Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Kẻ Văn Minh

Những kẻ văn minh đạt giải thưởng Goncourt vào năm 1905, nhưng công chúng cũng như độc giả có học thức không biết gì về tác giả Claude Farrere và cuốn tiểu thuyết. "Những kẻ văn minh", đó là thực dân, những người phải mang cái gánh nặng của người da trắng mà Kipling ca tụng: Văn minh, ít nhất là của họ. Vì khí hậu của Sài Gòn và Hà Nội, vì thuốc phiện, những nhân vật chính của cuốn sách phải đối mặt với một sự từ bỏ bi quan, thậm chí còn hoài nghi, những giá trị truyền thống: đạo đức, pháp luật. Cuốn tiểu thuyết này khi mới ra đời đã rất gây tranh cãi. Đây cũng là một giải Goncourt kì lạ vì tiểu thuyết này có hình ảnh của loại sách làm người ta hư hỏng, của loại tiểu thuyết hủy hoại sự trong trắng. *** Claude Farrère, bút danh của Frédéric - Charles Bargone (1876 - 1957), là một tiểu thuyết gia người Pháp với những tác phẩm có bối cảnh ngoài nước Pháp như Istanbul, Sài Gòn và Nagasaki.   Một trong những tác phẩm của ông là Những kẻ văn minh (Les civilisés) đã đoạt giải Goncourt năm 1905. Ngày 26 tháng 3 năm 1935, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp.   Ban đầu giống như cha mình, một đại tá bộ binh từng hoạt động tại các thuộc địa của Pháp, ông gia nhập học viện hải quân năm 1894, thăng chức trung úy vào năm 1906 và đại úy năm 1918. Vào năm 1919, ông từ chức để tập trung vào nghiệp viết văn.   Các tác phẩm của ông phần lớn không được chú ý, kể cả với độc giả Pháp. Tuy nhiên ông vẫn là một trong những tác giả lớn của nền văn học Đông Dương tại Pháp cùng với các tên tuổi như Malraux, Duras, Dorgelès, Viollis..  *** Trong khoảnh sân trồng những cây phượng lớn rùm ròa tỏa bóng, quãng giữa ngôi nhà và cổng của chấn song, hai anh phu Bắc Kỳ đưa xe ra, một chiếc xe kéo rất lịch sự, sơn then và ánh bạc. Họ xếp hàng dọc giữa hai càng xe đứng đợi ông chủ, lặng phắc như hai bức tượng quấn lụa. Xe và người làm thành một cỗ nom đỏm dáng, đẹp như tranh vẽ là đằng khác giữa Sài Gòn, nơi chỉ dân thường mới còn đi xe kéo. Nhưng bác sĩ Raymond Mévil vốn tính khá độc đáo, vả chăng anh ta có một chiếc xe ngựa mui trần và nhiều ngựa chạy hay. Thế nên mọi người bỏ qua cho anh ta cái thói ngông đi xe kéo và vi phạm mốt thời thượng – một cách xa hoa.   Lúc ấy bốn giờ chiều, giờ tỉnh giấc ngủ trưa. Bác sĩ không tiếp khách muộn hơn giờ này – cách thức kín đáo, ở cái xứ mà đường phố vắng vẻ cho đến lúc mặt trời lặn. Hôm ấy Raymond Mévil đi ra sớm, không phải cho cuộc đi dạo thường lệ trước bữa ăn tối, mà cho một vài thăm viếng không hẳn trong nghề nghiệp mà vả chăng anh ta cũng làm khá thưa thớt, vì chiến thuật của anh ta là ít khi xuất hiện.   Một cô “người ở”[1] búi tóc trơn mở cửa, ném vài câu bông đùa với hai anh phu xe, bất thình lình đứng lặng phắc, vẻ gái nhà lành: ông chủ vừa xuất hiện. Anh ta bước xuống bậc thềm, bước chân trẻ nhưng đã chậm, đưa ngón tay vuốt bầu vú cô gái qua lần áo lụa đen, và bước lên xe. Chiếc xe nhỏ bắt đầu lao nhanh, đám phu xe chạy vun vút để gió mạnh thổi mát mặt người phương Tây. Ở các cửa sổ, qua những khe cánh cửa chớp, những ánh mắt phụ nữ ngắm nhìn các bộ chế phục phu xe trắng toát viền vải điều, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của vị khách, nom còn quyến rũ hơn cả cái vẻ xa hoa bao bọc anh ta. Bác sĩ Mévil được phụ nữ yêu, trước hết vì anh ta yêu thích phụ nữ, và chỉ yêu thích họ, thứ đến vì anh ta đẹp, một vẻ đẹp khiến tất cả họ đều bối rối, một vẻ đẹp khêu gợi ẻo lả tới mức sỗ sàng. Anh ta trắng trẻo, tóc màu hung, với cặp mắt xanh biếc quá dài, và cái miệng bé đỏ mọng. Mặc dù đã ngoài ba mươi, anh có vẻ thanh niên, và dáng người béo tốt như người ta hình dung anh. Bộ râu mép dài màu sáng, nom anh như một người Gaulois suy tàn, mà các thế kỷ đã làm cho tinh tế và thuần thục.   