Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chúa Ruồi (William Golding)

"Chúa Ruồi" là tác phẩm đầu tay và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của William Golding. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người.

Từ trong lịch sử phát triển của nhân loại, ánh lửa đã là một biểu tượng mang những ý nghĩa đối lập nhau. Ánh lửa vừa gợi lên không khí ấm áp, quây quần của những buổi hội họp lại vừa là một mối họa hủy diệt bởi lửa có thể thiêu đốt mọi thứ ngáng đường nó. Trong "Chúa Ruồi", ánh lửa là nguồn gốc nảy sinh mối xung đột không thể giải quyết giữa Ralph và Jack.

Với tư cách là người đứng đầu, Ralph luôn tâm niệm việc thắp lên ngọn lửa để tàu thuyền có thể trông thấy và đến cứu là công việc hệ trọng nhất đối với lũ trẻ. Cậu bé tìm mọi cách để khiến lũ trẻ hiểu ra điều đó song đó là một nỗ lực vô vọng bởi hầu hết bọn trẻ không thể tập trung làm việc gì quá 5 phút và chúng dễ bị thu hút bởi những hoạt động huyên náo hơn là ngồi một chỗ và trông chừng đống lửa.

Đi ngược lại với nỗ lực của Ralph, Jack chỉ quan tâm đến việc đi săn. Niềm say mê săn đuổi đã xâm chiếm tâm hồn cậu bé và lây lan nhanh chóng trong đám trẻ. Jack cũng sớm nhận ra việc kiếm được thịt tạo cho nó quyền chỉ huy đám trẻ. Đối với Jack, ngọn lửa không có ý nghĩa là một tín hiệu cầu cứu bởi nó đã thích nghi được với hoàn cảnh khắc nghiệt trên đảo hoang. Nó sẵn sàng hạ những nhát dao chí tử vào các con mồi để duy trì sự sống và nhất là sự quyền lãnh đạo tối cao của mình. Với Jack, ngọn lửa bập bùng là thứ để nấu chin thức ăn cho buổi tiệc tùng man dại. Điệu nhảy xung quanh ánh lửa của những bộ mặt nạ vằn vện biến chúng thành một lũ mọi.

Sự giao tranh khốc liệt giữa hai phe luôn được hỗ trợ bởi những tia sét rạch ngang bầu trời và đó là những điềm báo đầy tai ương với cuộc sống của lũ trẻ. Mặc dù cuối cùng, hành động thắp lên ngọn lửa biến hòn đảo trở thành một đảo lửa của Ralph đã giúp tàu hải quân phát hiện và cứu lũ trẻ xong ám ảnh về ánh lửa và những cuộc tranh giành tàn bạo để có được ngọn lửa vẫn sẽ ám ảnh lũ trẻ. Chúng có thể bước ra khỏi làn khói mịt mờ của khu rừng trên hoang đảo nhưng chúng sẽ phải đạt chân vào một thế giới ghê rợn hơn. Đó là cuộc chiến tranh nguyên tử của người lớn. Ánh lửa lại làm một ranh giới đưa chúng từ một bi kịch nhỏ đến một bi kịch lớn hơn và lần này, liệu chúng có may mắn được cứu thoát? Tìm mua: Chúa Ruồi TiKi Lazada Shopee

Hòa mình với cuộc sống hoang dã, những đứa trẻ dần quên đi nền văn minh đang tồn tại bên ngoài hòn đảo. Dưới sự lôi kéo của Jack, lũ trẻ từ bỏ những chiếc lều bên bãi biển để sống trong hang đá. Hình dáng những cậu bé đáng yêu không còn mà thay vào đó là những tên mọi tí hon vẽ mặt vằn vện. Chính cái mặt nạ đó đã khiến chúng "không còn biết xấu hổ dưới ánh mặt trời".

Với giọng văn lạnh lùng và đanh thép, William Golding đã miêu tả hành trình ngược về cõi u mê của những đứa trẻ bị bỏ rơi trên đảo hoang. Thông qua một hệ thống các biểu tượng giàu ý nghĩa, ông thể hiện cuộc chiến khốc liệt giữa cái Thiện và cái Ác trong mỗi con người.

