Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Đông Mặt Trời - Julia Gregson

Là chuyến hành trình của nàng Rose đến Ấn Độ để chuẩn bị cho kế hoạch kết hôn với một người đàn ông mà cô không hề quen biết. Đi với Rose còn có Victoria, cô phù dâu, đang tìm kiếm một đấng phu quân. Ngoài ra, một phụ nữ khác đi cùng hai cô gái cũng muốn nhân chuyến đi khám phá Ấn Độ để tìm lại tuổi thơ của mình. *** "Ấm áp, quyến rũ, đầy thuyết phục và không thể buông tay một khi quyết định đọc Phía Đông mặt trời." (NHS Magazine) "Một cuốn tiểu thuyết đầy màu sắc với bối cảnh diễn ra tại Ấn Độ trong những năm cuối thập niên 1920 tác động đến tất cả (các tuyến nhân vật), những câu chuyện được kể một cách hoàn hảo, không thể dự đoán." (The Times) *** London, tháng chín năm 1928 Phụ nữ, có trách nhiệm, hai mươi tám tuổi, yêu trẻ em, có kiến thức về Ấn Độ, nhận làm bảo mẫu trong chuyến đi từ Tilbury tới Bombay với thù lao thanh toán bằng một nửa chi phí cho lộ trình. Điều kỳ diệu cuối cùng cũng đã đến với Viva Holloway, sau khi cô phải mất ba đồng sáu xu trả cho mẩu quảng cáo của mình trên ấn bản tháng Chín của tờ Quý cô. Năm ngày sau, Viva có mặt tại một nhà hàng ở Derry & Toms, nội đô thành London, chờ đợi cuộc hẹn với khách hàng đầu tiên của mình, quý bà Jonti Sowerby đến từ Middle Wallop, Hampshire. Thay vì mặc bộ váy bằng lụa may mắn tìm được trong một lần dạo chợ mua bán đồ cũ từ thiện, Viva đến với cuộc hẹn phỏng vấn trong bộ dạng của một người đánh máy thuê, công việc cô đang nhận làm tạm thời dăm bữa nửa tháng, cô ghét cay ghét đắng bộ âu phục được may từ thứ vải len xù xì xám xịt đang khoác trên người. Mái tóc dày đen nhánh thường ngày vẫn rủ từng lọn hoang dại buông hờ xuống bờ vai giờ được Viva buộc túm lên thành búi ẩm ướt thắt chặt trên đầu. Cô bước vào phòng trà được trang hoàng lộng lẫy tràn ngập những tiếng rì rầm cười nói, xen lẫn giữa những tiếng ồn ào là giai điệu rời rạc của người nghệ sĩ đang nhấn nhá từng phím trên chiếc dương cầm đặt trong góc phòng. Một người phụ nữ nhỏ nhắn, mảnh dẻ, trên đầu đội một chiếc mũ màu xanh khá đặc biệt (nom hệt như một chiếc lồng kín đặc được trang trí bằng những sợi lông chim tua tủa đâm ngược ra sau) nhanh nhẹn đứng dậy vẫy chào Viva. Ngồi sát bên cạnh bà ta là một cô gái khá bụ bẫm, im thin thít từ giây phút đầu tiên, tên cô, Victoria, con gái của Sowerby. Một tách cà phê được mang ra, nhưng khá nhạt, không có bánh ngọt đi kèm. Từ sáng đến giờ Viva vẫn chưa có chút gì bỏ bụng, ánh mắt cô liếc nhanh về phía chiếc bánh ngọt được trang trí bằng những hạt óc chó nom khá ngon miệng nằm im lìm trong tủ kính phía dưới quầy hàng. “Trông cô ta mới kinh khủng làm sao”, bà Sowerby lập tức quay sang than vãn với cô con gái, như thể không hề nhận thấy một Viva bằng xương bằng thịt đang ngồi ngay trước mắt. “Mẹ”, Victoria phản đối, giọng cô gái trẻ khá lạ, và khi bắt gặp ánh mắt cô gái ngước lên nhìn mình, Viva chợt nhận ra Victoria sở hữu một đôi mắt tuyệt đẹp: to tròn, sâu hun hút và xanh thẳm thẳm như những đóa xa cúc lam. Tôi xin lỗi vì đã không thể ngăn những lời bà ấy vừa thốt ra, hai đóa xa cúc lam như muốn nói với Viva như thế. Cuối cùng thì Sowerby cũng chịu đi thẳng vào vấn đề, bằng chất giọng khô khan, hướng về Viva, bà tóm tắt vấn đề của họ, rằng Victoria chuẩn bị sang Ấn Độ để làm phù dâu cho cô bạn gái thân nhất của mình, Rose, con bé, theo như những gì bà Sowerby kể lại bằng chất giọng lè nhè đầy ắp sự khoe khoang, “đang chuẩn bị đính hôn với đại úy Jack Chandler thuộc trung đoàn kỵ binh số 3 tại nhà thờ thánh Thomas ở thành phố Bombay”. Người bảo mẫu họ thuê trước đây, bà Moylett, đã quyết định từ chối không đi cùng vào phút chót - nguyên nhân từ chối, theo như những gì Sowerby kể lại, là bởi bà Moylett đột nhiên được một quý ông già cả thuê mướn làm bảo mẫu cho gia đình ông ta. Viva đặt tách cà phê xuống bàn, trong mắt người đàn bà đứng tuổi trước mặt, cô như một thứ gì đấy được gọi tên bằng hai tiếng tuyệt vọng, gánh trên vai niềm khao khát không thể che đậy về mong muốn những khó khăn của mình sẽ nhanh chóng được bà ta giải quyết. “Tôi khá hiểu Bombay”, cuối cùng Viva cũng lên tiếng, chỉ dựa vào một sự thật duy nhất: tròn mười tám tháng, cô từng nằm ngửa trên cánh tay mẹ mình để cùng bà bước dọc thành phố