Cái giống nhau chỉ là tình cờ, Mévil khoe mình là dân khá văn minh mà mọi thứ máu của mọi thứ nguồn gốc đều trộn lẫn vào nhau trong huyết quản.   Chiếc xe tay chạy lon ton giữa các bóng cây ven đường, né tránh mặt trời xiên khoai vẫn hừng hực. Người chủ dùng đầu ba toong chỉ đường cho phu xe. Để dừng lại, anh ta thúc gậy vào vai họ, bảo: “Thôi!”. Xe đi vào một khu vườn có biệt thự. Dọc hàng rào, nhiều chiếc xe đang đợi, với những người phu giữ ngựa An Nam thấp tè nắm chặt hàm thiếc ngựa.   - À, ừ, Mévil nghĩ, hôm nay là ngày con bé tiếp khách, thế mà mình không nhớ ra.   Anh ta ngần ngừ giây lát rồi nhún vai, tìm trong túi chiếc ví đựng danh thiếp soát lại trong ấy – có mấy tờ bạc Đông Dương. Tiếp đó, Raymond Mévil quẳng chiếc ba toong cho một anh bồi vừa chạy ra, và đi vào nhà.   Ngôi nhà cũ kỹ rộng thênh, có dáng trăm phần trăm thuộc địa.   Hai phòng đợi dẫn tới chiếc phòng khách được xếp dồn ở cái chái tốt nhất, kéo dài bằng cả một hàng hiên rủ những bức mành mành tranh tối tranh sáng. Mọi cái đều to lớn thênh thang, cao như nhà thờ; các bức vách ngăn không chạm được tới trần, hơi nóng quẩn dưới rầm. Phía bên dưới không khí mát mẻ, các đồ đạc đều bằng gỗ mun chạm xà cừ, phảng phất tỏa một mùi bản xứ.   Trong tiền sảnh, Raymond Mévil vấp phải một người nào đi ra, một nhân vật trịnh trọng mặt mày nhẵn nhụi, da màu vàng chanh, cử chỉ nặng nề - ông chủ nhà này, Ariette, trạng sư ở Tòa Án. Hai người bắt tay nhau rất thân mật; gương mặt buồn tẻ của ông trạng sư thậm chí còn vặn vẹo thành một nụ cười niềm nở chắc hẳn không thường dùng để chào đón tất cả mọi vị khách.   - Nhà tôi có nhà, ông nói, và rất cảm ơn ông có nhã ý đến thăm. Đã khá lâu rồi tôi không có hân hạnh gặp ông tại nhà này.   - Xin ông bạn thân mến tin rằng chỉ là do tính tôi lười biếng, và ngôi nhà của ông đối với tôi là thân thiết nhất ở Sài Gòn.   Viên trạng sư tỏ ý hân hoan, dường như có vẻ cất được mối lo lắng.   - Tạm biệt ông nhé, ông bác sĩ. Ông biết là Tòa án đang gọi tôi, như mọi khi.   - Vụ kiện thú vị chứ?   - Ly dị thôi, dĩ nhiên. Chúng ta sống một thời điểm hết sức tồi tệ.   Ông ta bỏ đi, cặp ôm trong tay, bước chân khô khốc như người máy, dáng vẻ khắc khổ và nghiêm nghị. Raymond Mévil quay nhìn sau lưng ông ta, nhăn mặt cười mỉm.   Trong phòng khách, tám hoặc mười người phụ nữ đang ba hoa trò chuyện, vẻ vừa diêm dúa vừa chểnh mảng trong những chiếc áo dài kiểu Sài Gòn nom như những áo choàng sang trọng. Từ ngưỡng cửa, Mévil nhìn nhanh tất cả khắp lượt, rồi ung dung bước vào giữa đám để chào trước hết bà chủ nhà, một bà tóc nâu duyên dáng mắt trinh khiết, bà ta chìa tay cho anh ta hôn.   - Xin chào vị Đại học Y. Ngọn gió lành nào đưa ông đến đây vậy?   - Hôm nay, - người thầy thuốc đáp, - đơn giản là Đại học Y tới tỏ lòng kính trọng dưới chân đoàn Luật sư.   