tư duy bó buộc như đám Nho môn trần thế. Ha, đột nhiên mới nhớ, tháng trước về nhà phát hiện một chuyện hay, muốn kể cho sư đệ nghe một chút.

Trần Cảnh nhìn Tôn Huyền Đồng chắp tay thả bộ bước đứng ở cạnh cửa nhìn bầu trời, âm thầm cảnh giác nói:

- Thỉnh sư huynh dạy bảo.

- Tháng trước quay về Bá Lăng, ta ngẫu nhiên nghe được chuyện ba năm trước đây ở thành tây từng xảy ra một vụ án mạng.

Tôn Huyền Đồng quay đầu lại, vừa nói vừa nhìn Trần Cảnh.

Trần Cảnh thì hơi cúi đầu lắng nghe, dưới ánh đèn mờ không thể thấy rõ sắc mặt hắn.

Tôn Huyền Đồng tiếp tục:

- Một tú tài giết ba danh môn đệ tử nơi thanh lâu, việc này lúc đó chấn động toàn thành, đáng tiếc lúc đó ta ở trong núi, mãi ba năm sau mới biết được. Nói cũng khéo, kẻ sát nhân kia cũng tên là Trần Cảnh, y như sư đệ.

- Ha ha, thật là thú vị, không ngờ lại trùng tên trùng họ với đệ.

Trần Cảnh ngẩng đầu lên vẻ mặt tự nhiên nói:

- Chỉ là không biết ảnh của kẻ sát nhân giống đệ hay không?

