Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Jude Kẻ Vô Danh

Một câu chuyện đời, cũng là một chuyện tình, rất đỗi đau thương. Jude làm tôi nhớ tới Kiếp người của Somerset Maugham. Nhưng Philip Carey rốt cuộc cũng tìm được hạnh phúc muộn màng, còn Jude cả đời phấn đấu, mà không vẫn hoàn không. Nada y pues Nada. Kính mừng hư vô toàn hư vô. Những nhà phê bình Anh Mỹ nói rất nhiều điều, nhiều khía cạnh về tác phẩm này, nhưng họ bỏ quên một điều: Ý nghĩa của Hư vô bàng bạc mênh mang trong Jude. *** [Review sách hay] Jude – Kẻ Vô Danh: Cơ hồ một tình yêu lý tưởng  ELLE Team Đăng ngày: 19/02/2020 15:00:54 Hiếm có một tình yêu nào vừa trong trẻo, vừa cuồng nhiệt, vừa đẫm bi kịch như mối tình của Jude Fawley và Sue Bridehead, hai nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng, “Jude – Kẻ vô danh” của tiểu thuyết gia kinh điển người Anh Thomas Hardy. Không trái ngang vì gia đình như Romeo và Juliet, không dữ dội đầy hoang dã như Heathcliff và Catherine trong Đồi gió hú, không hề được một chút kết thúc có hậu như Elizabeth và Darcy trong Kiêu hãnh và định kiến, chuyện tình yêu của Jude và Sue, gần chạm đến mức lý tưởng, kể về hạnh phúc thoáng qua trong một chuỗi những khổ đau và dằn vặt của cặp đôi chống lại định chế xã hội thủ cựu và gia trưởng, để rồi bị chính thời đại đè bẹp. Jude, một cậu bé mồ côi cha mẹ, được cô nuôi nấng lớn lên ở làng Marygreen, một làng cổ ở nước Anh thời Victoria. Tình cờ được một người thầy khai sáng về trường Đại học Christminter (mà nguyên mẫu vốn là Đại học Oxford), Jude đã mơ mộng dựng nên mục tiêu của đời mình là trở thành một vị giáo sư. Chính tại nơi mà từ bé đến lớn Jude vẫn luôn tự nhủ là nơi có cây tri thức mọc lên, Jude gặp Sue, cô em họ và tình yêu của đời mình. Dẫu đã bị bà cô can ngăn và gièm pha từ đầu, Jude gần như rơi vào lưới tình với Sue ngay từ cái nhìn đầu tiên. Jude không chỉ bị choáng ngợp bởi vẻ ngoài xinh đẹp của nàng mà còn bị mê mẩn bởi sự độc lập và phóng khoáng của kiểu phụ nữ mới. Sue tự lao động để trang trải chi phí cho mình. Nàng nhạy cảm, bốc đồng, thoát tục. Nàng đòi hỏi và ích kỷ. Và trên hết, Sue với những tư tưởng khai phóng về hôn nhân và tín ngưỡng, như một cơn bão ập tới cuốn phăng tinh thần của Jude. Mối tình tuyệt vọng mà Jude dành cho cô em họ sắc sảo và có phần tàn nhẫn trải qua muôn khúc thăng trầm. Nó hiện ra cực kỳ rõ nét dưới ngòi bút phân tích tâm lý bậc thầy của Hardy, mà đỉnh cao nhất có lẽ ở trường đoạn Jude với tình yêu thầm lặng, buộc phải chấp nhận lời yêu cầu của Sue: Đóng vai người cha của Sue trong hôn lễ để chúc phúc và trao tay nàng cho chồng nàng, chính là người thầy năm xưa đã khai sáng cho Jude về trường đại học, Richard Phillotson. Bền bỉ, tận tụy, không đòi hỏi, lý tưởng hóa người yêu nhưng đồng thời lại chấp nhận mọi mặt tốt xấu của nàng, tha thứ cho mọi lỗi lầm trong quá khứ, là cách mà Jude yêu Sue. Và có lẽ đấy cũng là lý do vì sao mối tình của Jude được so sánh với khái niệm tình yêu thuần khiết. Tình yêu của Jude và Sue tiến đến một bước ngoặt bất ngờ khi Sue nhận ra mình đã sai lầm