Tác giả:

William Gerald Golding sinh năm 1911 tại Cornwall nước Anh. Xong trung học, ông theo ngành vật lý để vừa lòng cha mẹ. Được hai năm, thấy không thích khoa học tự nhiên nên ông chuyển sang văn học và triết. Năm 1935, sau khi tốt nghiệp, Golding lấy thêm bằng sư phạm và dạy tại nhiều trường khác nhau và từ năm 1935 đến 1940, trong đó có một trường dành riêng cho nam sinh.

Năm 1940, khi thế chiến II bùng nổ, Golding phục vụ trong Hải quân Hoàng gia Anh. Là thuyền trưởng, ông đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Golding từng có mặt trong chiến dịch đổ bộ lên Normandie (Pháp) năm 1944 của quân Đồng minh. Năm 1945, chiến tranh kết thúc, ông trở lại với nghề sư phạm.

Golding cho rằng những thảm họa ông từng chứng kiến trong chiến tranh: sự dã man của con người, đặc biệt là tội ác diệt chủng của Đức Quốc xã… tất cả chỉ có thể giải thích được qua cái Ác Bẩm sinh. Chúa Ruồi (Lord of the Flies), cuốn tiểu thuyết đầu tay và nổi tiếng nhất của Golding xuất bản năm 1954 mang đậm ưu tư này của tác giả. Truyện kể về diễn tiến bi thảm trong cuộc sống của mấy chục đứa trẻ khoảng từ sáu đến mười hai tuổi may mắn sống sót trên một hoang đảo ở Nam Thái Bình Dương sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn trong một cuộc chiến tranh nguyên tử.

Cũng bối cảnh là hoang đảo, nhưng khác với loại chuyện phiêu lưu có hậu kiểu Robinson Crusoe hay Đảo giấu vàng… Chúa Ruồi là một câu chuyện ngụ ngôn, tư tưởng của tác giả ẩn sau rất nhiều ẩn dụ và biểu tượng.

Mới đầu, khoảng hai mươi nhà xuất bản ở Anh đã từ chối bản thảo của Golding. Cuối cùng, cuốn sách được nhà xuất bản Faber and Faber tại London phát hành, song chẳng gây được tiếng vang gì. Tuy nhiên, hai, ba năm sau, cuốn tiểu thuyết được nồng nhiệt đón nhận ở Mỹ. Điều này không thể giải thích rằng “Bụt chùa nhà không thiêng”, mà vì người dân Anh mới trải qua hai cuộc thế chiến thảm khốc chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, họ đâm ra kỵ loại truyện có nội dung u ám, bi quan. Từ đó, Chúa Ruồi trở nên nổi tiếng, được đưa vào giáo trình văn học ở Anh, Mỹ và nhiều nước Châu Âu, tác phẩm còn được dựng thành phim hai lần - năm 1963 và 1990.

Sau Chúa Ruồi, Golding còn cho ra đời nhiều tác phẩm khác, phần lớn đều mang nỗi trăn trở của ông về hai chữ Thiện và Ác của con người.

Năm 1980, Những nghi lễ của chuyến đi (Rites of Passage), tập đầu trong bộ truyện ba quyển với chủ đề tương tự Chúa Ruồi, đoạt giải Booker.

Năm 1983 Golding được trao giải Nobel văn học vì sự nghiệp của ông.

Năm 1988 ông được Nữ hoàng Elizabeth II ban tước Sir.

William Golding mất ngày 19 tháng Sáu 1993.

Đánh giá:

“Nếu Chúa Ruồi chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học thiếu nhi, ắt hẳn nó sẽ vô cùng rạo rực và tươi sáng, nhưng tác giả của nó là Golding, người đã trải qua đủ ác mộng để hiểu rằng: nơi nào con người không kiềm chế được cái ác bản năng thì dẫu chỉ là trò chơi của trẻ nít, vườn địa đàng sớm muộn cũng thành địa ngục.”