Nơi hắn đứng chính chỗ mới vừa rồi ngồi đọc sách, cổ tay buông xuống vừa khéo được bàn che, nếu có người phía sau hắn thì có thể thấy ngón tay buông dưới mặt bàn đang như có như không đụng vào thanh trường kiếm dài ba thước trong bóng tối.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hoàng Đình PDF của tác giả Thân Vẫn Chỉ Tiêm nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Gia Đình Buddenbrook (Thomas Mann)
Tiểu thuyết kể câu chuyện về một gia đình đại tư sản ở miền Bắc nước Đức đã giúp tác giả Thomas Mann giành giải Nobel văn chương năm 1929. Gia đình Buddenbrook kể về sự suy tàn của hãng xuất nhập khẩu ngũ cốc Johann Buddenbrook, thực chất là kể về gia đình, tổ tiên của Thomas Mann ở thương cảng nổi tiếng Lubeck. Bốn thế hệ của dòng họ Buddenbrook - một dòng họ tư sản thương nghiệp cứ dần dần lụn bại trên thương trường, suy sụp trong đạo lý, văn hóa. Thomas Mann đã dựng lên một bức tranh toàn diện và chân thực về đời sống của tầng lớp trung lưu: kết hôn và ly hôn, sinh ra và chết đi, thành công và thất bại. Những sự kiện ấy lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ, trong khi gia đình Buddenbrook dần bị cuốn vào vòng xoáy hiện đại dẫn đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của cả dòng họ. Chủ nghĩa bi quan được thể hiện rõ trong tiểu thuyết. Trong tác phẩm, Thomas Mann miêu tả cảnh buôn bán tấp nập, đồng thời là cảnh suy tàn của thương nghiệp ở thành phố cảng nổi tiếng của Đức. Với hơn 400 nhân vật, câu chuyện giàu chi tiết và đầy tính nhân văn, Gia đình Buddenbrook vượt qua các tác phẩm văn chương viết về gia đình vốn thịnh hành ở châu Âu thời điểm đó, và trở thành một hình mẫu của thể loại này. Gia đình Buddenbrook đứng thứ 7 trong top 100 cuốn tiểu thuyết Đức ngữ hay nhất thế kỷ 20. Cứ 10 người Đức thì có một người đọc tác phẩm này. Ở Trung Quốc, Gia đình Buddenbrook được coi là phiên bản Đức ngữ của Hồng lâu mộng. Cũng giống như độc giả Hồng lâu mộng, người đọc tác phẩm này của Thomas Mann thường vẽ cây phả hệ của gia tộc Buddenbrook nhớ quan hệ của các nhân vật và tiện theo dõi tác phẩm.*** Tìm mua: Gia Đình Buddenbrook TiKi Lazada Shopee Paul Thomas Mann (1875 - 1955) là nhà văn Đức đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý. Văn của Thomas Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kỹ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ; ông sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. Năm 1913, cuốn tiểu thuyết ngắn Der Tog in Venedig (Chết ở Venice) được xuất bản, cùng với Tonio Kroger được coi là những tác phẩm xuất sẳc nhất thuộc thể loại này. Thế chiến thứ nhất đã đẩy nhà văn vào một cuộc khủng hoảng tinh thần trầm trọng, ông viết tập ký 600 trang Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918) trong thời gian này. Sau chiến tranh ông trở lại với văn học nghệ thuật, hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của minh là Der Zauberberg (Núi thần, 1924). Năm 1929, ông được nhận giải Nobel, chủ yếu vì bộ tiểu thuyết vĩ đại Buddenbrooks - Verfall einer Familie. Từ những năm 1930, Thomas Mann tích cực tham gia các hoạt động chính tri chống chủ nghĩa phát xít; dưới thời Đức quốc xã sách của ông bị cấm và bị đốt ở Đức, ông bị tước quốc tịch Đức (1936), phải sống lưu vong. Năm 1938 ông sang Mỹ và trở thành công dân Mỹ (1944). Sau chiến tranh ông về thăm cả Đông và Tây Đức, được đón tiếp long trọng nhưng ông không ở lại Đức mà sang định cư ở Zurich (Thụy Sỹ) cho đến khi mất. Ngoài giải Nobel, ông được cả Đông và Tây Đức trao tặng giải thưởng Goethe năm 1949; ông cũng được Đại học Oxford và Đại học Cambridge trao bằng danh dự.*** Thomas Mann đã muốn thông qua sự sụp đổ của gia đình Buddenbrook về các mặt kinh tế, đạo đức và địa vị xã hội để nói lên sự hủy diệt tất yếu của giai cấp tư sản ăn bám, tàn nhẫn và mục nát. Các nhà nghiên cứu cho biết rằng ông đã miêu tả chính gia đình ông trong cuốn truyện này. Ông nội Thomas Mann cũng là một thương gia kinh doanh lương thực, y như cụ Johann Buddenbrook trong truyện. Thân sinh ông cũng là một cổ đông trong công ty lương thực và cũng kiêm chức tham nghị như ông tham Buddenbrook. Tác giả còn dùng cả gia phả, thư tín, giấy tờ của gia đình mình, lấy những người họ hàng thân thích của mình làm mẫu để xây dựng các nhân vật trong truyện. Tòa nhà cũ của tác giả ở Lübeck cũng được đem vào truyện, cho nên khi cuốn tiểu thuyết này ra đời, tòa nhà đó đã được người đời mệnh danh là “nhà Buddenbrook”. Đọc tác phẩm này, chúng ta thấy ngòi bút của Thomas Mann rất sinh động, không chút giả tạo, hấp dẫn từ đầu chí