Bombay; vài năm sau, khi Viva tròn năm tuổi, một lần nữa cô có mặt trên bãi biển, ngon lành mút que kem mát lạnh ngọt lịm dưới nắng trời Bombay, và lần cuối cùng, ấy là khi cô lên mười, bàn chân Viva lại chạm vào Bombay, kể từ đấy, chưa một lần cô quay lại thành phố này. “Chắc chắn Victoria sẽ được trông nom cẩn thận”. Cô gái hướng ánh mắt đầy ắp hy vọng vào Viva. “Chị có thể gọi tôi là Tor nếu thích”, Victoria nhẹ nhàng. “Các bạn đều gọi tôi bằng tên ấy”. Khi người bồi bàn đến bên cạnh, bà Sowerby bắt đầu cao giọng phàn nàn về đồ uống, rồi yêu cầu một chút nước thuốc hãm thay cho thứ “trà Anh tầm thường”. “Một nửa máu trong người tôi thuộc về nước Pháp”, bà giải thích, không quên bĩu môi như để chứng minh cho điều mình vừa nói. “Cô biết gì về những chiếc rương đựng hành lý khổ lớn?”. Bà Sowerby vừa nói vừa kiểm tra một chiếc răng của mình bằng chiếc gương nhỏ xíu gắn trên mặt trong của hộp phấn bỏ túi. “Đấy là một trong những điều bà Moylett đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ chúng tôi”. Đến lúc này thì phép màu thực sự xảy ra với Viva: một tuần trước, khi cô sục sạo nghiền ngẫm đến nát tờ Người tiên phong với hy vọng tìm được một công việc thích hợp, tình cờ cô đã đọc được mẩu quảng cáo của một người thợ may tên Ram về vấn đề bà Sowerby đang quan tâm. Viva bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt bà Sowerby. “Sản phẩm của hãng Viceroy là tốt nhất”, cô nói. “Mặt trong chúng được viền thép trước khi bọc vải bạt bên ngoài. Bà có thể tìm mua tại cửa hàng Quân trang và quân dụng. Tôi không nhớ chính xác giá thành của loại rương này nhưng tôi đoán khoảng hai mươi lăm si-ling một chiếc”. Không gian bên trong nhà hàng đột nhiên xao động. Tiếng leng keng lách tách của dao nĩa thìa ly chạm vào nhau đột nhiên im bặt. Một quý bà xinh đẹp, khá quyến rũ trong bộ váy áo nhạt màu chậm rãi bước vào, miệng khẽ nhoẻn cười khi tiến về phía bàn bà Sowerby. “Xin giới thiệu, đây là bà Wetherby”. Tor tươi cười đứng dậy ôm hôn chào đón người phụ nữ xinh đẹp vừa bước vào. “Cô ngồi xuống đây”, Tor nom hoạt bát hẳn lên, vỗ nhẹ vào chiếc ghế bên cạnh chỗ cô ngồi. “Cháu và mẹ đang nói với nhau về công việc, kinh khủng, những chủ đề tẻ nhạt”. “Phải đấy, Victoria”. Bà Sowerby xen vào, “bé giọng thôi, không cả cái nhà hàng này nghe hết chuyện của chúng ta đấy”. Rồi bà quay sang Viva. “Bà Wetherby đây là mẹ của Rose, con bé sắp đính hôn với ngài đại úy Chandler ở Ấn Độ ấy. Con bé xinh đến nao lòng”. “Tôi không thể chờ đến lúc được gặp bạn ấy”. Tor đột nhiên hào hứng, khuôn mặt cô bừng lên rạng rỡ. “Rose rất vui tính, một người bạn hoàn hảo, bất kể ai tiếp xúc với Rose đều yêu quý bạn ấy - bọn tôi chơi với nhau từ hồi còn để chỏm, đến trường cùng nhau, cưỡi chung những chú ngựa Pony xinh xắn...”. Viva bỗng thấy cơn đau nhói lên trong lồng ngực, những cảm xúc thân quen chợt ùa về - những kỷ niệm không bao giờ quên về những người bạn thân thiết từ thời thơ ấu. “Victoria”, bà Sowerby mắng khẽ cô con gái. Những chiếc lông chim xanh thẫm cắm trên mũ rủ xuống im lìm ngang chân mày khiến bà trông giống như một chú chim bé bỏng đang bị kẻ khác làm mếch lòng. “Mẹ không chắc chúng ta phải kể cho cô Holloway đây nghe mọi chuyện. Chúng ta vẫn chưa quyết định, đúng không nào? Hơn nữa, Rose yêu quý của chúng ta đang ở đâu?”. “Tại tư gia của bác sĩ”. Giọng bà Wetherby trở nên lúng túng. “Cháu biết đấy...”. Nhấp một ngụm cà phê, Wetherby trao đổi với bà Sowerby một ánh nhìn thoáng qua, như ra dấu. “Hai mẹ con cô đã có cả một buổi sáng tuyệt vời nhất bên nhau từ trước đến nay trước khi cô để con bé rời khỏi xe”, giọng bà Wetherby nhẹ như thở. Bọn cô cùng đi mua quần áo, vợt tennis, một giờ sau cô gặp lại Rose tại Beauchamp, con bé chuẩn bị sắp xếp đồ đạc đưa về nhà chồng. Cuộc đời tẻ nhạt của con bé cuối cùng cũng hoàn toàn chấm dứt sau đêm nay. Cô không nghĩ mình có thể mua được nhiều áo quần đến thế chỉ trong một ngày. Giờ thì, cô gái xinh xắn này là ai vậy?”