- The Times

Trong một cuộc chiến tranh nguyên tử, mấy chục đứa trẻ chưa đến tuổi thiếu niên “may mắn” sống sót trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay chở chúng đi sơ tán bị trúng đạn. Chúng tập họp dưới bầu trời Nam Thái Bình Dương nắng gắt, chia sẻ gánh nặng và đặt niềm tin vào thủ lĩnh. Nhưng rồi, cái đói và thiên nhiên khắc nghiệt từng bước vắt kiệt bọn trẻ. Bản năng sinh tồn đã dần bóp nghẹt sự ngây thơ - từ đây thực tại của chúng tan hòa vào ác mộng.

Một câu chuyện ngụ ngôn đau đớn và hãi hùng, ngập tràn những tư tưởng ẩn sâu dưới hàng hàng lớp lớp ẩn dụ và biểu tượng. Với Chúa Ruồi, một kiệt tác văn học kinh điển đầy ám ảnh, William Golding đã khiến các nhà phê bình văn học hao tốn giấy mực chỉ để tranh luận về một vấn đề: Có thực “nhân chi sơ tính bản thiện” hay chăng là… ngược lại?

“Chỉ vài tuần giữa nơi hoang vắng đã đủ khiến con người quay lại với bóng tối u mê, nơi hắn đã phải mất hàng ngàn năm để rũ bỏ. Chúa Ruồi là câu chuyện phiêu lưu giả tưởng gần nhất với thực tại.”