cuối. Ông đã vẽ lên bức tranh xã hội Đức thời bấy giờ với đủ các mẫu người như thương gia, học giả, nghị viện, mục sư v.v... đặc biệt ông đã phản ánh đầy đủ những đặc điểm chung của tầng lớp thị dân đang trên bước đường suy sụp. Thế lực ngự trị trong xã hội là đồng tiền. Có thể nói khi đụng đến tiền, thì mọi thứ quan hệ trong xã hội đều rạn nứt, đổ vỡ, kể cả quan hệ ruột thịt. Gia đình Buddenbrook sống rất hòa thuận, êm đềm, nhưng đến khi đụng đến gia tài, tiền bạc thì tranh giành cãi cọ nhau, xung đột nhau rất kịch liệt. Tình cảm giữa ông tham Buddenbrook và bác Gotthold, người anh cùng cha khác mẹ; hay giữa Thomas và Christian, hai anh em ruột thịt đã sứt mẻ vì đồng tiền. Khi bà cụ tham lấy tiền cho con rể là mục sư Tiburtius, theo yêu cầu của con gái út lúc hấp hối, Thomas đã to tiếng cãi nhau với mẹ. Hay khi bà cụ tham vừa qua đời, chưa khâm liệm, anh em trong nhà này đã tranh giành của cải, không ai chịu ai, thậm chí còn chửi mắng nhau, đến nỗi Tony phải van xin: “Anh Tom... Anh Christian, me còn nằm đấy chưa khâm liệm...”. Sức mạnh của đồng tiền còn bộc lộ cả trong việc hôn nhân. Họ lấy vợ lấy chồng không phải vì thương yêu nhau mà là lấy tiền lấy của. Cụ Johann Buddenbrook lấy cụ bà thuộc dòng họ Duchamps ở Hamburg, ông tham Buddenbrook lấy bà Elisabeth Kröger hay Thomas lấy Gerda Arnoldsen đều vì được thu về những khoản hồi môn rất lớn. Antonie, con gái yêu quý của ông tham Buddenbrook yêu Morten, sinh viên trường thuốc, nhưng không lấy được vì anh chỉ là con một viên chức thường, ông tham không bằng lòng gả, trái lại cô phải lấy Grünlich, một tên bịp bợm, cuối cùng hạnh phúc tan vỡ. Bên cạnh đó có một số con gái lớn tuổi, không lấy chồng được cũng chỉ vì không có của hồi môn (như ba chị em con ông Gotthold Buddenbrook ở phố Breiten, hay Klothilde và một số người khác).Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gia Đình Buddenbrook PDF của tác giả Thomas Mann nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gia Đình (Khái Hưng)
Khái Hưng là một nhà văn lớn, một nhà tiểu thuyết tài ba, một trong những cây bút chủ đạo của nhóm Tự lực văn đoàn. Với số lượng tác phẩm và thể loại đa dạng như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, khảo cứu, phê bình… trong bất kì thể loại nào ông cũng đạt được những thành công nhất định. Ông đặc biệt thành công ở mảng tiểu thuyết và đã góp phần không nhỏ vào tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Tìm hiểu tiểu thuyết của Khái Hưng mang lại rất nhiều ý nghĩa. Một trong những thành công tiêu biểu của Khái Hưng ở mảng tiểu thuyết là tác phẩm Gia đình được tác giả viết vào năm 1936. Từ tác phẩm đầu tay Hồn bướm mơ tiên đến Gia đình đã khẳng định sự phát triển tiến bộ của Khái Hưng trên cả hai phương diện: nội dung và hình thức. Tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ chế độ đại gia đình phong kiến và đồng thời thể hiện được được tài năng của Khái Hưng trong thể loại tiểu thuyết. Với ngôn ngữ đa dạng, phong phú, độc đáo và đặc sắc, ông đã tái hiện thành công cuộc sống sinh hoạt của nhiều giai tầng cũng như bức tranh phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. *** Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu. Tìm mua: Gia Đình TiKi Lazada Shopee Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Tác phẩm Tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933) Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933) Nửa chừng xuân (1934) Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934) Trống mái (1936) Gia đình (1936) Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) Thoát ly (1938) Hạnh (1938) Đẹp (1940) Thanh Đức (1942) Băn khoăn Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934) Tiếng suối reo (1935) Đợi chờ (1940) Cái ve (1944) Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Khái Hưng":Nửa Chừng XuânGia ĐìnhHồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng XuânThừa TựTuyển Tập Truyện Ngắn Khái HưngSố Đào HoaTruyện Ngắn - Khái HưngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gia Đình PDF của tác giả Khái Hưng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gia Đình (Khái Hưng)
