Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đoạn Tuyệt

Tiểu thuyết Đoạn tuyệt của nhà văn Nhất Linh xuất bản năm 1934, viết về cuộc đời Loan, một cô gái mới được tiếp thu những tư tưởng mới và hành trình chống lại những luật lệ phong kiến hà khắc, kìm kẹp quyền tự do cá nhân của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Qua tác phẩm của mình, Nhất Linh phản ánh một cách trực diện xung đột mới – cũ, cổ vũ sự giải phóng của con người thoát khỏi những hủ tục. Và ông cũng ca ngợi sự tự do sống theo đuổi những ước vọng, khát khao cá nhân, những lý tưởng cải tạo xã hội.  Đoạn tuyệt là một trong những tác phẩm mà Sống (Thương hiệu sách Tác giả Việt) đặc biệt tuyển chọn để đưa vào Tủ sách Khuê Văn – tủ sách gồm những áng văn trác tuyệt được ví như những vì tinh tú trong nền văn học Việt Nam. *** Chuyện nàng tân thời. “Đoạn tuyệt” gồm 28 chương, được viết trong năm 1934 – 1935, nội dung chính xoay quanh cô gái tân thời tên Loan. Loan thuộc hàng ngũ thanh niên có học, được tiếp thu nền văn minh mới, hiểu biết về tư tưởng nhân đạo, trọng tự do cá nhân. Nhưng rồi cảnh nhà túng bấn, nàng buộc phải bỏ học, thuận lời cha mẹ kết hôn với Thân con nhà giàu có, cũng là chủ nợ, dẫu lòng nàng vẫn yêu Dũng tha thiết. Dũng là điển hình của thanh niên tân thời vì thoát ly khỏi khuôn khổ đạo đức cũ mà làm trái ý gia đình, bị thầy me từ mặt. Anh sống một cuộc đời cô độc, lênh đênh, thiếu thốn, nhưng tự do. Dũng là hình tượng hướng tới của Loan, không chỉ là tình yêu, anh là hạt nhân trong tính cách của Loan, khiến nàng khát vọng được như Dũng, có những phẩm chất của Dũng, sống một cuộc đời như Dũng. Loan về nhà chồng, gạt bỏ cái tôi, cố sống như mọi người, cố lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nhưng nàng muốn yên mà gia đình chồng không để cho nàng yên. Nàng cưới chồng mà cảm tưởng như bị người ta mua về hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu hạ không công. Mâu thuẫn tư tưởng mới cũ diễn ra gay gắt. Đỉnh điểm là con trai bé bỏng của Loan không may sinh bệnh, mẹ chồng mê tín tin bọn thầy bùa, chữa bệnh bằng uống tàn hương nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm. Bé con qua đời một cách tức tưởi. Vốn khó sinh, Loan không còn khả năng mang thai, mẹ chồng bắt Loan đứng ra cưới vợ lẽ cho Thân, thật ra là hợp thức hóa một cuộc hoang dâm, ngoại tình. Vợ lẽ sinh được con trai, lại tỏ ra “kẻ trên”. Khi chức năng đẻ đã bị hỏng, Loan sống như một nô lệ không công, không thiếu đòn roi đánh mắng. Thương thân sinh và bởi cả món nợ cha mẹ chưa trả cho gia đình chồng, Loan tiếp tục nhẫn nhịn. Những tưởng cái đời sẽ từng bước đi lùi, mãi lùi về điểm già cỗi như thế, thì định mệnh xảy ra. Một vụ án mạng. Một phiên hầu tòa. Trắng án. Tự do! Nỗ lực tái thiết xã hội. Viết “Đoạn tuyệt”, Nhất Linh có chủ ý muốn bạn đọc đương thời yêu mới ghét cũ. Để thực hiện chủ ý ấy, ông dựng nên một cuộc xung đột giữa mới và cũ, ở đấy cái cũ hiện hình với tất thảy những xấu xí hủ bại: luân lý cay nghiệt ép con người vào đời nô lệ dưới vỏ bọc bổn phận gia đình, trọng nam khinh nữ, gia trưởng, dân trí thấp, mê tín dị đoan, bạo hành… Quyết định trắng án của quan tòa dành cho Loan, là thêm một tầng khẳng định để tác giả kết án chế độ đại gia đình cũ và dựng lập một chế độ mới, nơi con người cá nhân, đặc biệt là người phụ nữ có thể vui sống tự do trong tư tưởng lẫn thể xác, thoát ly mọi khuôn khổ gò bó của lễ giáo phong kiến. Ở một chừng mực nào đó, Nhất Linh đã thành công. “Đoạn tuyệt” được xem là một trong những kiệt tác của văn xuôi Việt Nam. Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu đã viết trên báo Loa năm 1945: ““Đoạn tuyệt” là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng phấn đấu. Nghĩa là vui mà sống.” Hẳn nhiên, không thiếu những ý kiến trái chiều, họ cho rằng xung đột trong gia đình  Việt Nam thời bấy giờ là kết quả tai hại của đầu óc lãng mạn trái mùa chạy theo Âu hóa (điều này đúng với cậu Văn Minh con cụ cố Hồng trong “Số đỏ”), nhưng lại sai đối với cô Loan. Loan trong “Đoạn tuyệt” là một người con gái có học, đứng đắn, khôn ngoan, đủ lý trí để xem xét mọi việc, đủ nghị lực để vượt qua thống khổ. Một người con gái mà khát khao “sống một cuộc đời tự lập, cường tráng” như Dũng, như một đấng nam nhi. Tuy nhiên, dùng tình tiết ngẫu nhiên để tạo bước ngoặc cởi bỏ nút thắt truyện đã gây nên một sự may rủi trong giải quyết vấn đề. Và bởi sự may rủi đó, nỗ lực tái thiết xã hội của Nhất Linh cũng còn bỏ ngỏ. Góc nhìn thiên lệch của Nhất Linh. Các sáng tác của Nhất Linh nói riêng, của Tự Lực văn đoàn nói chung đã “mở đầu một chặng đường