- The New York Times

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chúa Ruồi PDF của tác giả William Golding nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Trần Trụi Giữa Bầy Sói (Bruno Apitz)
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công.*** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tìm mua: Trần Trụi Giữa Bầy Sói TiKi Lazada Shopee Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó.Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịchĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trần Trụi Giữa Bầy Sói PDF của tác giả Bruno Apitz nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trần Trụi Giữa Bầy Sói (Bruno Apitz)
Trần trụi giữa bầy sói là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai, được dịch ra hai mươi thứ tiếng và trở thành một sự kiện văn học. Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va ly cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xít sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Đây không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện đại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công.*** THƯ CỦA TÁC GIẢ GỬI ĐỘC GIẢ VIỆT NAM Cuốn sách của tôi kể lại cuộc đấu tranh của các tù nhân, trong trại tập trung Bukhânvan để cứu một đứa trẻ Ba Lan; đứa trẻ đó được đưa nào trong trại, bất chấp muôn ngàn nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuốn sách còn nhằm xa hơn nữa: nó muốn nói lên cái đẹp về tinh thần của con người bênh vực cho con người và làm nổi bật sự vĩ đại của con người. Nó muốn ca ngợi tình đồng chí giữa những con người của bao nhiêu dân tộc châu Âu đằng sau những hàng rào dây thép gai mắc điện cao thế - tình đồng chí có một không hai trong lịch sử. Cuốn sách cũng muốn kể lại sự chiến thắng của con người đối với bản tính thú vật của bọn phát xít. Hạt mầm của lòng bác ái mà hàng triệu con người khi chết xuống đã vùi theo họ trong mảnh đất đẫm máu ở Bukhânvan, ngày nay lại bùng nổ lên trong cuộc chiến đấu của các dân tộc chống kẻ thù, những kẻ mang thảm họa tới cho nhân loại. Tìm mua: Trần Trụi Giữa Bầy Sói TiKi Lazada Shopee Tôi chỉ là mật con người bình thường nên mục đích cuốn sách của tôi cũng bình thường: đó là Hòa bình và Hạnh phúc cho hết thảy mọi người. Đem dịch nó ra tiếng nước ngoài, cũng không cần phải có nghệ thuật lắm mới làm nổi, vì mọi người tất sẽ hiểu được nó.Berlin tháng 6 năm 1962 BRUNO APITZ *** TRẦN TRỤI GIỮA BẦY SÓI là một trong những tác phẩm nổi tiếng sau đại chiến thứ hai. Xuất bản lần đầu tiên năm 1958 với 60 vạn cuốn ở Cộng hòa dân chủ Đức, cùng năm ấy tác phẩm này được Chính phủ Cộng hòa dân chủ Đức tặng giải thưởng Văn học Quốc gia, được tái bản liên tiếp ngay cả ở Tây Đức, được dịch ra hai mươi thứ tiếng rà trở thành một sự kiện văn học được nhiều người bàn đến ở châu Âu. Tác giả cuốn sách, Brunô Apitz (1900 - 1979), xuất thân từ một gia đình công nhân ở Laixich, một trung tâm công nghiệp lớn ở Đức. Con người ấy suốt đời là một chiến sĩ chống bọn gây chiến. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông bị giam hai năm vì tuyên truyền hòa bình. Năm 1934 ông lại bị bọn Hítle bỏ tù vì hoạt động chống phát-xít. Ba năm sau ông là một trong những tù nhân đầu tiên bị bọn phát-xít đưa đến Bukhânvan[1] để xây dựng trại tập trung khổng lồ nhốt hàng vạn người. Ông đã ở đấy mãi cho đến khi Hồng quân đánh bại phát-xít Đức, và là một trong những tù nhân cuối cùng của địa ngục Bukhânvan. Phải có nước Cộng hòa dân chủ Đức, người công nhân đã hy sinh tất cả tuổi trẻ của mình trong các nhà tù ấy, mới thành một nhà văn. Ông viết báo, được cử làm chủ nhiệm một nhà hát của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Năm 1950 ông làm biên tập cho hãng phim Đêfa và đã chuyển thể quyển tiểu thuyết này thành kịch bản để xây dựng thành phim. Từ mười mấy năm nay đã có rất nhiều tác phẩm viết về các trại tập trung của phát-xít Đức, nhưng không tác phẩm nào để lại cho độc giả ấn tượng mãnh liệt như Trần trụi giữa bầy sói. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân chủ yếu là vì tác giả của quyển tiểu thuyết này là một chiến sĩ. Là một chiến sĩ nên đối với ông, Bukhânvan không phải chỉ có lò đốt xác, có boong-ke, trại giam, có tháp canh, hàng rào dây điện cao thế, có lũ phát-xít hoành hành bắn giết tra tấn và hàng vạn tù nhân đói khổ, đau ốm, chết chóc và nếu còn sống sót thì kiếp sống cũng chẳng hơn gì thú vật. Điều đó là hiển nhiên. Nhưng còn có điều quan trọng hơn, và là trung tâm sự chú ý của Brunô Apitz. Đó là sự vĩ đại của con người, tình đồng chí “có một không hai trong lịch sử” của hàng chục dân tộc. Con người ở đây “trần trụi” thực đấy, nhưng họ gắn bó với nhau, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng có mặt mọi nơi. Hơfen, một nhân vật trong chuyện, nói: “Nếu chúng mình sống sót ra khỏi nơi đây, tôi sẽ chịu trách nhiệm trước Đảng về việc ấy, anh có thể tin như vậy”. Thì Krêmơ nghiêm nghị nhìn vào mặt Hơfen: “Đảng ở ngay đây”. Đảng ở ngay đây, ở ngay Bukhânvan, đó mới là chủ đề của cuốn truyện, ở đây không phải chỉ có đàn sói mà còn có con người, tuy bên ngoài ai cũng như ai đều mặc áo tù kẻ sọc, nhưng bên trong, đó là những con người lớn, đoàn kết, kỷ luật, sáng suốt, kiên nhẫn, mạnh hơn cái chết. Nội dung Trần trụi giữa bầy sói xoay quanh một câu chuyện rất bình thường. Một chú bé Do Thái Ba Lan được cứu thoát khỏi tay phát-xít Đức, khi chúng đang điên cuồng tàn sát những người dân Do Thái Ba Lan ở Vacsava. Chú bé được bỏ vào một chiếc va-li cho một tù nhân xách đi và được đưa đến Bukhânvan. Sự có mặt của đứa bé gây ra biết bao nguy hiểm cho năm vạn tù nhân sống trong trại, vì bọn phát-xit sau khi đánh hơi thấy đứa bé đã sục sạo đi tìm những dấu vết của tổ chức Đảng đang lãnh đạo các tù nhân trong trại. Câu chuyện tuy bình thường như vậy nhưng nó xúc động người đọc mãnh liệt vì tác giả bố trí nó chặt như một vở bi kịch và nêu lên được cái đẹp, cái cao thượng vô song của con người. Thời gian trong Trần trụi giữa bầy sói là thời gian của một vở kịch. Tác giả miêu tả Bukhânvan trong những ngày cuối cùng của nó. Sự việc xảy ra trên dưới một tháng. Ở trang đầu là tháng ba năm 1945, quân Mỹ vượt qua sông Rainơ, biên giới Đức, ở quãng Rêmagân là Hồng quân ào ạt tiến vào đất Đức. Và cứ thể: Haau, Opênhaimơ, Katxen, Aidơnăc... rồi ngày 8 tháng 4 tới Ecfuôc, và cuối cùng quân đồng minh ở cách trại giam 12 cây số và cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Bukhânvan. vấn đề đối với trại Bukhânvan là làm sao theo dõi được tin tức bên ngoài và tìm cách giành giật từng giờ từng phút, vì tương lai thuộc về họ cho nên họ càng trì hoãn được phút nào là họ tiến gần đến thắng lợi phút ấy. Không khí do đó càng ngày càng nồng nặc mùi thuốc súng. Trong những giờ phút ấy, tất nhiên con người càng dễ lộ bản chất của mình. Bọn phát-xit càng điên cuồng, lồng lộn, tàn ác, tìm cái khoái trá trong việc tra tấn, kìm kẹp, bắn giết, nhưng lại càng hốt hoảng, nhớn