Khái Hưng là một nhà văn lớn, một nhà tiểu thuyết tài ba, một trong những cây bút chủ đạo của nhóm Tự lực văn đoàn. Với số lượng tác phẩm và thể loại đa dạng như: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, khảo cứu, phê bình… trong bất kì thể loại nào ông cũng đạt được những thành công nhất định. Ông đặc biệt thành công ở mảng tiểu thuyết và đã góp phần không nhỏ vào tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Tìm hiểu tiểu thuyết của Khái Hưng mang lại rất nhiều ý nghĩa. Một trong những thành công tiêu biểu của Khái Hưng ở mảng tiểu thuyết là tác phẩm Gia đình được tác giả viết vào năm 1936. Từ tác phẩm đầu tay Hồn bướm mơ tiên đến Gia đình đã khẳng định sự phát triển tiến bộ của Khái Hưng trên cả hai phương diện: nội dung và hình thức. Tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ chế độ đại gia đình phong kiến và đồng thời thể hiện được được tài năng của Khái Hưng trong thể loại tiểu thuyết. Với ngôn ngữ đa dạng, phong phú, độc đáo và đặc sắc, ông đã tái hiện thành công cuộc sống sinh hoạt của nhiều giai tầng cũng như bức tranh phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng. *** Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu. Tìm mua: Gia Đình TiKi Lazada Shopee Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Tác phẩm Tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933) Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933) Nửa chừng xuân (1934) Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934) Trống mái (1936) Gia đình (1936) Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) Thoát ly (1938) Hạnh (1938) Đẹp (1940) Thanh Đức (1942) Băn khoăn Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934) Tiếng suối reo (1935) Đợi chờ (1940) Cái ve (1944) Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Khái Hưng":Nửa Chừng XuânGia ĐìnhHồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng XuânThừa TựTuyển Tập Truyện Ngắn Khái HưngSố Đào HoaTruyện Ngắn - Khái HưngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gia Đình PDF của tác giả Khái Hưng nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Ghi Đơ Môpatxăng (Isaac Babel)
Isaac Babel (1894 - 1941) được đánh giá là nhà văn Do Thái đầu tiên bước vào văn đàn Nga với tư cách là một tác giả văn xuôi Nga. “Babel đã trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Odessa, chịu đựng cảnh đau khổ trong ghetto (khu vực cư trú dành riêng cho người Do Thái). Babel học giỏi, từ nhỏ cho đến khi 16 tuổi ông đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel đến với văn chương từ rất sớm. 15 tuổi ông đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp. Giống Gogol, 1915 ông đến Peterburg ôm ấp mộng văn chương. 1916 đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời Babel khi nhà văn gặp được Gorky. Gorky đồng ý in truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel đi thực tế để có vốn sống và viết. Thế là từ một chàng công tử Do Thái Babel đã trở thành một người lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các công tác cách mạng (làm việc trong các ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm ở nhà in…).Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời năm 1926 - là tập hợp những truyện ngắn Babel viết về cuộc sống, chiến đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận truy quét quân Ba Lan và Bạch vệ thời kỳ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều: một ủng hộ Babel, ca ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; còn một phê phán, lên án kịch liệt tác phẩm này, thậm chí còn buộc tội tác giả của nó. Tương phản trở thành một thủ pháp được sử dụng hữu hiệu trong các tác phẩm của Babel, nhất là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra muôn vàn khuôn mặt cách mạng, chiến tranh và những suy ngẫm về sự sống, cái chết…Trong 25 năm cầm bút Babel để lại không nhiều tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); nhưng những tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau thời điểm Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời (1939) Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc phải nhận những tội danh vô lí trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án quân sự vào ngày 26/ 1/ 1940 và bị hành quyết ngày 17/ 3/ 1941, khi ông 47 tuổi. Suốt 15 năm sau đó, tên ông bị xoá hẳn trong sách vở văn chương của Liên Xô. Từ năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt- Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2000.*** Tìm mua: Ghi Đơ Môpatxăng TiKi Lazada Shopee Mùa đông năm mười sáu tôi nương náu ở Petecburg với tấm căn cước giả và không một xu dính túi. Người cho tôi ở nhờ là một anh giáo dạy văn học Nga tên là Alecxây Kazansev.Anh sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, vàng xỉn, hôi hám. Anh kiếm tiền để phụ vào số tiền lương còm bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời ấy Blasko Ibanes đang nổi như cồn.Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, dù chỉ là đi ngang qua, nhưng tình yêu xứ ấy xâm chiếm toàn bộ con người anh. Anh biết hết mọi lâu đài, công viên, sông ngòi ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi ra, chỗ Kazansev còn cả một lô nhưng kẻ bị bật ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống rất đói rách. Thảng hoặc, mấy tờ báo lá cải mới dành vài dòng chữ nhỏ đăng những mẩu tin vặt của chúng tôi.Sáng sáng tôi la cà ở những khu nhà xác và đồn cảnh sát.Người hạnh phúc hơn trong bọn vẫn là Kazansev. Anh còn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.Tháng mười một, tôi được giới thiệu một chân thư lại ở nhà máy Ôbukhôv, một chỗ làm không đến nỗi tồi tránh cho tôi khỏi phải vào lính.Tôi đã từ chối không làm một gã thầy ký.Ngay từ lúc ấy - mới hai chục tuổi đầu - tôi đã tự nhủ: thà đói khát, tù đày, lang bạt còn hơn ngồi lỳ ở phòng giấy suốt mười giờ đồng hồ mỗi ngày. Chẳng phải có gì táo tợn lắm trong lời nguyền ấy, nhưng tôi đã và sẽ không đời nào vi phạm nó. Tôi vẫn giữ được cái phong tục của ông cha: Chúng ta sinh ra trên đời là để tận hưởng thú vui làm lụng, đánh nhau, yêu đương, chúng ta sinh ra là cho những việc ấy chứ không phải vì cái gì khác.Nghe tôi lý sự, Kazansev cứ xoắn mãi cái chỏm tóc vàng hoe ngắn ngủn trên đầu. Nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh pha lẫn vẻ thích thú.Đến hôm lễ Giáng sinh thì chúng tôi gặp may. Luật sư Benderski, chủ sở hữu nhà xuất bản “Ansiona” có ý định xuất bản một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch do Raisa, vợ ông, đảm nhiệm. Cái trò chơi quý tộc chẳng đi đến đâu.Người ta hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha xem anh có biết ai giúp việc được cho Raisa không. Kazansev ra lệnh cho tôi.Hôm sau, khoác một cái áo vét đi mượn, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ở góc đường Nevski và Môika, trong một ngôi nhà xây bằng đá hoa cương Phần Lan, bên ngoài có ốp những hàng cột giả màu hồng, lỗ châu mai và gia huy chạm đá. Những tay chủ nhà băng mất gốc, mới cải đạo và phất lên nhờ nghề chạy hàng đã cho xây lên ở Pêterburg trước ngày có chiến tranh hàng lô thứ lâu đài chướng mắt, ngạo nghễ đến lố bịch ấy.Cầu thang trải một tấm thảm đỏ. Ở chiếu nghỉ cầu thang có đặt những con gấu nhung đứng chồm hai chân lên.Trong những cái mõm há hốc của chúng các núm thủy tinh lóe sáng.Vợ chồng nhà Benderski sống trên tầng ba. Ra mở cửa là một cô hầu gái đội mũ mào, ngực cao. Cô ta đưa tôi vào gian tiếp khách bày biện theo lối Slavơ cổ. Trên tường treo những bức tranh gam xanh lơ của Rerikhơ - những tảng đá và quái vật thời tiền sử. Khắp các góc nhà - đặt trên bệ, bày la liệt các tượng thánh kiểu cổ. Cô hầu gái có bộ ngực cao diễu khắp phòng một cách trịnh trọng. Cô ta người cân đối, mắt cận thị, vẻ kiêu kỳ. Trong cặp mắt xám mở to của cô lộ rõ vẻ phóng đáng trơ trẽn. Cô đi lại chậm chạp. Tôi thoáng nghĩ rằng khi yêu chắc hẳn cô ả vần vũ cuồng nhiệt và sành sỏi lắm. Tấm rèm gấm treo nơi cửa ra vào chợt lay động. Bước vào phòng, mang một bộ ngực đồ sộ là một phụ nữ tóc đen có cặp mắt màu hồng. Chẳng cần nhiều thời gian cũng nhận ra là bà Benderski là thuộc loại phụ nữ Do Thái làm cho người ta say mê, đến đây từ Kiev và Pôntava, từ những miền thảo nguyên, những thành phố sung túc trồng đầy dẻ và keo. Tiền của do các đức ông chồng khéo xoay xở được những người đàn bà này chuyển hóa thành lớp mỡ hồng hào nơi bụng, gáy, trên đôi vai tròn lẳn. Cái khóe cười mỉm ngái ngủ, mướt mịn của họ khiến các chàng sĩ quan đồn trú mê mẩn như bị hớp hồn.- Môpatxăng là niềm say mê duy nhất của đời tôi, - Raisa nói với tôi.Cố giữ cho cặp đùi đồ sộ đừng đong đưa quá, chị ta ra khỏi phòng rồi trở lại với bản dịch “Cô Garriet”. Trong bản dịch ấy của chị ta không còn để lại chút dấu vết nào câu chữ của Môpatxăng, cái giọng văn khoáng đạt, mượt mà, nghe như có tiếng thở dài say đắm. Những câu văn của bà Benderski đúng văn phạm đến mức khó chịu, tẻ ngắt và thô kệch - hệt lối viết tiếng Nga ngày trước của dân Do Thái.Tôi đem tập bản thảo về nhà và trong gian gác áp mái của Kazansev - giữa đám người đang ngủ say - suốt đêm cặm cụi gọt đẽo bản dịch của người. Kể ra thì công việc ấy cũng không đến nỗi buồn tẻ như tôi nghĩ. Câu cú được sửa sang vừa hay lại vừa dở cùng một lúc. Bí quyết là ở sự xoay chuyển khó nhận thấy được. Cây đòn bẩy phải ở trong tay và ấm nóng lên. Và chỉ được xoay tay đòn một lần, chứ chớ đến hai.Sáng ra, tôi đem đến bản thảo đã sửa xong. Raisa đã thật lòng khi nói chị mê Môpatxăng. Chị ngồi bất động suốt thời gian đọc lại bản dịch, tay đan chéo vào nhau: hai cánh tay mịn màng buông thõng, vầng trán trắng nhợt, viền đăng ten giữa hai bầu vú bị dồn ép xô lệch đi, hết dâng lên lại hạ xuống.