mới trong văn xuôi” (chữ của Tô Hoài), góp phần định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, và “đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam” (chữ của Huy Cận). Tiểu thuyết của Nhất Linh hay! – Cho đến hiện tại, đây có lẽ đã là sự thật được chia ở thì hiện tại đơn. Cái hay ấy được tạo nên từ bút pháp nghệ thuật, lời văn, cách viết vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Nhưng về nội dung đề tài, phải nhận định rằng Nhất Linh đã có góc nhìn khá thiên lệch. Bản thân là một trí thức du học trời Tây 3 năm, Nhất Linh thành lập Tự Lực văn đoàn với 10 tôn chỉ, mà điều thứ 8 trong số đó là “Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa.” Để thực hiện tôn chỉ mà mình đưa ra, Nhất Linh kiên quyết bài trừ phong tục truyền thống, song song với ủng hộ văn minh, ủng hộ Âu hóa. Chưa nhắc đến việc Âu hóa trong bối cảnh đất nước bấy giờ có phải tất cả đều tốt đẹp hay không (cái này phải hỏi cụ Vũ Trọng Phụng). Nhưng phải chăng phong tục cũ nào cũng đáng bị công kích? Đạo Khổng du nhập vào Việt Nam hơn 1000 năm, để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo dục và lịch sử dựng giữ nước ở các triều đại phong kiến. Một ví dụ đơn giản dễ hiểu, đạo Khổng răn dạy con người phải “Trung quân ái quốc”, “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, bởi vậy góp phần không nhỏ tạo nên truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. Những truyền thống ấy có giá trị vĩnh hằng! Quay lại với “Đoạn tuyệt”, với luận đề giải phóng phụ nữ, mở rộng ra là giải phóng cá nhân và đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, chống chế độ đại gia đình, phê phán nền luân lý khắc khổ… Nhất Linh đã đặt toàn bộ phong tục tập quán truyền thống trong cái nhìn thành kiến, ông gạt bỏ toàn bộ, gạt bỏ luôn cả một cái lạy của đứa con khi tiễn đưa người mẹ về nơi chín suối. Ông đã để Loan, vì thể hiện thái độ chống cự lại tập tục cũ, mà không tế lễ, không bàn cỗ trong đám tang của mẹ mình. Dĩ nhiên, không cần rầm rộ “một đám ma gương mẫu” như cái cách ông vua phóng sự đất Bắc trào phúng trong “Số đỏ”, và đành rằng, có tưởng nhớ trong lòng, nhưng cái dập đầu với tất cả lòng thành kính tiếc thương đối với đấng sinh thành trước khi đưa người về nơi an nghỉ cuối cùng chưa bao giờ là điều thừa thãi hay đáng bài trừ cả! Nói cho cùng, đứng trước phong tục tập quán cũ, cần có thái độ gạn đục khơi trong để không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống cũng như các giá trị tinh thần, chứ không phải là phủ định toàn bộ như cách mà Nhất Linh tuyên ngôn và thực hiện. Hiểu thêm về Nhất Linh (1906 – 1963). Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, nguyên quán ở Quảng Nam nhưng sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là anh ruột của Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long và Thạch Lam Nguyễn Tường Lân. Ông từng theo học ngành Y và Mỹ thuật nhưng đều bỏ dở. Năm 1927, Nguyễn Tường Tam du học Pháp ngành khoa học, thời gian này ông có nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông lấy bằng cử nhân khoa học và về nước trong năm. Nguyễn Tường Tam đứng ra thành lập Tự Lực văn đoàn (03/1933), giữ vị trí cây bút chủ chốt và là linh hồn của nhóm. Ông cũng từng đảm nhiệm Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Ngoài cái tên Nhất Linh được dùng phổ biến hơn cả, ông còn sử dụng các bút danh Tam Linh, Nhất Chi Mai, Bảo Sơn, Lãng Du khi viết văn làm báo, Đông Sơn khi vẽ, Tân Việt khi làm thơ. Nguyễn Tường Tam còn là một chính trị gia. Ông sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một cây bút có tài, đồng thời là một chính khách có lòng yêu nước nhưng tham quyền lực và thiếu tầm nhìn nên đã lầm đường lạc lối. Bỏ qua lăng kính trính trị, cần khẳng định và thừa nhận những đóng góp có giá trị của Nhất Linh nói riêng và Tự Lực văn đoàn nói chung vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, vào câu văn và tiếng nói của dân tộc Việt Nam. *** Một buổi trưa chúa nhật, về mùa đông. Trong gian phòng ấm áp, bốn người ngồi quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài, mưa bụi lặng lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi, cành lá nặng nề, ướt át. Nghe có tiếng trẻ rao báo ngoài phố, cô giáo Thảo nhìn ra vườn hỏi chồng: – Cậu đã mua báo hôm nay chưa? Ông giáo Lâm đáp: – Mua rồi, tôi quên không đưa mợ xem – Thế họ có đăng tin gì thêm không, cậu? – Không. Thảo quay về phía một cô thiếu nữ ngồi ở ghế đệm dài, rồi hỏi: – Thế nào, chị Loan đã biết tin cô Minh Nguyệt tự tử chưa? Loan đáp: – Tôi biết rồi, biết trước khi họ đăng báo, vì tôi có quen cô