nhác, tìm cách tháo thân. Đối lập với chúng, Đảng Cộng sản càng nêu cao tinh thần kỷ luật, kiên quyết, sáng suốt lợi dụng thời cơ, ráo riết chuẩn bị. Chính trong khoảng thời gian ấy, cơn lốc của cuộc sống lôi cuốn mọi sự việc diễn biến rất nhanh, khiến từng giờ từng phút phải đối phó, đặt kế hoạch, tranh cãi, quyết định. Người ta không còn thì giờ nghĩ đến quá khứ, không còn thì giờ để hồi tưởng, mơ màng. Toàn bộ tác phẩm chỉ có hai cảnh nhắc đến quá khứ, nhưng trong một trăm trang đầu đã có tới sáu mươi cảnh khác nhau, trong đó người ta phải vật lộn với những vấn đề trước mắt. Biến cố xảy ra dồn dập với tốc độ của tia chớp. Jankôpxki đưa đứa bé vào trại, Hơfen phát hiện, Pipich đem giấu, Rôsơ bắt gặp, Bôkhâu ra lệnh: nó phải ra khỏi trại, Hơfen băn khoăn… Thế rồi người giữ đứa bé lại, người tìm ra nó, người đem giấu nó... Biến cố này chưa hết, biến cố khác đã xảy tới, trong khi bên ngoài là máy bay oanh tạc ầm ầm, và xa hơn nữa, những đoàn quân đang rầm rộ tiến. Cuộc sống ở đây căng thẳng đến nỗi các đồng chí trong ủy ban quốc tế các trại tập trung (ILK) không nhớ đứa bé làm cả trại khốn đốn kia là con trai hay con gái nữa cũng như chúng ta dễ dàng quên rằng mụ Horten có cái bộ ngực núng nính là người đàn bà duy nhất trong truyện. Đọc Trần trụi giữa bầy sói, không ai có thể quên những con người bảo vệ danh dự cho dân tộc Đức, Hơfen, Suyp, Pipich, Krêmơ anh chàng Ba Lan Krôpinxki, và những người lãnh đạo ủy ban quốc tế các trại tập trung; Bôkhâu, Bôgoxki, Riômăng, Van Đalen, Kôđixec. Họ khác nhau về tính tình, có người nôn nóng, có người trầm lặng, có người bao giờ cũng bình tĩnh, có người vui vẻ, có người lạnh lùng. Nhưng tất cả đều mang trong người tình nhân đạo cao quý. Cái gì đã khiến Hơfen giữ đứa bé lại, cái gì bắt Krêmơ làm ngơ không kiểm soát công việc của Hơfen, cái gì làm Hơfen đau khổ hơn là bị tra tấn khủng khiếp, cái gì làm Pipich sung sướng khi sắp chết vì đã kịp thời giấu súng. Họ không phải không có khuyết điểm hưng họ vẫn là những hình ảnh đẹp vô cùng. Đó là bài ca về cái đẹp của con người. Càng về sau, tính chất anh hùng ca càng nổi bật. Nếu ở nửa đầu tác phẩm, chủ yếu là miêu tả tâm trạng của cá nhân, thì nữa sau dành cho việc miêu tả hành động của quần chúng. Quần chúng trì hoãn việc dời trại, quần chúng che giấu 46 “nạn nhân” của thần chết, quần chúng bảo vệ đứa bé khiến cho Kluttich tuy đứng trước mặt nó mà không dám làm gì, đành phải rút lui và cuối cùng quần chúng khởi nghĩa. Có thể nói ít người có được ngòi bút khách quan hơn Brunô Apitz trong việc miêu tả nhân vật và sự kiện. Khi nói đến bè lũ phát-xít, tác giả không có một nét nào là biếm họa. Ông cẩn thận cân nhắc trong việc miêu tả, chú ý đến dáng điệu, cử chỉ, thái độ của từng đứa, cũng với tất cả sự quan tâm như đối với những đồng chí của mình. Người ta thấy cái lưỡi thè lè của Xvailinh; cái vẻ lịch sự dịu dàng che giấu một sự đểu giả tàn ác của Rainơbôt, ngay trong lúc tra tấn tù nhân y vẫn còn giữ cái vẻ lịch sự mềm mại của những động tác thể thao; cái tên man rợ Mandrin chuyên việc tra tấn người, càng nốc rượu vào thì lại càng tàn ác và tìm thấy trong việc tra tấn một thú vui khủng khiếp. Tên Svan có cái cằm phình ra, hay đi quanh cái bàn giấy to tướng, mở miệng là nói giọng ngoại giao; tên Kluttich thô bạo mở miệng là đòi bắn giết v.v... Ngay trong ngôn ngữ tác giả cũng để cho chúng biểu hiện được rõ cá tính của chúng. Người ta thấy đằng sau thái độ khách quan ấy là cái nhìn rất sáu sắc của