- Anh đã làm cách nào vậy?Lúc ấy tôi đã nói về văn phong, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí giới. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đôi môi thoa son hé mở. Một ánh đen sáng lên trên mái tóc chải dầu bóng và để ngôi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khỏe và thon duỗi trên tấm thảm trải sàn.Cô hầu gái đưa cặp mắt dâm đãng trơ trẽn nhìn sang phía khác, bưng mâm dọn bữa sáng lên.Ánh nắng Peterburg lấp lánh rọi xuống tấm thảm trải sàn mấp mô bột màu. Hai mươi chín tập sách của Môpatxăng xếp chật cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gáy sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những cái tách màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà chẳng nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bú bầu sữa đang căng tức của cô nhũ mẫu đẫy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisơ đến Macxây, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rúp tạm ứng trước. Cái hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng no căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa mà xúc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đã chếnh choáng, tôi quay ra bỉ nhạo Tônstôi:- Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhát cáy… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…- Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.Chúng tôi lịm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi cũng còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quần nhau hôn hít đến mệt nhoài. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.Đón tôi là một người đàn bà dáng ủ ê, vai vắt khăn choàng, mớ tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mọng vì dầm nước.Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khẽ chớp đượm vẻ thương xót.Tôi đã làm quen với chồng Raisa - một tay Do Thái mặt bủng, đầu hói trụi và người dẹt lét, nhìn nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ láo, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thường ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nên hàng tuần sau tôi mới nhận ra điều đó.Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nên đến tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trong phòng ăn. Từ phía ấy vọng ra tiếng cười lanh lảnh như ngựa hý của đàn bà, và tiếng ồm ồm của đàn ông đang cơn hứng. Ở những nhà giàu không có nền nếp, người ta ăn uống rất ồn ào. Thứ tiếng ồn rất Do Thái, rộ lên từng đợt và về cuối trở nên du dương. Rai sa ra đón tôi trong bộ váy áo dạ hội hở lưng. Chân đi giày láng bóng, bước vụng về.- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ - Rồi chị chìa cho tôi đôi tay đeo đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.Tấm thân chị đong đưa, dướn cao như con rắn ngóc lên theo tiếng nhạc. Chị ta lắc lắc cái đầu uốn quăn làm cho mớ vòng khuyên kêu lanh canh, rồi bất thần ngã vật ra chiếc ghế bành trạm trổ kiểu Nga cổ. Trên khoảng lưng trần xoa phấn của chị hằn rõ những vết tím bầm.Phía sau tường lại vang lên tiếng phụ nữ cười. Hai cô em có ria mép từ phòng ăn đi ra, cũng vú to, người phổng phao y hệt Raisa. Ngực các cô ưỡn ra, tóc đen xõa tung. Cả hai đều lấy chồng người trong họ Benderski của mình. Căn phòng tràn ngập tiếng phụ nữ cười đùa, lối đùa cợt của những người đàn bà đã trưởng thành. Hai ông chồng ủ ấm cho các cô bằng áo bành-tô da hải sư, khăn choàng Ôđenbuốc, đi cho họ giày da cao cổ; sau lớp lông tuyết xù lên của vành khăn chỉ còn thấy đôi má đỏ lựng, chỏm mũi trắng như sứ và ánh mắt cận thị của dân Seemit. Đùa chán, họ đi đến nhà hát hôm ấy đang diễn vở “Judith” với Saliapin sắm vai chính.- Tôi muốn làm việc, - Raisa thì thầm, dang hai cánh tay trần, chúng ta đã bỏ phí mất cả tuần nay rồi…Nàng sang phòng ăn lấy một cái chai và hai cốc lớn. Bộ ngực không mang nịt núng nính qua lần áo, hai núm vú hằn rõ qua nền lớp lụa mềm.- Thứ quí, - Raisa vừa nói vừa rót rượu ra, - loại nho xạ năm 83 đấy nhé, chồng tôi mà biết thì ông ấy giết tôi…Tôi chẳng có việc gì với thứ nhục đậu khấu năm 83, và cũng không hề có ý định nốc cạn ba vại liền. Chúng lập tức lôi tuột tôi đến những hẻm phố chập chờn những đốm lửa màu da cam và vẳng nghe có tiếng nhạc.- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ… Hôm nay ta làm gì đây?Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Đơ Môpatxăng PDF của tác giả Isaac Babel nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.