ta. Khốn nạn, việc quái gì mà phải tự tử. Mẹ chồng ác thì về nhà bố mẹ mà ở, tội gì rước khổ vào thân rồi đến nỗi tự tử. Thảo nhìn bạn mỉm cười: – Chị nói dễ quá. Còn chồng, còn con… Loan ngắt lời: – Cô ấy chưa có con. – Vâng thì cô ấy chưa có con. Nhưng còn chồng… con gái đã bỏ chồng là mất cả một đời rồi còn gì. Mẹ chồng ghét, chồng bênh mẹ đuổi đi, cô Minh Nguyệt cho đời mình là hết hy vọng. Loan nói: – Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường. Thảo thấy bạn nói có vẻ giận dữ, mỉm cười đáp: – Chị đã biết ở xã hội mình, lấy chồng là lấy cả gia đình nhà chồng. Nếu không muốn thế thì chỉ có một cách là không lấy chồng nữa hay là chọn người nào không có gia đình mà lấy. Rồi nghĩ đến việc riêng của Loan, thấy Loan hiện đang bị bố mẹ ép lấy một người mà Loan không thuận, Thảo liền ôn tồn nói tiếp: – Nhưng nào mình có được tự ý kén chọn đâu mà bảo kén chọn. Từ nãy đến giờ, Dũng ngồi sát lò sưởi, loay hoay xếp lại mấy thanh củi, không nói một câu. Thấy hai cô bạn bàn tán mãi về một câu chuyện đã cũ kỹ, chàng liền quay lại nói: – Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi, muốn yên ổn thì đừng nghĩ đến nữa. Thảo đáp: – Anh thì anh cần gì gia đình mà bảo nghĩ đến. Còn chị Loan nay mai phải về nhà chồng, chị ấy không để tâm sao được. Rồi nàng mỉm cười tinh nghịch: – Chỉ trừ khi nào chị Loan lấy được người chồng không có gia đình như anh. Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt nghĩ đến nhân duyên của nàng. Nàng bị cha mẹ ép phải lấy Thân, một người bạn học thuở nhỏ của nàng, con một nhà giàu ở ấp Thái Hà. Việc này nàng thấy cha mẹ nói từ hồi nàng mới để tóc. Hai nhà trong mười năm trời nay vẫn đi lại thân mật, hai bên cha mẹ đã định ước cho Thân và Loan lấy nhau. Loan vẫn nhất quyết không chịu không phải là Loan chê gì Thân, vì Thân đối với nàng chỉ là một người quen, nàng không yêu mà cũng không ghét. Nhà Thân lại giàu, Loan chắc chắn rằng khi về nhà chồng, sẽ được sung sướng, an nhàn. Nhưng chỉ vì Loan càng ngày càng thấy cái tình của mình đối với Dũng không phải chỉ là cái tình bạn bè như trước kia. Nàng yêu Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng. Tuy định bụng không chịu lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha mẹ nàng đã quả quyết về việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong gia đình. Thảo nói: – Chị Loan nghĩ ngợi gì mà ngồi thừ ra thế kia? Hay là nghĩ đến đường chồng con sau này đấy? Loan mỉm cười rồi muốn giấu ý nghĩ riêng, nàng ngồi ngay người, hai tay để vào lòng, mặt nghiêm trang nhìn thẳng, bắt chước dáng cô dâu ngoan ngoãn, thỏ thẻ nói: – Cha mẹ đặt đâu, con xin ngồi đấy. Thảo cười bảo: – Còn cô rồi lại không thế à? Loan nói: – Em không lấy chồng. – Không lấy chồng thì làm gì? Loan ưa mắt nhìn Dũng đáp: – Thế anh Dũng thì sao? – Anh Dũng khác. Có phải không, anh Dũng? Dũng thẫn thờ đáp lại: – Phải, tôi thì đâu dám nghĩ đến đường vợ con. Không cửa, không nhà, nay đây mai đó, chính thân tôi, tôi cũng không biết sau này ra sao nữa là. Tôi chỉ có bạn chứ không có gia đình nào cả. Dũng đưa mắt nhìn vợ chồng ông giáo như cảm ơn hai người bấy lâu đã không sợ gì lời dị nghị của thiên hạ, sẵn lòng để chàng đi lại và lúc nào cũng âu yếm, coi chàng như một người em nhỏ đáng thương vì đã bị nhà và họ hàng ruồng bỏ. Ông giáo Lâm dựa vào câu của Dũng bảo đùa vợ: – Đấy, mợ xem sống như anh Dũng mới là đáng sống. Không vợ, không con, thênh thang tự do. Tôi thì có đi đâu một tí, mợ đã kêu la ầm trời đất. Cả ngày chỉ co ro ngồi đánh bóng tủ chè, đỉnh đồng. Cái đời vô vị tẻ ngắt. Mọi người cười ồ. Thảo nói tiếp câu của chồng: – Nhưng mà yên thân. Loan thoáng nghĩ đến hai cảnh đời trái ngược nhau: một cảnh đời yên tịnh ngày nọ trôi theo ngày kia như dòng sông êm đềm chảy, nhẫn nại sống trong sự phục tùng cổ lệ như mọi người con gái khác và một cảnh đời rộn rịp, khoáng đạt, siêu thoát ra hẳn ngoài lề lối thường. Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn, nghĩ thầm: – Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh năm phải kình kịch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh hợp với quan niệm mới của mình. Dũng chợt thấy Loan nhìn mình đăm đăm không chớp, có ý ngượng, quay lại với điếu thuốc lá, gắp than hồng châm hút, rồi uể oải đứng dậy xin phép về nhà. Thảo nhìn ra cửa sổ: – Trời vẫn còn mưa. Chúa nhật nhàn rỗi hãy ngồi ít lâu nữa. Rồi âu yếm như chị nói với em, Thảo ân cần hỏi: – Thế nào anh Dũng dọn nhà chưa? – Tôi vừa dọn xong, hôm nào thong thả mời anh chị và cô Loan lại chơi. Tôi xuống bếp đun nước lấy. Có thế mới quý. Thấy bộ quần áo của Dũng đã cũ kỹ, bạc màu, nghĩ đến cảnh nghèo của người bạn sống cô độc trong một gian nhà trọ, không thân thích, không đầy tớ, Loan bùi ngùi thương hại, hai con mắt dịu dàng nhìn Dũng, nói nửa đùa nửa thật: – Anh Dũng cần người hầu hạ thì đã có em. Em lấy rẻ mỗi tháng có năm hào công thôi… Câu nói đùa có ngụ ý không được tự nhiên làm cho Dũng ngượng nghịu, chàng gượng cười bắt tay ông giáo, cúi đầu chào Thảo và Loan, rồi cầm mũ, mở cửa đi ra ngoài mưa gió. Mời các bạn đón đọc Đoạn Tuyệt của tác giả Nhất Linh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bản Đàn Thôn Dã - André Gide