một người đã sống một phần lớn đời mình trong việc theo dõi những kẻ thù của nước Đức và của thế giới. Ngay đối với các bạn, tác giả cũng vẫn giữ cái nhìn nghiêm khắc khách quan ấy. Brunô Apitz không gượng nhẹ họ, nếu trong óc họ nẩy ra những ý nghĩ khủng khiểp... Để cho Bôkhâu nghĩ đến cái chết của Hơfen và Hơfen nghĩ đến việc mình khó lòng chịu đựng được cảnh tra tấn nữa, để cho những con người nhân đạo nhất trên đời phải thốt lên: “Tại sao đứa bé kia không chết quách đi cho rồi”, tác giả làm người ta liên tưởng đến bút pháp của Secxpia, vị thầy của nghệ thuật. Người ta khó lòng khắt khe đối với những con cưng của mình hơn Apitz, nhưng kết quả sẽ không phải là làm giảm giá trị nhân vật. Trái lại, từ đó sẽ toát lên cái người ta thường gọi là lôgic khách quan của cuộc sống, tất yếu khách quan của hoàn cảnh và càng làm nổi bật cái tất yếu khách quan ấy thì cái thực, cái giả mới xuất hiện rõ, cũng như vàng, thau, chỉ có thể phân biệt bằng lửa chứ không thể đoán bằng mắt. Cuộc sống những ngày cuối cùng ở Bukhânvan tự bản thân nó là lửa. Cho nên đã xuất hiện thứ vàng cao nhất. Đã xuất hiện: chàng thợ xếp chữ Pipích, có đôi chân khuỳnh khuỳnh, nhỏ bé nhưng đến lúc hiểu sự thật thì anh dũng tuyệt vời; Krêmơ với đôi vai rộng đủ sức che chở cho toàn trại, với đầu óc sáng suốt, thần kinh tốt đến nỗi không còn có sự đe dọa, lừa bịp, không một biến cố nào vật ngã nổi; Bôgoxki với nụ cười vui vẻ, cười trong những lúc khó khăn nhất, Bôkhâu, con người của nguyên tắc, của tổ chức, nhưng nặng nề khối óc mà nhẹ về trái tim; Pribula sôi nổi, nôn nóng, luôn luôn đòi bạo động; Hơfen, con người xứng dáng với lời khen đẹp nhất của Bôgoxki: “Nghi ngờ Hơfen hóa ra nghi ngờ mình sao?”, “Chúng ta phải khỏe như Hơfen” v.v... Đặc biệt, trong tác phẩm đã xuất hiện cả một khối quần chúng vĩ đại, với trực giác được rèn luyện lâu dài trong những năm tù tội, với lòng tin sắt đá vào tổ chức, vào Đảng, ngay khi đứng trước cái chết cũng vẫn là một đội quân vô cùng anh dũng. Chính nhờ bút pháp khách quan ấy đã giúp cho tác giả tận dụng được vốn sống dồi dào của mình và vẽ lên được, tuy chỉ một mảnh của Bukhânvan thôi, nhưng một mảnh nóng hổi sức sống như trái tim của con người. Đối với văn hoc hiện tại, Trần trụi giữa bầy sói không chỉ là một cuốn sách hay, mà còn có một giá trị to lớn. Như nhiều nhà phê bình nhận định, nó đề cập đến chính vấn đề phong cách của tiểu thuyết hiện tại, và là một trong những hướng giải quyết táo bạo nhưng thành công. Trong nhóm chúng tôi, một người đã được nhìn thấy tận mắt Bukhânvan năm 1956. Trại tập trung Bukhânvan hiện nay đã được cải tạo thành một khu lưu niệm trưng bày những vết tích cũ. Từ những lò đốt xác cho đến những mớ tóc, những mảnh quần áo của tù nhân còn được giữ lại, từ những hàng rào thép gai đến những căn hầm đào dưới đất để trốn tránh, tất cả đều gợi lên cảnh của địa ngục trần gian, mà lịch sử loài người cho đến đại chiến thứ hai chưa từng được chứng kiến. Nếu như mỗi hòn đất, mỗi ngọn cỏ nơi đây có thể nói lên được, chúng sẽ kể lại không biết bao nhiêu thảm cảnh khó tưởng tượng; nhưng cuốn sách này của tác giả, theo chúng tôi nghĩ, đã có thể xứng đáng thay mặt cho những vật lưu niệm kia mà tố cáo trước loài người tiến bộ những hành vô cùng dã man của bọn phát-xít, nhắc nhở cho những người còn sống thêm cảnh giác trước những âm mưu thâm độc của bọn khát máu, đồng thời cũng là một bản anh hùng ca nói lên tinh thần bất khuất của tất cả các tù nhân, không kể là thuộc dân tộc nào, đấu tranh giành lấy quyền sống của con người, và sau cùng nói lên vai trò không thể thiếu của Đảng, của giai cấp công nhân, giai cấp tổ chức và lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh để giành lấy quyền sống thiêng liêng ấy. Những người dịchĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trần Trụi Giữa Bầy Sói PDF của tác giả Bruno Apitz nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trấn Bạch Phục Có Ma (Nhất Đạo Phong)