. Lập tức Viva được giới thiệu với bà Wetherby như một “bảo mẫu chuyên nghiệp”. Wetherby mỉm cười, điệu đà đặt một tay lên vai Viva, vui vẻ chào hỏi cô bằng tất cả niềm hứng khởi có trong người bà. “Tôi vừa mới phỏng vấn cô ta xong”, bà Sowerby nhanh nhảu nói với Wetherby. “Cô ta hiểu rõ Ấn Độ như lòng bàn tay, không chỉ có thế, cô ta còn biết khá rõ mọi vấn đề liên quan đến rương hòm hàng hóa - cô ta bảo sản phẩm của Viceroy là tốt nhất”. “Các cô gái bao giờ cũng nhạy cảm”, giọng bà Wetherby đột nhiên đượm mùi âu lo. “Chúng chỉ cảm thấy an tâm khi có ai đấy theo cùng và để mắt đến mọi chuyện”. “Nhưng tôi e là chúng tôi chỉ có thể trả cô năm mươi pao cho việc trông nom cả hai con bé”, giọng bà Sowerby chắc nịch, “không thêm không bớt một xu nào nữa”. Viva nhanh chóng lẩm nhẩm vài phép tính trong đầu, giá vé một chiều từ London đi Bombay là tám pao. Cô đã để dành được một trăm hai mươi pao, chắc chắn cô sẽ cần nhiều tiền hơn khi đặt chân đến Bombay. “Nghe có vẻ hợp lý”, Viva thản nhiên trả lời, cố giữ giọng thật nhẹ nhàng như thể những lời mình vừa thốt ra chỉ là những thứ quen thuộc vẫn xảy ra mỗi ngày. Tor thở phào, rối rít. “Ơn Chúa!”. Cô gái không giấu giếm niềm hân hoan. “Tuyệt thật đấy!”. Viva bắt tay chào tạm biệt ba người đàn bà trước mặt, nhanh nhẹn rời khỏi nhà hàng bằng những bước dài hoan hỷ; những điều sắp tới mới thật sự là một miếng bánh ngọt ngào: một con bé nhút nhát với cặp mắt xanh biếc, cùng một bà mẹ nom rõ ngớ ngẩn rõ ràng đang trong cơn tuyệt vọng; bạn gái của con bé, Rose, chuẩn bị kết hôn và không còn lựa chọn nào khác. Cuộc hẹn tiếp theo diễn ra tại khách sạn Hải quân, tại đây Viva sẽ gặp gỡ bà Bannister cho những nhiệm vụ sắp tới: bảo mẫu cho một nam sinh đến gặp bố mẹ cậu bé đang sinh sống ở Assam. Cô quờ tay vào túi xách tìm mẩu giấy ghi cuộc hẹn. Tên cậu bé, Guy Glover. Ít phút sau Viva đã đối mặt với bà Bannister, một quý bà mặt mũi lúc nào cũng cau có, hai hàm răng sin sít, có vẻ là một người khá nóng nảy. Chắc phải ngoài bốn mươi, Viva thầm đoán, mặc dù chưa bao giờ cô được xem là người chính xác trong trò đoán tuổi người đối diện. Bà Bannister gọi hai tách trà ấm, không bánh ngọt, không cả bánh qui đi kèm. Bannister nhanh chóng đi thẳng vào vấn đề, bởi theo như lời bà ta nói, thì đúng ba giờ rưỡi bà phải bắt chuyến tàu trở về Shrewsbury. Anh trai của bà ta, chủ đồn điền chè xanh ở Assam, và vợ của ông ấy, Gwen, đang rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Con trai của họ, Guy, đứa con duy nhất, đột ngột nhận được yêu cầu rời khỏi trường học. Thằng bé chỉ mới mười sáu tuổi. “Thằng bé khá khó tính, nhưng như tôi đã nói, ẩn sau vẻ khó tính ấy là một đứa trẻ cực kỳ tốt bụng”, bà cô của khách hàng trấn an Viva. “Nó đã theo học tại trường thánh Christopher suốt mười năm nay và chưa một lần quay trở lại Ấn Độ. Vì một số lý do khác nhau, tôi không có thời gian để giải thích với cô tại sao chúng tôi lại không thể tiếp tục chăm sóc thằng bé ở đây mặc dù chúng tôi rất muốn điều đấy. Nhưng sau tất cả, bố mẹ Guy đã quyết định sẽ tốt hơn cho nó khi ở Ấn Độ. Nếu cô chăm nom nó cẩn thận, họ sẽ thanh toán toàn bộ chi phí cho chuyến đi của cô”. Viva có cảm giác khuôn mặt cô lúc này đang đờ đẫn vì vui sướng trước những lời bà Bannister vừa thốt ra. Nếu toàn bộ chi phí chuyến đi lần này được bố mẹ cậu bé thanh toán, cô sẽ giữ được nguyên vẹn năm mươi pao của bà Sowerby, cô có thể dùng nó để trang trải cho một kỳ nghỉ xả hơi ở Ấn Độ, ơn Chúa vì điều đó. Phấn khích với viễn cảnh trước mắt, thậm chí trong đầu của Viva lúc này không mảy may một chút nghi ngờ tại sao một thiếu niên ở tuổi mười sáu lại không thể tự mình thực hiện được một cuộc hành trình không lấy gì làm khó khăn, hay chí ít, cô không hề thắc mắc tại sao bố mẹ của cậu bé, ông bà Glover, lại không thể quay về nước Anh để đón đứa con trai duy nhất của hai người. “Tôi gửi cô bản đồ trường học của Guy và một khoản tiền tạm ứng trước”, Bannister nhanh nhảu. “Cảm ơn cô đã nhận lời”. Bà nhanh chóng kết thúc mọi thủ tục và đứng dậy. Nhìn điệu bộ vội vàng đến hấp tấp của Bannister khi rời khỏi nhà hàng bước đến bên cạnh xe taxi, chiếc áo choàng mưa của bà ta khẽ phập phồng phần phật sau lưng theo chiều gió, Viva chợt bùng lên nỗi áy náy, cô tự hỏi tại sao người ta lại có thể dễ dàng bị lừa dối đến thế, đặc biệt là khi họ đang muốn nghe về điều mình đang nóng lòng chờ đợi. Viva không phải hai mươi tám tuổi như lời cô nói với các khách hàng, cô chỉ mới hai lăm, và Ấn Độ trong cô chỉ là một chấm nhỏ ký ức mơ hồ xa xôi từ những ngày còn thơ ấu, bao nhiêu năm đã trôi qua, ngần ấy lần vật đổi sao dời. Những gì Viva biết về Ấn Độ lúc này có lẽ giống như những gì cô biết về một nơi xa xôi nào đấy nằm trong lòng mặt trăng vẫn treo trên đầu London bao nhiêu năm qua. ... Mời các bạn đón đọc Phía Đông Mặt Trời của tác giả Julia Gregson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Trống Thiếc