La Symphonie Pastorale của tác giả André Gide có nhiều bản dịch tiếng Việt, trong đó bản dịch của Mai Kim Ngọc lấy tên Bản Đàn Thôn Dã, bản dịch của Ðoàn Văn Khanh lấy tên Khúc Nhạc Đồng Quê, còn một bản dịch nữa của Bùi Giáng thì có tên là Hòa Âm Điền Dã. Cuốn sách nào của Gide cũng mang chất hàm hỗn dị thường, là khởi từ duyên cớ đó. Dịch Gide thật là một điều đáng ngại. Ông trích dẫn lơ thơ một câu trong Kinh Thánh, một câu của Saint Paul - nhưng ông "rút một dây" mà chấn động cả một rừng... *** Đã ba hôm nay tuyết rơi không ngớt cơn, đường sá hoàn toàn bế tắc. Tôi không đi tỉnh R. làm lễ như thông lệ một tháng hai lần đã mười lăm năm qua. Sáng nay tại nhà thờ Breville chỉ có ba chục tín đồ tới. Nhân dịp rảnh rỗi bất đắc dĩ vì không ra được khỏi nhà, tôi ngồi ôn lại từ đầu sự việc đã xui khiến tôi đón Gertrude về nuôi. Tôi đã dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự phát triển của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đã mang từ bóng đêm u tối ra như với mục đích duy nhất để tôn quý và yêu thương. Cám ơn Thượng Đế đã giao phó cho tôi nhiệm vụ. Câu chuyện khởi đầu đã đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó tôi đi Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vã tới tìm tôi để dẫn đi thăm một bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe còn thắng ngựa, tôi bảo con bé lên ngồi sau khi với cây đèn bão mang theo, e rằng chắc phải đến đêm mới xong việc. Tôi vẫn tự cho là mình thông thạo vùng này, vậy mà vừa quá khúc rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang tôi chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số, phía tay trái, tôi nhận ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà hồi nhỏ tôi đã đôi lần tới trượt băng. Khoảng mười lăm năm nay đã không trở lại vì không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi có lẽ tôi cũng không còn biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa nên chi khi bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh cũ từ một giấc mơ. Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quãng, để cắt ngang cuối rừng và men theo một bãi đầm lầy. Chỗ này thì chắc chắn là tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều. Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo chân con bé bước vào một căn phòng tối, nơi bà cụ vừa mãn phần. Tôi sững người vì quang cảnh trang trọng, cũng như sự tĩnh lặng, và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng còn trẻ đang quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đã tưởng là cháu bà cụ bước tới cuối phòng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới đứng bên giường. Trên đường tới đây, tôi đã gợi con bé mà chỉ được trả lời vài câu vắn tắt. Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người nhà như tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớì bà cụ, khi được báo tin là bà cụ sắp đi đã sốt sắng sang giúp đỡ và tình nguyện ở lại canh thi hài. Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau đớn gì. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho người mãn phần. Trong miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đã phải tự tay cắt đặt mọi chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm vì phải giao phó căn nhà dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người làm. Đây chỉ là mái tranh xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy, nhưng thật ra tôi cũng không làm gì hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế. Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và tôi nhận ra lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn mặt. Bà giải thích: “Tôi nghe đứa ở kể thì con bé mù này là cháu bà cụ; hình như gia đình chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.” Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con bé ngay trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn lòng. Tôi nhỏ nhẹ nhắc khéo bà nên có chút tế nhị: ... Mời các bạn đón đọc Bản Đàn Thôn Dã của tác giả André Gide.