thế nào khi đồng ý kết hôn, và xin phép chồng từ nay được sống với tình nhân là Jude. Công khai chống lại định kiến xã hội, chống lại mọi ràng buộc và nghĩa vụ về hôn nhân, đạo đức, tôn giáo, Sue muốn sống với tư cách nàng tự chọn, không phải tư cách mà xã hội hay bất cứ ai phân cho nàng. Hardy đã xây dựng một nhân vật nữ mang đầy cảm hứng nữ quyền, nơi người phụ nữ một mình chống lại cả xã hội nam quyền và không chịu bó buộc trong quy ước mà mọi người đều tuân thủ. Tình yêu của họ mạnh mẽ, lý tưởng là vậy, nhưng liệu họ có vượt qua được thực tế xã hội khắc nghiệt với những lời chỉ trích, những lần bị đuổi việc, bị đuổi khỏi nhà cho thuê chỉ vì lối sống quá khác? Sự chuyển mình từ xã hội Victoria đầy những quy tắc lỗi thời về đạo đức sang một xã hội hiện đại phóng khoáng hơn được ghi chép lại đầy tỉ mỉ trong Jude – Kẻ vô danh. Dẫu bị các nhà phê bình tấn công kịch liệt lúc mới ra đời, giờ đây, Jude – Kẻ vô danh luôn nằm trong danh sách các tác phẩm kinh điển bắt buộc phải đọc. Nó bao chứa không chỉ những chủ đề lớn của văn chương Anh thời Victoria mà còn nêu cao hình tượng người phụ nữ mới và phê phán những định kiến bóp nghẹt tình yêu và ước vọng. Nhóm thực hiện   Bài: Zét Nguyễn *** VỀ TÁC GIẢ Thomas Hardy (02/6/1840 - 11/01/1928) - tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh - chào đời tại làng Higher Bockhampton, một trong những làng quê xa xôi hẻo lánh nhất của hạt Dorset, nước Anh. Ông là con cả trong số bốn người con của Thomas Hardy, một thợ xây, và Jemima, một thôn nữ có học thức. Ông lớn lên trong một ngôi nhà tranh nằm biệt lập ở rìa một cánh đồng thạch nam. Những trải nghiệm đầu đời của ông về đời sống nông thôn, với nhịp điệu theo mùa và nền văn hóa dân gian truyền khẩu, là nền tảng cho phần lớn các tác phẩm sau này của ông. Ông được mẹ dạy học tại nhà cho tới năm tám tuổi; sau một năm học ở trường làng, ông chuyển tới trường học ở Dorchester, một thị trấn gần đó. Tại đây ông đã tiếp thu được một nền tảng vững chắc về toán học và tiếng La-tinh. Năm 1856, ông trở thành người học việc của John Hicks, một kiến trúc sư địa phương; năm 1862, ông chuyển tới London và trở thành chuyên viên bản vẽ kỹ thuật trong văn phòng của Arthur Blomfield, một kiến trúc sư nổi tiếng. Do sức khỏe kém, năm 1867 ông trở về Dorset, lại làm việc cho Hicks và sau đó cho kiến trúc sư G.R. Crickmay ở thị trấn Weymouth. Dù nghề kiến trúc mang lại cho Hardy sự thăng tiến ở cả hai mặt kinh tế và xã hội, giữa những năm 1860, sự thiếu thốn tài chính và sự sụt giảm niềm tin tôn giáo buộc ông phải từ bỏ khát vọng học đại học và trở thành một linh mục. Ông bắt đầu tập trung vào sáng tác thơ, nhưng do các tác phẩm này bị từ chối xuất bản, ông miễn cưỡng quay sang sáng tác văn xuôi. Trong hai năm 1867-1868, ông viết tiểu thuyết đầu tay Gã nhà nghèo và nàng tiểu thư (The Poor Man and the Lady). Dù được ba nhà xuất bản ở London xem xét với sự cảm thông, tác phẩm này không bao giờ được xuất bản và thất lạc luôn. Sau đó, theo lời khuyên của George Meredith, một người điểm sách của nhà xuất bản, ông viết Các