Cuốn tiếu thuyết này ra đời năm 1959 là một cú sốc về thi pháp, với bút pháp vừa hoạt bát phóng túng vừa đầy ắp liên tưởng, cuồn cuộn những sóng chữ trái tai, chói màu. Tác giả đã hoà trộn các cấp độ ngôn ngữ (từ phong cách kinh thánh đến cách nói bình dân) với dung lượng kịch tính và tượng trưng cực đại. Nhưng đằng sau cái giỡn cợt, bao giờ cũng là một chân lý cay đắng. Điểm mạnh của Cái trống thiếc theo tôi là ở tính hòa sắc kỳ ảo trong văn chương với nhiều yếu tố bất ngờ. Với giới cầm bút nước ta, đây là một gợi ý rất lớn cho việc tiếp cận, mổ xẻ và chuyển hóa hiện thực. Tuy nhiên, với bạn đọc Việt Nam, tôi e sách sẽ bị coi là hơi khó đọc, nhưng nếu đọc được, chắc chắn các bạn sẽ thích. Có hai cuốn sách tôi đọc khi trưởng thành khiến tôi sút hai cân là Tội ác và trừng phạt (1982) và mới đây nhất là Cái trống thiếc. Thật lý thú là sau khi người ta đã chán nản nhiều sự, chán đến cả văn của mình mà rồi còn bị hấp dẫn đến mức đọc mấy đêm liền tù tì một cuốn sách gây sốc bởi có cảm giác bản thân bị bới móc và sỉ nhục. Xin trước hết nói rõ hơn khái niệm nhúc nhích. Văn chương từ Homerre tới giờ nói chung không tiến được mấy độ đường, nó khác hẳn với văn minh. Thậm chí tuyến tính không có mấy vai trò ở chỗ này. Và giữa những đỉnh khác nhau, ví như anh hùng ca Odisse với sử thi M’Nông Tây Nguyên mới phát hiện chẳng hạn, là thung lũng của những nhà văn thời vụ với rất nhiều tài năng và ảo tưởng làm nền. Nếu ta xếp các đỉnh đó theo lịch trình văn chương, ta sẽ vừa có cảm giác không hề có sự dịch chuyển lại vừa thấy rất khác. Tôi tạm gọi tính chất nhùng nhằng ấy là sự nhúc nhích trong khi chờ một hình dung từ đúng hơn. *** Günter Wilhelm Grass (16 tháng 10 năm 1927 - 13 tháng 4 năm 2015) là một nhà văn người Đức đoạt Giải Nobel Văn học năm 1999. Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1927 ở Danzig-Langfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Sinh ra trong một gia đình có cha mẹ làm nghề buôn bán nhỏ, thành phố quê hương ông cũng như những ngày thơ ấu sống ở đây đã là cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai ông đã tình nguyện đăng ký tòng quân cho quân đội Đức Quốc xã khi 15 tuổi. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1944, khi 17 tuổi, ông được gọi vào sư đoàn tăng SS số 10 "Frundsberg" của Waffen-SS Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 ông bị bắt làm tù binh tại Marienbad và đã ở trong trại giam tù binh cho đến ngày 24 tháng 4 năm 1946. Khi bị bắt giam Grass đã tự nhận với người Mỹ rằng ông là thành viên của Waffen-SS. Thế nhưng mãi đến tháng 8 năm 2006 ông mới công khai thừa nhận việc này. Trước đó, trong các tiểu sử đã được công bố của nhà văn, ông chỉ là thiếu niên phụ giúp cho lực lượng phòng không trong năm 1944 và sau đó được gọi đi lính. *** Chỉ đến khi trở thành kẻ đi thuê lại phòng Oskar mới học được nghệ thuật trở ngược lại quá khứ bằng cách đánh trống. Giúp tôi trong việc này, không phải chỉ là căn phòng, mà còn có Con Nhím, cái kho chứa quan tài trong sân và xừ Münzer - đó là chưa kể Xơ Dorothea. Quý vị có biết tích Parsifal không? Tôi cũng không thuộc lắm. Tôi chỉ nhớ nhất câu chuyện về ba giọt máu trên tuyết. Chuyện này chắc có thật vì nó giống chuyện tôi như đúc. Mà có lẽ đó là chuyện của bất kỳ ai có một ý tuồng. Tôi vẫn còn là một tên đầy tớ của nghệ thuật. Tôi để cho người ta vẽ tôi xahh lơ, xanh ve và theo các sắc độ của đất; tôi để người ta ký họa tôi bằng chì than và đặt trước nhiều bối cảnh; cùng với Ulla, tôi đem lại cảm hứng cho Trường Mỹ thuật trong suốt học kỳ đông cũng như học kỳ hè tiếp theo, nhưng tuyết đã rơi để nhận ba giọt máu và vừa nhìn thấy ba giọt máu ấy, Oskar liền biến thành đá như anh chàng điên Parsifal mà Oskar biết rất lơ mơ nên chẳng cần phải cố gắng lắm cũng có thể đồng nhất được với anh ta. Hình ảnh tôi phác ra tuy vụng về nhưng, theo tôi nghĩ, khá rõ ràng. Này nhé: tuyết là bộ đồng phục nữ y tá; chữ thập đỏ mà phần