Bác Sĩ Zhivago
Văn học Nga thế kỷ 20 luôn cuốn hút người đọc bởi những câu chuyện giàu ý nghĩa nhân văn và “Bác sĩ Zhivago” của Boris Pasternak là một tác phẩm như thế. Cuốn sách tái hiện lại lịch sử nước Nga những năm đầu thế kỷ 20 cho đến sau đại chiến thứ hai. Thông qua hình ảnh nhân vật Yury Zhivago cùng Lara Guishar, tác phẩm đã khắc họa số phận bi thảm của những con người trong giai đoạn lịch sử đau thương này. Họ là nạn nhân của chiến tranh nhưng vượt lên trên tất cả khắc nghiệt của cuộc sống, là câu chuyện tình yêu của họ - một mối tình lãng mạn, đẹp đẽ nhưng đầy nước mắt và khổ đau. Bác sĩ Zhivago được Pasternak viết xong vào năm 1956, nhưng do nội dung không thích hợp với đời sống văn học, chính trị Liên Xô lúc bấy giờ, nên cuốn sách đã bị Viện Văn học Moskva và Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt phản đối, các nhà xuất bản ở Liên Xô từ chối xuất bản, còn bản thân Pasternak bị Hội Nhà văn Liên Xô lên án, đả kích. *** Boris Pasternak sinh ngày 10 tháng 2 năm 1890 ở Moskva, cha ông là hoạ sĩ và viện sĩ Leonid Pasternak. Mẹ ông là một nghệ sĩ dương cầm. Năm 1913, ông tốt nghiệp khoa lịch sử và ngôn ngữ trường Đại học Tổng hợp Matcơva, Trước đó, năm 1912, ông nghiên cứu triết học tại Đại học Marburg (Đức). Có một thời gian khoảng 6 năm, ông chú tâm nghiên cứu và sáng tác âm nhạc. Nhưng cuối cùng ông đã đi vào sự nghiệp thơ văn. Nhưng bài thơ đầu tiên của Boris Pasternak xuất bản vào năm 1913. Năm 1917, ông viết một loạt những bài thơ tuyệt diệu được in trong tập "Chị tôi - Cuộc sống", chúng đưa ông lên hàng những nhà thơ lớn nhất nước Nga thời ấy, sau cách mạng tháng Mười, nhà thơ làm việc tại Thư viện Dân uỷ Giáo dục. Trong những năm hai mươi, Pasemak gia nhập nhóm văn học LEP do nhà thơ lớn Maiakovski sáng lập. Đó là thời gian ông viết trường ca "Năm 1905" và "Trung uý Smith" về cuộc cách mạng năm 1905. Năm 1932, Pasternak in tập "Sinh lại" lần thứ hai phản ánh sự biến đổi diễn ra trên nước Nga xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941- 1945, ông làm thông tin viên mặt trận. Ngoài ra, ông còn là một dịch giả lỗi lạc. Ông đã dịch sang tiếng Nga những vở kịch tiêu biểu nhất của Shakespeare; Goethe và thơ của các nhà thơ Gruzia. Tuy nhiên, Boris Pasternak không chỉ là một nhà thơ lớn, trong lĩnh vực văn xuôi, ông cũng có những truyện ngắn được xếp vào loại hay nhất thế giới. Đặc biệt, sau ngày chiến thắng phát xít Đức, ông đã bắt tay viết tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago và hoàn thành vào năm 1955. Năm 1956, Nhà xuất bản Văn học quốc gia Liên Xô ký hợp đồng in tác phẩm này, nhưng việc thực hiện hợp đồng ấy bị nhiều người có thế lực trong giới văn học lúc bấy giờ phản đối. Giữa lúc đó, cuốn tiểu thuyết bỗng được xuất bản tại Ý. Sau đó, ngày 28- 10- 1958, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển tuyên bố tặng giải thưởng Nobel về văn chương cho Boris Pasternak. Nội dung giải thưởng có ghi: "Vì sự đóng góp lớn lao vào nền thi ca trữ tình hiện đại của thế giới cũng như vào lĩnh vực các truyền thống vĩ đại của của các nhà văn xuôi Nga". Nhân việc này bọn phản động đã lợi dụng tên tưổi và tiểu thuyết "Bác sĩ Zhivago" của ông để chống Liên Xô khiến ông bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn Liên Xô, mặc dù lúc đó có những người chân chính không tán thành quyết định sai trái này của Hội. *** Người ta vẫn bước đi, vừa đi vừa hát bài "Cầu hồn", và mỗi khi dừng lại, tựa hồ tiếng bước chân, tiếng vó ngựa, tiếng gió thổi nghe như còn vang vọng nhịp điệu của bài ca. Khách qua đường nhường lối cho đám tang đi qua, họ đếm số vòng hoa, làm dấu thánh. Những kẻ tò mò nhập vào đám tang, họ hỏi: "Đưa ma ai thế?". Họ được nghe trả lời: "Zhivago". "À ra thế. Thảo nào". "Không phải ông ta. Mà là bà vợ". "Cũng vậy cả thôi. Cầu Chúa nhận lấy linh hồn bà ta. Đám ma nhà giàu có khác". Những giây phút cuối cùng, ngắn ngủi, một đi không trở lại đã thoắt qua. "Đất của Chúa, đất thừa hành mọi sự, cả vũ trụ và hết thảy sinh vật sống trên đất". Vị linh mục rắc một nắm đất hình thánh giá trên xác bà Maria Nicôlaepna. Người ta xướng kinh "Cùng với những linh hồn công chính". Bắt đầu cái cảnh vội vã đáng sợ. Người ta đậy nắp quan tài, đóng đinh, hạ huyệt. Rồi từ bốn phía, đất được ném xuống như mưa, rơi lịch bịch, những cái xẻng lấp mộ vội vàng. Nấm mộ đã thành hình. Một cậu bé mưởi tuổi bước lên mộ. Người ta có cảm tưởng cậu bé muốn nói mấy lời trên nấm mộ bà mẹ. Cảm tưởng ấy chỉ có trong trạng thái đờ đẫn ngây dại thường nảy sinh vào giây phút cuối của một đám tang lớn. Đứng trên nấm mộ, cậu bé ngẩng đầu, thờ thẫn nhìn cảnh thu