Anh ta cúi mình trước từng bà khách, nói những lời tình tứ bạo phổi, rồi ngồi xuống. Anh là trung tâm mọi ánh mắt nhìn. Đám phụ nữ tỏ ra ưa thích anh, và cái danh tiếng Don Juan[2] của anh thế là được xác lập.   Anh không hề bối rối và gẫu chuyện. Anh không thiếu dí dỏm và biết cách chứng tỏ là người được phụ nữ ưa thích. Vốn bản tính phù phiếm, anh chú tâm để tỏ ra càng phù phiếm hơn nữa, và sử dụng cái thói phù phiếm ấy như một vũ khí trong các trò quyến rũ tình ái; người ta thông cảm với anh về thói lông bông hám gái và dễ dàng thổ lộ tâm tình với anh mà không hề đắn đo tự ái.   - À này, bà Ariette chợt nói, tôi đang định cho người sang mời ông đấy, ông thầy lang ạ.   - Bà ốm hả? ... Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Văn Minh của tác giả Claude Farrère.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Mùa Hè - Jude Deveraux
Ba năm sau Maine Ellie để Jessie và con trai cô ở Bangor còn cô lái xe một mình dọc bờ biển. Jessie không hỏi cô nhiều, nhưng cô biết anh muốn biết tại sao cô bị thôi thúc phải quay lại nơi cô đã trải qua dịp cuối tuần nhiều năm trước. “Có một số thứ em phải làm,” cô nói với anh. Vì việc đó mà cô lái xe tới đây, cô thầm nghĩ, nhưng cô không muốn nói rõ ra. Cô hôn chào tạm biệt cả hai rồi lái xe đến thị trấn nơi cuộc đời cô đã thay đổi đáng kể. Cô đã ở thị trấn này được ba giờ và vẫn chưa tìm ra ngôi nhà kiểu Vicotria của Madame Zoya. Cô hỏi người bồi bàn, cô gái nói mình đã lớn lên ở đây, nhưng cô gái chỉ cười khi nghe chuyện có một bà thầy bói hành nghề ở đây. “Ý cô là một người đọc chỉ tay,” cô gái nói. ... *** Jude Deveraux là một tác giả người Mỹ nổi tiếng với những chuyện tình lãng mạn lịch sử của cô. Tính đến năm 2016, hơn 40 tiểu thuyết của cô đã có mặt trong danh sách Best seller của New York Times. Mời các bạn đón đọc Nhà Mùa Hè của tác giả Jude Deveraux.
Làng Thiên Nga Đen - David Mitchell
Tháng giêng năm 1982. Cậu bé Jason Taylor 13 tuổi một thi sĩ rụt rè luôn tự ti về tật nói lắp đã dự cảm về một năm u tối trong ngôi làng hẻo lánh của mình ở miền quê nước Anh. Nhưng cậu đã không tính đến những tên đầu gấu học đường, sự rạn nứt đang âm ỉ trong gia đình mình, Cuộc chiến Falklands, mối đe dọa về sự xâm lăng của những người di gan du mục và những thực thể bí ẩn vẫn được gọi là con gái. Xuyên suốt trong quãng thời gian mười ba tháng trong hố đen giữa thời thơ ấu và tuổi thanh niên của nhân vật chính, đây là một cuốn tiểu thuyết quyến rũ, châm biếm, đau đớn và sống động với chất liệu cuộc sống như chảy tràn trên từng trang sách. *** David Stephen Mitchell (sinh 12 tháng 1 năm 1969) là một tiểu thuyết gia người Anh. Ông đã viết sáu tiểu thuyết, hai trong số đó, number9dream (2001) và Cloud Atlas (2004) đã lọt vào danh sách cho giải Booker. Ông đã sống ở Ý, Nhật Bản và Ireland. Mitchell sinh ra ở Southport ở Merseyside, Anh, và lớn lên ở Malvern, Worcestershire. Ông học tại Trường trung học Hanley Castle và tại Đại học Kent, nơi ông nhận bằng văn học Anh và Mỹ theo sau là bằng cao học trong văn học so sánh. Mitchell sinh sống ở Sicily trong một năm, sau đó chuyển đến Hiroshima, Nhật Bản, nơi ông giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên kỹ thuật trong 8 năm, trước khi trở về Anh, nơi ông có thể sống bằng các khoản thu nhập bằng nghề viết văn. Mời các bạn đón đọc Làng Thiên Nga Đen của tác giả David Mitchell.