lớn các nữ y tá đều mang ở giữa cái kẹp hoa cài cổ áo, đối với tôi, là ba giọt máu. Tôi ngồi đó, hút hồn, mắt nhìn trân trân. Nhưng trước khi tôi có thể ngồi trong căn phòng trước kia là buồng tắm của căn hộ Zeidler, tôi phải săn tìm phòng để thuê đã. Học kỳ đông sắp hết; một số sinh viên không định quay trở lại sau đợt nghỉ lễ Phục sinh, sẽ giả phòng trọ. Người cộng sự của tôi, Nàng Thơ Ulla, đã giúp tôi đắc lực. Nàng đưa tôi đến văn phòng quản lý nhà ở cho sinh viên, tại đó, người ta cho tôi một số địa chỉ kèm theoo một giấy giới thiệu của Trường Đại học Mỹ thuật. Trước khi đi xem các phòng cho thuê, tôi đến thăm ông thợ đẽo đá Korneff tại xưởng của ông ở Bittweg. Đã lâu tôi không gặp ông. Tôi đến vì quý mến ông, nhưng cũng để kiếm chút việc làm trong đợt nghỉ nữa. Tôi có một số giờ ngồi mẫu tư - một mình hoặc cùng với Ulla - nhưng chừng nấy khó mà đủ để nuôi tôi trong thời gian sáu tuần, với lại, tôi còn phải kiếm thêm để trả tiền thuê phòng nữa. Tôi thấy Korneff vẫn như xưa, chả thay đổi gì - một cái nhọt chưa chín và hai cái sắp khỏi, ông đang cúi trên một khối đá gra-nít Bỉ mà ông đã đẽo thô và giờ đang bắt vào mài nhẵn. Chúng tôi nói chuyện một lúc; tôi bắt đầu mân mê mấy cái đục khắc chữ ra cách gợi ý và nhìn quanh xem có tấm đá nào đã được cắt gọt và mài nhẵn chờ được khắc chữ. Có hai tấm, một bằng đá vôi điệp, một bằng cẩm thạch Silesia, có vẻ như đã được bán và đang chờ một chuyên gia khắc chữ. Tôi chúc mừng Korneff đã vượt qua được thời kỳ khó khăn sau cải cách tiền tệ. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ đó, chúng tôi cũng đã tìm được an ủi trong ý nghĩ Tà: một cuộc cải cách tiền tệ, dù có mạnh mẽ, thiết yếu và lạc quan đến đâu chăng nữa, cũng không thể ngăn người ta chết và đặt bia mộ. Tiên đoán của chúng tôi đã ứng nghiệm. Thiên hạ tiếp tục chết và tiếp tục đặt bia. Ngoài ra, cuộc cải cách tiền tệ còn mang đến những "com-măng" trước đây chưa từng có: nhiều chủ hàng thịt đặt lát mặt trước và đôi khi cả bên trong cửa hàng bằng cẩm thạch trang trí; một số ngân hàng và cửa hàng bảch hóa tổng hợp, để lấy lại uy tín, buộc phải sửa sang và trang tri lại những mặt tiền bằng đá cát kết và tufa bị hư hại trong chiến tranh. Tôi khen Korneff cần mẫn xoay sở và hỏi ông có thể một mình đảm đương tất cả công việc không. Mới đầu, ông trả lời qua quít, sau rồi ông thừa nhận rằng đôi lúc ông cũng ước có bốn tay thợ và cuối cùng, ông đề nghị tôi đến làm việc với ông nửa thời gian, giá cả như sau: khắc chỉm trên đá vôi, bốn lăm pfennig/chữ cái, trên gra-nít và đi-o-rít, năm lăm pfennig/chữ cái, còn khắc nổi thì có thể từ sáu mươi đến bảy lăm. Tôi mần luôn một tấm đá vôi điệp. Nhanh chóng lấy lại được ngón nghề, tôi khắc: Aloys KLifer, 3 tháng 9 năm 1887 -16 tháng 6 năm 1946. Tôi đã khắc xong ba mươi chín chữ cái và con số trong đúng ba giờ và được trả mười bảy mark năm lăm pfennig. Chừng nấy là hơn một phần ba số tiền thuê phòng hằng tháng mà tôi ước tính mình có thể kham nổi. Tôi quyết định chi vào khoản này không quá bốn mươi mark vì Oskar vẫn cảm thấy có bổn phận phải đóng góp vào ngân sách gia đình ở Bilk. Văn phòng quản lý nhà ở đã có nhã ý cho tôi bốn địa chỉ. Lựa chọn đầu tiên của tôi là Zeidler, số 7 phố Jiilicher-strasse vì chỗ đó gần Trường. Đầu tháng năm, vào một ngày ấm áp lãng đãng sương mù, điển hình của vùng hạ Rhine, tôi xuất hành với kha khá tiền mặt trong túi. Maria đã là bộ com-lê nên nom tôi cũng bảnh. Mặt tiền trát vữa xtuých-cô long lở, trước cửa là một cây hạt dẻ bụi bám đầy. Vì phố Julicher-strasse đã đổ nát đến một nửa, nên khỏi phải nói đến nhà bên cạnh hoặc đối diện, ở bên trái là một đống gạch vụn um tùm cỏ và bồ công anh, đây đó lòi ra những dầm sắt hình chữ T, khiến ta có thể đoán ở đây đã từng có một ngôi nhà bốn tầng. Bên phải, một ngôi nhà bị phá huỷ một phần nay đã được sửa đến tầng ba, nhưng vẻ như vốn xây dựng đã cạn; mặt tiền bằng gra-nít đen Thuỵ Điển mài bóng bị nứt rạn nhiều chỗ, cần chữa khẩn cấp. Dòng tên "Schornemann, Hãng Mai Táng" thiếu nhiều chữ cái, tôi không nhớ là những chữ gì. Cũng may, hai cành cọ khắc trên mặt đá gra-nít nhẵn như gương vẫn còn nguyên vẹn, góp phần giữ cho cửa hàng một vẻ tôn nghiêm khả kính nào đó. ... Mời các bạn đón đọc Cái Trống Thiếc của tác giả Gunter Grass.