hoang vắng và các vòm mái tròn của tư viện. Khuôn mặt với cái mũi hếch của cậu bé nhăn lại, cổ nghển lên. Ví thử một chú sói con có cử chỉ ngẩng đầu như vậy, hẳn là nó sắp bú. Cậu bé đưa hai tay ôm mặt, khóc nức nở. Một đám mây bay tới mưa nặng hạt quất vào mặt và tay cậu bé như những cây rót ướt lạnh. Một người bận đồ đen, cánh tay áo bó chật và có nhiều nếp, tiến đến bên cậu bé. Đó là Nicolai Vêđeniapin, một linh mục đã tự xin hoàn tục, em của người quá cố và cậu của cậu bé đang khóc. Ông bước tới, dẫn cậu bé ra khỏi nghĩa địa. Đêm ấy hai cậu cháu ngủ trong một tĩnh phòng của tu viện, nơi Nicolai quen biết từ lâu. Mai là ngày vọng lễ Đức Mẹ 1. Hôm sau, hai cậu cháu sẽ phải đi xa xuống phía Nam, đến một tỉnh lỵ ven sông Vônga nơi cha Nicolai làm việc cho một nhà xuất bản ấn hành một tờ báo cấp tiến trong vùng. Vé xe lửa đã mua, đồ đạc đã được chuẩn bị xong xuôi và để sẵn trong phòng. Nhà ga cách tư viện không xa và chốc chốc gió lại mang đến những hồi còi rền rĩ của các đầu máy đang dồn toa ở phía đó. Càng về tối, trời càng rét dữ. Hai cửa sổ thấp sát mặt đất trông ra một góc vườn xấu xí được rào bằng các bụi cây keo vàng, trông ra con đường cái với những vũng nước đọng giá lạnh và cuối cùng là cái góc nghĩa địa, nơi hôm đó người ta vừa mai táng bà Maria Nicôlaepna. Mảnh vườn trơ trụi, ngoài mấy luống bắp cải tím bầm vì lạnh. Mỗi lần gió tạt qua, các bụi keo vàng trụi lá lại chao đảo như điên và nằm rạp xuống mặt đường. Đang đêm cậu bé Yuri thức giấc bởi có tiếng gõ mạnh vào cửa sổ. Một thứ ánh sáng trắng huyền ảo chập chờn rọi vào gian phòng tối, Yuri chỉ mặc áo ngủ, chạy ra cửa sổ, áp mặt vào cửa kính lạnh toát. Bên ngoài không còn thấy cả đường cái, khu nghĩa địa lẫn mảnh vườn nhỏ đâu nữa. Bão tuyết đang hoành hành. Tưởng chừng bão tuyết đã để ý đến Yuri và thấy cậu sợ nó, bão lại càng thích thú về cái ấn tượng nó gây ra nơi cậu. Nó cứ rú rít liên hồi và tìm mọi cách buộc Yuri phải chú tâm đến nó. Từ trên trời tuyết cứ rơi không ngừng hết bông này tiếp bông kia, phủ trắng cả mặt đất như một tấm khăn liệm. Thế gian chỉ có một ưùnh bão tuyết, chẳng có đối thủ nào ganh đua với nó. ... Mời các bạn đón đọc Bác Sĩ Zhivago của tác giả Boris Pasternak.
5 Ngôn Ngữ Tình Yêu: Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình - Gary Chapman
Hơn 15 năm trước, tôi đã viết quyển sách Năm ngôn ngữ tình yêu: cách thể hiện lời cam kết chân thành của bạn với người bạn đời. Sự đón nhận của độc giả đã vượt quá mong đợi của tôi: Tổng cộng 5 triệu bản đã được bán sạch. Mỗi năm, cuốn sách này lại bán được nhiều bản hơn năm trước đó. Đến nay, Năm ngôn ngữ tình yêu đã được dịch sang 42 thứ tiếng khác nhau. Nhiều người đã hỏi tôi về lý do thành công của cuốn sách đó. Câu trả lời duy nhất của tôi là: Nội dung của nó tập trung vào nhu cầu tình cảm sâu sắc nhất của con người - nhu cầu được yêu thương. Đối với những người đã kết hôn, nó mang lại cảm giác thấu hiểu và những công cụ thực tiễn để nuôi sống tình yêu trong gia đình. Hàng ngàn cặp vợ chồng đã nói với tôi rằng ý tưởng của Năm ngôn ngữ tình yêu đã mang lại “một cuộc sống mới” cho hôn nhân của họ. Điều tôi không ngờ đến chính là có rất nhiều người độc thân cũng tìm đọc cuốn sách mà tôi đã viết riêng cho những cặp vợ chồng. Một người đã nói với tôi: “Dù cuốn sách Năm ngôn ngữ tình yêu được viết dành riêng cho các cặp vợ chồng nhưng nó cũng đã giúp tôi rất nhiều trong việc cải thiện những mối quan hệ của mình”. Hay một người độc thân khác đã nói với tôi: “Tôi chưa bao giờ hiểu được người bạn cùng phòng của mình cho đến khi tôi đọc cuốn sách của ông. Ông phải viết một cuốn Năm ngôn ngữ yêu thương dành cho những người độc thân mới được”. Và thế là tôi quyết định hoàn tất cuốn sách này trong sự mong chờ của nhiều người độc thân. Dù đã kết hôn hay còn độc thân, trẻ hay đã già thì tất cả chúng ta đều có nhu cầu quan trọng về tình cảm là được yêu thương. Khi nhu cầu này được đáp ứng, chúng ta sẽ thể hiện trọn vẹn những đức tính tốt đẹp nhất của mình và đạt được nhiều thành quả lớn lao trong cuộc sống. Ngược lại, ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tôi tin tưởng rằng những chân lý trong cuốn sách này sẽ giúp những người độc thân học được các kỹ năng cần thiết trong việc cho và nhận tình yêu. Một điều quan trọng mà bạn cần phải hiểu là cuốn sách bạn đang cầm trên tay không phải là một cuốn Năm ngôn ngữ tình yêu cũ được in lại với bìa mới. Năm ngôn ngữ yêu thương dĩ nhiên là không thay đổi, nhưng trong cuốn sách này chúng ta sẽ tập trung vào đối tượng những người độc thân. Trong hai chương đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu về những người độc thân và tại sao yêu thương lại là yếu tố quan trọng nhất trong các mối quan hệ. Từ chương 3 đến chương 7, chúng ta sẽ tìm hiểu về từng ngôn ngữ tình yêu. Trong chương 8, chúng ta sẽ học cách khám phá ra ngôn ngữ tình yêu của bản thân cũng như cách phát hiện ra ngôn ngữ tình yêu của người khác. Những chương còn lại sẽ giúp bạn biết cách yêu thương và được yêu thương bằng cách sử dụng “năm ngôn ngữ tình yêu”. Trong chương 9, bạn sẽ biết cách áp dụng những nguyên tắc của “năm ngôn ngữ tình yêu” để thấu hiểu cha mẹ, anh chị em cũng như các thành viên còn lại trong gia đình. Chương 10 – 11, chúng ta sẽ khám phá các mối quan hệ hẹn hò, nền tảng của hôn nhân cũng như tầm quan trọng của ngôn ngữ tình yêu đối với việc xây dựng một mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp. Chương 12 sẽ tập trung nói về cách thức truyền đạt tình yêu thương đến bạn chung phòng, bạn học, bạn đồng nghiệp. Chương 13 sẽ mang lại những hướng dẫn thiết thực giúp các bậc cha mẹ đơn thân bộc lộ tình yêu thương của mình với con cái. Cuối cùng, trong chương 14, chúng ta sẽ tập trung nói về tình yêu như một chiếc chìa khóa dẫn đến thành công. Hãy cùng tôi thực hiện cuộc hành trình khám phá cuộc sống của người độc thân - những người đã hiểu ra rằng điều tuyệt vời nhất của cuộc sống chính là cho đi và nhận lại tình yêu một cách đúng đắn. -Gary Chapman *** Nếu bạn chọn đọc cuốn sách này, rất có thể bạn vẫn đang độc thân hoặc quen biết với một người độc thân nào đó. Theo thống kê, hơn bốn trong số mười người Mỹ trưởng thành vẫn còn độc thân – tức là có tới 92 triệu người độc thân trên toàn nước Mỹ* Dĩ nhiên, sẽ không chính xác nếu xếp tất cả người độc thân vào một nhóm. Có ít nhất 5 nhóm người độc thân. Phần lớn trong số này là người chưa từng kết hôn (là đối tượng chính mà cuốn sách này hướng tới). Tuy nhiên, 4 nhóm còn lại cũng cần được quan tâm xứng đáng. Sau đây là 5 nhóm người độc thân đó: 1. Chưa từng kết hôn. Tính riêng ở Mỹ, từ 18 tuổi trở lên, nhóm này bao gồm khoảng 49 triệu người. Độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên, 25 tuổi đối với nữ giới và 27 tuổi đối với nam giới. Cứ mỗi 5 người từ 18 đến 24 tuổi thì có 4 người chưa từng kết hôn (78%). 2. Đã ly hôn. Ngày nay, trên thế giới có 10% người trưởng thành đã từng ly hôn* 3. Ly thân nhưng chưa ly hôn. Đây là những người vẫn chưa chính thức ly hôn nhưng không còn sống chung với nhau nữa. Cuộc sống của họ giống một người độc thân hơn là người đang có gia đình. Tuy nhiên tình trạng ly thân này chỉ là tạm thời. Những người này hoặc sẽ hòa giải với vợ/chồng của mình, hoặc sẽ hợp thức hóa sự chia tay này bằng việc chính thức ly hôn 4. Ở góa. Việc ở góa rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai giới. Cứ 5 người sống độc thân do bạn đời của mình qua đời thì có đến 4 người là phụ nữ. Gần 1/2 những người phụ nữ từ 65 tuổi trở lên là góa phụ, trong khi ở nam giới, con số này chỉ là 14%. 5. Cha mẹ đơn thân. Một trăm năm trước, chỉ có dưới 1% số người trưởng thành là phụ huynh đơn thân của trẻ vị thành niên. Nhưng ngày nay, có đến hơn 12 triệu phụ huynh đơn thân đang chăm sóc ít nhất một trẻ em dưới 18 tuổi – chiếm gần 1/3 tổng số gia đình. Rõ ràng, số lượng phụ huynh đơn thân đã từng ly hôn là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó, số lượng phụ huynh đơn thân chưa từng kết hôn cũng không ngừng gia tăng. Trong số những người mẹ đơn thân thì có đến 40% là chưa từng kết hôn với cha của con mình. Khác biệt nhưng thống nhất Dù thuộc nhiều nhóm khác nhau nhưng giữa những người trưởng thành độc thân vẫn có nhiều điểm tương đồng. Hầu hết họ đều gặp khó khăn trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như đời sống vật chất, đạo đức, các mối quan hệ… Nếu bạn là một người trưởng thành độc thân, tôi nghĩ có thể cũng như nhiều người khác, bạn luôn muốn thấu hiểu bản thân cũng như vị trí của mình trong xã hội. Và nguồn gốc sâu xa của vấn đề này chính là nhu cầu muốn cho đi và nhận lại tình yêu thương. Là một người độc thân, dù thuộc nhóm nào thì bạn cũng muốn được những người quan trọng trong đời mình yêu thương và tin rằng họ cần tình yêu của bạn. Cho đi và nhận lại tình yêu luôn là niềm hạnh phúc của tất cả mọi người, nhất là người trưởng thành độc thân. Một khi cảm nhận được tình yêu thương cũng như vị trí của mình đối với những người xung quanh, bạn sẽ vượt qua được mọi áp lực của cuộc sống. Nhưng nếu thiếu vắng tình yêu, cuộc sống sẽ trở nên thật lạnh lẽo và trống vắng. ... Mời các bạn đón đọc 5 Ngôn Ngữ Tình Yêu: Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình của tác giả Gary Chapman.