Organ Mùa Xuân - Kazumi Yumoto
Kiriki Tomomi bước vào kỳ nghỉ xuân trước khi lên cấp 2 với nhiều khúc mắc. Bố mẹ đã ly thân do cuộc chiến triền miên với gia đình hàng xóm. Bà qua đời mới đây khiến cô bé chìm đắm vào sầu muộn và những giấc mộng lạ lùng. Ở nhà cả ngày chỉ có ông luôn lủi thủi với những việc riêng và cậu em Tetsu còn nhỏ nhưng ương bướng. Thế nên khi Tetsu bắt đầu rời khỏi nhà lang thang khắp thành phố với một sứ mệnh kỳ lạ: tìm mèo ốm, Tomomi liền đi theo bảo vệ em... Những cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trong thành phố đã khiến Tomomi vụt thay đổi, cô hiểu hơn những người xung quanh, hiểu hơn chính mình. Và, cuốn sách đã như một cung đàn trong trẻo, đẫm dư vị mát lành và chơi vơi của mùa xuân, cho người đọc đắm chìm vào muôn vàn cảm xúc ngây thơ, để khi tỉnh lại sực nhận ra, lá đã xanh, hạ đã sang, và cô bé con kia đã lớn tự lúc nào. *** Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Mời các bạn đón đọc Organ Mùa Xuân của tác giả Kazumi Yumoto.
Qui Cố Hương - Jiro Osaragi
“Nghĩ đến con cái tự nhiên lòng mình thanh sạch. Đó là diễm phúc của kẻ làm cha mẹ đó, cô biết không!” [Jiro Osaragi, Qui Cố Hương. Bản dịch Bùi Ngọc Lâm, Saigon 1973] Đọc Jiro Osaragi thấy cái không khí Âu châu của Kazuo Ishiguro phả khắp. Đây là tác gia tôi ít đọc, hình như chỉ biết có Hành Trình (The Journey), và nay làHomecoming. Nước Nhật của Osaragi là nước Nhật hậu chiến, nước Nhật thất trận. Thay vì nhìn đất nước dưới nhãn quan của người trong cuộc tham luyến và tội tình, của người cố gắng níu giữ vàng son đã mất như Y. Kawabata, Osaragi đặt mình là kẻ bàng quan. Ông cho nhân vật của mình đào thoát ra hải ngoại rồi quay về nhìn cố hương. Để thấy rằng những ngôi đền trên đỉnh núi vẫn đáng ngưỡng vọng, những cội anh đào sân chùa vẫn đáng chiêm bái, những vườn đá vườn sỏi vườn rêu vẫn đẹp đẽ, nhưng là cái đẹp của nghèo. Bởi nghèo nên buộc phải làm đẹp theo cách ấy. Gian nhà hoang chỉ có một vò rượu chơ vơ, là vì nghèo. Minimalism hóa ra là con đẻ của sự hoang tàn, túng thiếu. Nó đẹp một cách đau xót. Tình phụ tử, tình yêu trong văn Osaragi cũng được cảm bằng mắt người-ngoài-cuộc. Tỉnh táo, điềm tĩnh. Cha rất sung sướng khi con đã đến, nhưng lẽ ra con không nên làm thế, con không nên gặp một hồn ma, con đã đủ can đảm để lớn lên, thì con có thừa can đảm để xa cha. Em là người đàn bà khác thường, nhưng em đã gây ra cho tôi bao nhiêu oan khiên, vậy xin phép em, mai tôi đi sớm, tôi rửa hận bằng cách từ chối tình yêu của em. Tuyệt vời! Khi được hỏi mình có những tật xấu gì, Đức Dalai Lama nói, tôi còn tham luyến, chẳng hạn tôi không rời được cái đồng hồ đeo tay này. Còn bám chấp vào một cái gì, là còn phiền não. Đọc Osaragi để học cách yêu thương mà không nhất thiết phải dính chặt vào đối tượng yêu thương. *** Jiro Osaragi (4/10/1897 – 30/4/1973) tên thật là Haruhiko Nojiri. Ông sinh ra tại Yokahama, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo, ông được nhận vào giảng dạy tại trường nữ sinh Kamakura (ngày nay là trường trung học Kamakura Jogakuin) nằm tại Kamakura, tỉnh Kanagawa. Nhờ các kỹ năng ngôn ngữ của mình, năm 1922, ông được tuyển dụng vào Bộ Ngoại giao. Nhưng sau trận động đất Great Kanto năm 1923, ông mất việc và quyết định trở thành nhà văn. Năm 1924, ông xuất bản quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên Hayabusa no Genji. Các tiểu thuyết của ông phổ biến với bối cảnh lịch sử như Kurama Tengu (1924 – 1959), Teru Hi Kumoru Hi (“Sunny Days Cloudy Days”, 1926 – 1927), và Ako Roshi (“Loyal Retainers of Ako”, 1927 – 1928) đã được phát hành trên báo và tạp chí mang lại cho ông một lượng lớn những người ủng hộ. Nhiều truyện sau này được chuyển thể thành phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Qui Cố Hương của tác giả Jiro Osaragi.