Bóng Hình - Danielle Steel
Truyện Bóng Hình, trong lòng mỗi người đều có một cái bóng trong mình, mỗi khi cô đơn thì cái bóng đó đều xuất hiện đều an ủi cho nhau, dạng như một một loại tâm thần phân liệt. Bản thân chịu một sự đả kích rất lớn hoặc chuyện đó liên quan tới một vấn đề nào đó khiến đối phương đều không thể kìm chế bản thân thì tự khắc sẽ nảy sinh ra ảo giác đó chính là dấu hiệu nói chuyện một mình hay tự mình làm gì đó nhưng khi tỉnh lại thì không nhớ gì hết. Bóng hình trong lòng mỗi người đều có nhưng chúng ta phải biết cân bằng tâm trí như thế nao thì ới không xảy ra hiện tượng đó. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Cả buổi chiều Olivia sống trong tâm trạng buồn nản. Cô hoang mang đi hết buồng này sang buồng khác không biết nên làm gì. Con tàu Lusitania giờ này chắc đã lênh đênh ngoài khơi, mang theo em gái cô càng lúc càng xa mãi. Olivia vừa mong Geoffrey và Charles mau mau trở về để phá tan sự cô quạnh này lại vừa e sợ đến giờ phút đó. Thiếu người em sinh đôi, cô cảm thấy mình thật lạc lõng. Suốt thời gian sau khi nghỉ trăng mật về, Victoria luôn ủ rũ mệt mỏi. Giờ đây Victoria đã được bay tới nơi mà cô ấy tin là phương trời tự do, để lại mình Olivia với nỗi lo lắng khôn nguôi. Ngay khi nào Charles và Geoffrey về nhà, Olivia sẽ phải là người thế Victoria, sống cuộc sống của Victoria. Giống như 1 diễn viên lần đầu tiên chuẩn bị ra sân khấu, Olivia muốn chết vì sợ. Cô đã chuẩn bị sẵn 1 bức thư gửi cho Charles, 1 cho cha cô và cả 1 bức viết cho chính mình. Trong thư cô hứa khi trở lại sẽ giải thích về cuộc bỏ trốn tới California này và thay cho chuyến tàu đi Liverpool cô nói dối rằng sẽ đáp xe lửa đi Chicago chiều nay. Lúc Charles về, Olivia đã lấy lại bình tĩnh. Cô đã sẵn sàng cho vai diễn của mình. Charles bước vào phòng, nhìn qua gương mặt Olivia anh thấy ngay có điều khủng khiếp đã xảy ra. Quên hẳn cuộc cãi vã giữa 2 vợ chồng, anh gần như lao đến bên cô. - Victoria, chuyện gì vậy? Em ốm ư? Olivia xanh nhợt như tàu lá buông mình xuống ghế, biểu lộ 1 nỗi tuyệt vọng khủng khiếp. - Là Olivia... Anh chờ cô nói tiếp, hẳn không phải Olivia bị tai nạn, anh tự nhủ, vì nếu vậy Victoria đã phải ở bên cô ấy trong bệnh viện. -... Chị ấy đi rồi. - Đi đâu, Croton ư? Có vậy thôi sao? – Charles ngơ ngác. Nhưng rõ ràng Victoria – hay đúng hơn là cô gái mà Charles nghĩ là Victoria – trông kiệt quệ như vừa mất đi 1 người thân trong gia đình. - Em và cô ấy cãi nhau à? Thời gian gần đây, cô ấy gây lộn với tất cả mọi người, kể cả chị gái mình. Olivia lắc đầu. Cô chẳng khó khăn gì để tỏ ra buồn thảm đến thế. Trên thực tế, sự ra đi của Victoria đã nhấn chìm cô trong biển u sầu. Làm sao cô phải nghĩ ra và tìm cách diễn ra nỗi đau mà chính cô đang phải chịu đựng? Cô đưa Charles lá thư đã chuẩn bị sẵn từ trước, để gửi cho Victoria. Không ai có thể phân biệt được chữ viết của 2 cô, kể cả Bertie. Lá thư giải thích thật đơn giản rằng mặc dù trái tim Olivia tan nát khi làm điều này, nhưng có đã quyết định sống cách biệt 1 thời gian để suy nghĩ về cuộc đời mình. Từ khi Victoria đi lấy chồng, cô cảm thấy tuyệt vọng, mất phương hướng. Sự tồn tại ở Croton, sự cô độc, sự trống vắng đè nặng lên cô. Và kết quả, cô đã chọn cách ra đi như 1 sự giải thoát, mong rằng thời gian sẽ giải tỏa nỗi trầm uất của mình. Thậm chí cô còn nói có thể cô sẽ sống mốt phần đời còn lại trong 1 tu viện và sẽ không bao giờ lấy chồng. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Hình của tác giả Danielle Steel.