Vòng Tay Samurai - Amelie Nothomb
Amélie Nothomb là người Bỉ nhưng sinh ra tại thành phố Kobe, Nhật Bản và sống tại đây 5 năm cùng gia đình. Vòng tay Samurai dành hầu hết trang viết cho những trải nghiệm cuộc sống tình cảm ở Nhật Bản, xứ sở vốn được coi là bí ẩn phương Đông. Vòng tay Samurai" kể về mối tình của Amélie Nothomb với Rinri - một chàng trai Nhật Bản - vị hôn phu Tokyo "chính hiệu". Câu chuyện tình lạ thường này bắt đầu từ mối quan hệ: cô - trò. Bằng cái nhìn tinh tế và bút pháp tự truyện duyên dáng nhưng không kém phần hóm hỉnh, Amélie Nothomb đã tái hiện lại một cách sinh động toàn bộ cuộc sống và con người ở xứ sở Mặt trời mọc dưới những lát cắt thú vị nhất.  Đó là cuộc sống sinh hoạt của một gia đình Tokyo "kiểu mẫu", là những phong tục khi giới thiệu bạn gái, những nét đặc sắc trong ẩm thực, âm nhạc và đặc biệt là sự phức tạp trong ngôn ngữ diễn đạt. Từ những nhầm lẫn trong cách diễn đạt này mà vô tình, "cô giáo" Bỉ trở thành "cô bồ" của cậu trai Nhật Bản, rồi cũng lại bởi bất đồng ngôn ngữ mà cô gái một lần nữa "vô tình" đồng ý lời cầu hôn của chàng trai, để rồi bất đắc dĩ phải thực hiện cuộc chạy trốn khỏi đất nước mà cô yêu quý lẫn tôn sùng. Có thể có một chút tiếc nuối, một chút dằn vặt khi câu chuyện tình trong tác phẩm là dang dở nhưng người đọc có quyền thở phào nhẹ nhõm, có quyền hạnh phúc như niềm hạnh phúc của Amélie trong vòng tay Rinri khi anh nói trong ngày cô trở lại: "Anh muốn ôm em bằng vòng tay bạn hữu của Samurai" "Ta có thể tìm thấy tất thảy trong thiên diễm tình giữa Đông - Tây này..." - Marianne Payot, L'Express. *** Amélie Nothomb xuất hiện trên văn đàn năm 1992 với tiểu thuyết đầu tay Hồ sơ kẻ sát nhân (Hygiene de l'assassin). Danh tiếng một tác giả trẻ tài năng càng được khẳng định vững chắc nhờ với những tác phẩm ngay sau đó là Phá ngầm tình tứ (1993) với các giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Vòng tay Samurai (2007) với Giải thưởng Flore dành cho tác giả trẻ triển vọng... Được mệnh danh là “công chúa” của thế giới xuất bản Pháp, là "con cưng" của giới truyền thông, những tác phẩm của Amélie đã được dịch ra 14 thứ tiếng, cuốn nào khi xuất hiện cũng đều đứng vào hàng best-seller. Báo chí Pháp ca ngợi: “Amélie Nothomb là người có phép màu, biết biến thủy ngân thành vàng, biến một câu chuyện nhẹ nhàng lôi cuốn thành một triết lý nho nhỏ. Cô giúp cho người đọc được tiêu khiển, nhưng cũng bắt họ phải suy nghĩ”. *** Tôi thấy có lẽ cách học tiếng Nhật hiệu quả nhất là đi dạy tiếng Pháp. Vậy nên tôi để lại mẩu tin rao vặt tại siêu thị: “Nhận dạy kèm tiếng Pháp, giá cả hấp dẫn”. Ngay tối hôm đó, điện thoại đổ chuông. Cuộc hẹn được ấn định vào ngày hôm sau, tại một quán cà phê trên đại lộ Omote-Sando. Người gọi có nói tên anh ta, nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, anh cũng không hiểu tên tôi. Lúc bỏ điện thoại xuống, tôi mới chợt nhận ra là cả tôi và anh đều không biết sẽ nhận ra nhau bằng cách nào. Đã vậy, tôi lại không nhanh trí hỏi số điện thoại của anh, thật chẳng biết phải làm sao nữa. “Có thể anh ta sẽ gọi lại cho mình vì lý do đó”, tôi nghĩ vậy. Anh chẳng gọi lại cho tôi. Tôi nhớ giọng anh có vẻ còn trẻ. Điều đó không giúp ích gì nhiều. Vào năm 1989, ở Tokyo không hiếm thanh niên. Huống chi là vào tầm ba giờ chiều ngày 26 tháng Giêng tại quán cà phê trên đại lộ Omote-Sando này. Tôi không phải là người nước ngoài duy nhất, còn rất nhiều người khác nữa. Song anh đi thẳng tới chỗ tôi ngồi mà không hề do dự. - Cô là giáo viên dạy tiếng Pháp phải không? - Sao anh biết? Anh nhún vai. Rồi anh ngồi xuống lưng thẳng đơ và chẳng nói năng gì. Tôi hiểu mình là giáo viên nên phải là người quan tâm tới anh. Tôi hỏi anh vài câu và được biết anh hai mươi tuổi, tên là Rinri và đang học tiếng Pháp ở trường đại học. Anh thì biết tôi hai mươi mốt tuổi, tên là Amélie và đang học tiếng Nhật. Anh không hiểu tôi là người nước nào. Tôi quen với điều này rồi. ... Mời các bạn đón đọc Vòng Tay Samurai của tác giả Amelie Nothomb.