Thời đi học bạn có từng chơi cầu cơ bói chén, bói bút không? Nếu như câu trả lời là có, vậy thì bạn cần phải cẩn thận đấy, người ta nói cầu cơ chính là rước ma về nhà, tốt xấu khó phân chưa biết chừng còn gây phiền toái cho người cầu cơ. Bạn không tin? Vậy hãy đọc “Trấn Bạch Phục có ma!” để biết rằng Lý An Dân và nhóm bạn của mình đã gặp nguy hiểm như thế nào khi dại dột chơi cầu cơ, lại đúng ngày người ta kiêng kỵ nhất. Những nốt đỏ bí ẩn trên người, những cái chết kỳ lạ của lần lượt từng người, từ đây đưa Lý An Dân vào một cuộc hành trình kỳ lạ vừa là giúp bạn cũng vừa là tự cứu lấy mình.***Review bởi: Nguyễn Thị Khánh Hà ----- Nội dung truyện nói về nữ chính Lý An Dân có đôi mắt âm dương có thể thấy được quá khứ, trong 1 lần đi tàu cùng cô bạn thân Cao Hàm đi học đại học ở Bạch Phục, lúc xuống tàu bị một tên cướp giật đồ, cô đuổi theo và được nam chính là Diệp Vệ Quân giúp đỡ. Công việc của nam chính là chuyên môi giới nhà, coi phong thuỷ, … Lúc 2 cô bạn cùng phòng kí túc xá với nữ chính chơi trò bút tiên thì vô tình bị hồn ma oán khí của các cô gái bị mổ bụng lấy con từ thời xưa nhập hồn, tuy nữ chính và Cao Hàm không tham gia nhưng cũng bị liên luỵ. 2 người bạn cùng phòng của nữ chính thì chết trước, sau đó tới lượt Cao Hàm. Nữ chính và Cao Hàm sợ hãi nên đã rời khỏi kí túc xá. Trong lúc cấp bách nữ chính nhớ tới nam chính là người môi giới nhà, bèn tìm đến nam chính để tìm nhà. Thế là 2 người ở chung và nam chính đã giúp đỡ cô giải quyết những rắc rối liên quan đến ma quỷ. Sau đó 1 loạt tình huống kì quái xảy ra, hai người cùng sát cánh bên nhau giải quyết mọi chuyện, theo đó thì tình cảm của cặp đôi này cũng dần phát triển. Tìm mua: Trấn Bạch Phục Có Ma TiKi Lazada Shopee Sau này bí mật dần dần được hé lộ. Liệu Diệp Vệ Quân là người hay ma? Là Diệp Binh cha của Lý An Dân hay là Diệp Vệ Quân anh ruột của cô? Trong quá trình tìm kiếm thân phận thật của mình, bí ẩn về thân thế của Lý An Dân dần được hé lộ, thì ra tất cả đều không phải, thì ra trước giờ dù là đời trước hay đời này, người cô yêu nhất vẫn là anh, Diệp Vệ Quân. Nữ chính ham tiền, ham sống, nhưng rất mạnh mẽ, kiên cường. Khi thấy Diệp Vệ Quân là một cái xác thối rữa nghiêm trọng, thậm chí đã lộ ra xương trắng trong tế đàn, cô vẫn quyết tâm sống cùng anh, yêu anh. Nam chính thâm tình. Luôn tìm mọi cách ở bên bảo vệ người mình yêu. Đời trước tìm mọi cách tráo đổi cuộc sống cho nữ chính vì nữ chính mới là người phải chịu cảnh dày vò đau đớn dưới tế đàn chứ không phải là anh.Trong truyện này tình cảm ngọt ngào của 2 nhân vật chính đã làm mình rất cảm động. May là kết thúc HE. Mời các bạn đón đọc <3Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trấn Bạch Phục Có Ma PDF của tác giả Nhất Đạo Phong nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Trạm Thu Phí Quái Lạ (Norton Juster)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Trạm Thu Phí Quái Lạ PDF của tác giả Norton Juster nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.