Bia Mộ Đen - Erich Maria Remarque
Chơi vơi giữa dòng xoáy cuộc đời khi mà những điều khủng khiếp của chiến tranh vẫn còn ám ảnh, Ludwig Bodmer lựa chọn cách đối mặt bằng thái độ hài hước và bất cần. Tuy nhiên, bên trong anh lại là trái tim của một nhà thơ, với tâm hồn nồng nàn và lãng mạn, đang đấu tranh với thời cuộc và với chính mình để tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống mà anh đang và muốn sống. Lấy bối cảnh thành phố quê nhà của Remarque giữa hai cuộc thế chiến, Bia mộ đên mang nhiều tính chất tự truyện và đậm màu sắc triết lý trào phúng. Như chính tác giả từng viết, đây là “câu chuyện về tuổi trẻ trễ tràng”, về một thế hệ vỡ mộng, miệt mài đi tìm lời đáp cho những câu hỏi quan trọng mà nhân loại đã dần dần quên lãng. Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Tôi không hề gặp lại một người nào nữa hết. Nhiều lần, tôi có ý định trở về nhưng lần nào cũng bị ngăn chận. Tôi nghĩ là sẽ có một thời gian nào đó thuận tiện hơn nhưng bây giờ thì đã hết rồi. Bóng tối đã phủ trùm lên nước Đức, tôi đã mất quê hương và lúc trở về, tôi chỉ còn thấy những điêu tàn. Georges đã chết. Mụ Konersmann sau bao nhiêu công trình dọ dẫm đã khám phá ra được cuộc tình vụng trộm của Lisa và Georges. Năm 1933, mười năm sau, mụ ta tố cáo với Watzek lúc bấy giờ là chỉ huy trưởng đội S.A. Mặc dầu đã ly dị Lisa tới năm năm, Watzek vẫn cứ nhốt tình địch vào trại tập trung của hắn. Vài tháng sau, Georges chết. Hans Hungermann, ủy viên văn hóa và là Đảng viên cao cấp đã ca tụng Đảng Quốc xã bằng một loạt thơ nóng bỏng. Năm 1945, hắn mất chỗ hiệu trưởng. Tuy nhiên, cũng như một số đảng viên khác, hắn sống một cách khá đầy đủ tiện nghi khỏi phải đi làm, nhờ có tiền hồi hưu. Nhà điêu khắc Kurt Bach sống luôn sáu năm trong một trại tập trung và trở về què quặt. Hiện nay, mười năm sau cuộc thảm bại, hắn vẫn phải vất vả để nuôi miệng cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của chiến tranh. Hắn chỉ mong kiếm được mỗi tháng bảy chục ngàn Đức kim, khoảng một phần mười tiền trợ cấp cho Hungermann, khoảng một phần mười số tiền mà nhà nước cấp dưỡng cho viên chúa trùm mật vụ Gestapo, người ta có sáng kiến lập các trại tập trung mà Kurt bị nhốt và trở về què quặt... Đó là chưa kể các khoản trợ cấp cao hơn cho các tướng lãnh, tội nhân chiến tranh, và các đảng viên Quốc Xã khác. Henri Kroll, vượt thoát mọi biến cố, nhận thấy mọi quyền hạn và công lý vẫn còn đứng về phía quê hương yêu dấu của chúng tôi. Viên trung đội trưởng thiết kỵ Wolkeinstein rất lên hương. Người của Đảng và kỳ thị chủng tộc hết mình, sau chiến tranh, im hơi lặng tiếng luôn vài năm và bây giờ, cũng như bao nhiêu đồng chí khác, được làm nhân viên Bộ Ngoại giao. Bodendick và Wernicke cố giấu được một số người Do Thái trong trại điên bất trị. Họ cho những người trốn tránh cạo đầu và học cách giả điên. Sau đó ít lâu, Bodendick bị thuyên chuyển về một làng hẻo lánh vì đã lỡ nói một vài lời bất ý khi đức Giám mục của ông ta chấp nhận làm cố vấn cho một chính phủ chỉ lấy chuyện tàn sát làm bổn phận thiêng liêng. Wernicke cũng bị đổi đi vì không chịu chích thuốc độc cho những người điên. Trước khi ra đi, ông ta đã tập hộp được một số dân Do Thái và tổ chức một cuộc chạy trốn, ông ta bị gởi ra mặt trận và chết ở đó năm 1944. Willy ngã gục năm 1942. Otto Bambuss năm 1945. Charles Kroll năm 1944. Lisa chết trong một cuộc ném bom. Bà Kroll cũng cùng chung số phận. Edouard Knoblock thì vượt qua tất cả. Hắn phục vụ tất cả các quyền lực, tốt cũng như xấu, với tất cả nhiệt tâm. Nhà hàng của hắn bị phá hủy nhưng đã được xây cất lại. Hắn không cưới Gerda và không ai biết cô ta hiện ra sao. Tôi cũng chằng được một tin tức nào về Geneviève Terhoven. Oscar “mắt treo cờ tang” dựng nghiệp một cách huy hoàng. Lúc chiến tranh xảy ra hắn bị gởi sang Nga làm lính trơn và kế đó được chỉ định làm Thanh Tra nghĩa địa. Năm 1945, hắn làm thông dịch viên cho quân đội chiếm đóng và chỉ vài tháng sau được làm Thị trưởng. Thị trưởng Werdenbruck. Kế đó hắn hùn với Henri Kroll, cả hai tạo dựng một xưởng mới và rất phát tài. Vào thời đó mộ bia cũng khan hiếm như bánh mì. ... Mời các bạn đón đọc Bia Mộ Đen của tác giả Erich Maria Remarque.
Bây Giờ và Mãi Mãi - Danielle Steel
Sau một lần gặp gỡ với Margaret Burton, Ian Clarke bị đưa ra tòa vì tội hiếp dâm và bạo hành. Cuộc sống bình yên và hạnh phúc của vợ chồng Ian bỗng nhiên bị đảo lộn vì họ không thể đưa ra những bằng chứng phản bác lại những lời cáo buộc của Margaret Burton. Jessie đã đem tất cả tài sản cầm cố để lo liệu cho chồng. Ian vào tù và Jessie rơi vào một tình trạng khủng hoảng, buồn đau cùng cực. Trong tù, Ian vẫn tiếp tục viết sách và sau đó sách của anh bán rất chạy, một số nhà sản xuất phim cũng định hợp tác với anh. Nhưng lúc này họ đã quá mệt mỏi sau mọi chuyện. Jessie đề nghị ly dị. Những năm tháng sống thảnh thơi tại miền quê thôn dã đã giúp cô hiểu được niềm hạnh phúc vĩnh cửu... *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Rời San Francisco thật dễ dàng, Jessie cũng không dè. Chị không phải bận tâm suy nghĩ, cứ việc ra xa lộ, lái xe phom phom. Không có người tới vẫy khăn tay, mếu máo, và chị lấy thế làm vui thích. Sau khi thanh tra Houghton tới viếng, chị làm một ly cà phê, rửa chén bát, đi giày, soát lại nhà cửa, coi kỹ mấy cái cửa sổ, rồi ra đi. Chuyến xe xuôi Nam thật vui. Chị cảm thấy trẻ trung, ưa phiêu lưu mạo hiểm, lúc tới được ngôi nhà đổ nát trên Quốc lộ Bắc. Chị rất cảm động lúc bước vào bên trong, thấy những công việc dì Beth đã làm. Ngôi nhà sạch sẽ không một vết nhơ, và cái mùng chị để lại trước kia xem ra thật vô dụng. Trong phòng ngủ có kê một chiếc giường hẹp, chăn nệm sáng choang. Giường đó là chiếc giường chị đã sử dụng trong phòng ngủ của chị ở nhà dì Beth. Ở một góc phòng có kê chiếc bàn giấy, và có hai ngọn đèn khiến căn phòng sáng trưng. Nhà bếp đã được chất củi, và tại phòng khách có hai chiếc ghế xích đu, một cái bàn rộng, và một chiếc ghế rộng, thoải mái kê gần bên lò sưởi. Chỗ nào cũng có đặt sẵn đèn cầy, và bên lò sưởi có sẵn củi. Jessie có đủ thứ cần thiết. Ngày hôm sau, Jessie tới ăn tối với dì Beth rất vui. Đêm đầu tiên, chị ở một mình tại nhà mới. Chị thích làm vậy, và đã đi coi hết phòng này tới phòng kia như một đứa trẻ, không cảm thấy cô đơn, mà còn thấy hào hứng, tưởng chừng như mở đầu một cuộc phiêu lưu, và chị cảm thấy như sống lại. - Tốt, cháu thích chỗ đó chứ? Đã sắp sửa về nhà chưa? Dì Beth uống trà, cười nói với Jessie. - Cháu không muốn làm bận đến dì. Cháu sẵn sàng ở đây mãi mãi, và cảm ơn dì, nhờ dì mà căn nhà ấm cúng chưa từng thấy. - Phải thêm nhiều thứ nữa, mới gọi là ấm cúng được, cháu yêu quí ơi. Nhờ những đồ đạc Jessie mang tới, căn nhà đẹp hẳn lên: những bức hình chụp, những móc quần áo, một con cú bằng đá hoa, một bộ sưu tập sách quí, hai bức tranh, và bức chân dung của Ian. Có thêm cả những tấm rèm, những chân đèn bằng đồng và nhiều đồ linh tinh mà chị thích. Chị bầy chật nhà bằng những cây kiểng và bông hoa. Cuối tuần đó, chị còn tới nhà bán đấu giá mua thêm đồ đạc mới đem về bày chung với các báu vật cũ của chị. Chị đặt tại phòng khách, đứng lùi lại ngắm, tỏ vẻ hài lòng. Bây giờ trông đã ra nhà lắm rồi. Chị cất sách vào trong rương, đóng những họa phẩm của chị lên cao, ở góc nhà, nhưng chị chưa có thời giờ vẽ tranh mới, quá bận rộn với căn nhà. Ông quản trại của dì Beth đã cử con trai bỏ mấy ngày nghỉ cuối tuần tới làm cỏ, xén tỉa vườn cỏ cho Jessie. Hai người đã khám phá ra một viên đình đổ nát ở phía sau nhà. Chị muốn trồng hai cây đu; một treo ở dưới cây cổ thụ gần viên đình, để chị có thể đu và ngắm nhìn cảnh hoàng hôn trên ngọn đồi, và một cây đu khác chị có thể ngồi trước nhà, loại cây đu mà cặp vợ chồng trẻ thường ngồi thì thầm: anh yêu em, em yêu anh vào những tối mùa hè ấm áp, đu nhè nhẹ và tưởng trên đời chỉ có hai đứa mình. Sáng thứ bảy có lá thư của Ian gởi tới. Chị đã ở nhà mới được sáu ngày. [i]Vậy là em đã ở đó, cô bé tính tình kỳ quái của tôi, đầu óc bụi bám, cái mũi lem luốc, nhăn mặt mà tỏ ý kiêu hãnh đã đem lại trật tự cho chỗ đổ nát hoang tàn. Anh tưởng như thấy em lúc này đi chân đất tỏ vẻ sung sướng, răng cắn cọng rơm. Hay là em mang giày Gucci mà lại ghét giày? Căn nhà mới như thế nào nhỉ? Anh tưởng tượng ra được căn nhà, nhưng không nghĩ nỗi là em sung sướng nằm mùng mắc ngay trên sàn. Đừng nói với anh là em quên trải thảm nhé. Nhưng chuyện đó nghe chừng cũng vui đấy chứ, Jessie? Và có thể cũng tốt cho em đó. Nghe nói đến cửa tiệm, anh rất xúc động. Em không nhớ tiếc hay sao? Nhưng bán được giá đó thì cũng tốt. Em sẽ làm gì với món tiền lớn đó? Anh nghe tin người ta đang tính dựa vào cuốn sách của anh để chuyển thành phim truyện. Đừng nín thở, anh chẳng giật mình đâu. Những chuyện đó chẳng xảy ra đâu. Họ cũng mới bàn bạc thế thôi. Mặt khác, không bao giờ anh nghĩ nỗi tới chuyện em bán cửa tiệm. Em cảm thấy thế nào? Anh dám cá là em đau khổ đấy. Nhưng có lẽ cũng vì thế mà an dạ, phải không? Vì có thời giờ để làm chuyện khác: du lịch, vẽ tranh, và sửa sang lại tòa lâu đài mà em định ngự suốt mùa hè này. Hay tính ở lâu hơn? Trong lá thư cuối của em, anh thấy giọng là lạ. Hình như em rất yêu căn nhà, và miền quê chung quanh, và dì Beth. Chắc hẳn bà là người đàn bà đặc sắc. Còn mấy con kiến và thằn lằn, em đã tránh xa chưa? Hay vẫn cứ phải xài tới bình xịt tóc.[/i] Jessie cười khúc khích. Có lần ở phòng khách sạn tại Florida, chị đã tìm cách giết một con thằn lằn bằng bình xịt tóc. Ác một nỗi con thằn lằn khoái mùi dầu thơm, còn chính anh chị lại thấy ngạt thở, đành bỏ phòng chạy ra ngoài. Chị đã đọc xong lá thư, tới ngồi chỗ bàn rộng của dì Beth cung cấp. Chị muốn viết thư kể cho anh biết về đồ đạc dì Beth đã đặt trong căn nhà của chị, những vật dụng chị mới mua đấu giá. Để anh tưởng chị nằm ngủ trên sàn mà không hay. ... Mời các bạn đón đọc Bây Giờ và Mãi Mãi của tác giả Danielle Steel.