liệu pháp tuyệt vọng (Desperate Remedies - 1871), một tác phẩm chịu ảnh hưởng của dòng tiểu thuyết “cảm giác” của Wilkie Collins. Tuy nhiên, trong tác phẩm tiếp theo, Dưới tán cây xanh (Under the Greenwood Tree - 1872), Hardy đã tìm thấy giọng điệu riêng biệt của chính mình. Tháng 3/1870, Hardy được cử đến để trùng tu ngôi nhà thờ St. Juliot đổ nát ở Cornwall. Ông đã gặp Emma Lavinia Gifford, người trở thành vợ của ông bốn năm sau đó. Bà đã tích cực khuyến khích và hỗ trợ ông trong những nỗ lực văn chương, và cuốn tiểu thuyết kế tiếp của ông, Mắt biếc (A Pair of Blue Eyes - 1873), được viết dựa trên chính những trải nghiệm lãng mạn trong mối tình giữa ông và Emma. Mùa hè năm 1872, Hardy dứt khoát từ bỏ sự nghiệp kiến trúc và toàn tâm theo đuổi văn chương khi tạp chí Tinsley ký kết hợp đồng sử dụng Mắt biếc trong 11 kỳ đăng mỗi tháng. Sau đó, Cornhill, một tạp chí có uy tín hơn nhiều mời ông cung cấp một tác phẩm đăng nhiều kỳ. Kết quả là tác phẩm Xa đám đông điên loạn (Far From the Madding Crowd - 1874) ra đời, giới thiệu cái tên Wessex lần đầu. Và cũng từ đây trở đi, hầu hết các tác phẩm của ông đều có bối cảnh nền là Wessex, vốn là một vương quốc của người Anglo-Saxon ở miền nam đảo Great Britain từ năm 519 cho tới đầu thế kỷ 10, khi vua Æthelstan của người Anglo-Saxon thống nhất nước Anh; với Hardy, địa danh Wessex bao gồm các hạt ở vùng tây nam nước Anh hiện nay. Tháng 9/1874, Hardy kết hôn với Emma Gifford, bất chấp sự phản đối của gia đình cả hai bên. Trong thời gian đầu, họ liên tục di chuyển, khi sống ở London, khi ở Dorset. Trong thời gian này ông viết tiểu thuyết Bàn tay của Ethelberta (The Hand of Ethelberta - 1876); tác phẩm này được đón nhận khá thờ ơ và không phổ biến mấy. Bù lại, tiểu thuyết Trở lại cố hương (The Return of the Native -1878)[1] ngày càng được nhiều người hâm mộ do bối cảnh nổi bật của Egdon Heath, dựa trên vùng hoang địa ảm đạm và khắc nghiệt mà ông từng biết hồi thơ ấu. Cái chết của đột ngột của Emma vào năm 1912 kết thúc hai mươi năm sống chung với nhau trong tình trạng xa lạ, nhưng nó cũng khơi gợi lại những tháng ngày tươi đẹp trong mối tình của họ, và là nguồn cảm hứng để ông hoàn thành một số tác phẩm thơ xuất sắc. Năm 1914, Hardy kết hôn với Florence Emily Dugdale, trẻ hơn ông 38 tuổi. Dù đôi khi người vợ thứ hai này gặp khó khăn, vì Hardy quá nặng lòng với những hoài niệm về người vợ cũ, bà vẫn toàn tâm chăm sóc cho sức khỏe tuổi già của ông cho tới lúc ông qua đời vào tháng 11/1928. Tro cốt của ông được đặt trong “Góc của các nhà thơ” (Poets’ Corner) tại Tu viện Westminster, còn quả tim được chôn cất chung một nấm mộ với Emma tại nghĩa trang giáo xứ Stinsford. Trọn đời văn nghiệp, Thomas Hardy đã sáng tác tổng cộng 14 tiểu thuyết (các tác phẩm nổi bật nhất là Far From the Madding Crowd, The Return of the Native, The Major of Casterbridge, Tess of The d’Urbervilles, và Jude the Obcure), hàng trăm truyện ngắn, hai vở kịch và chín tập thơ. Ông được công nhận rộng rãi là một nhà văn lớn của thế kỷ 19 và nhà thơ lớn của thế kỷ 20. Năm 1910, ông được tặng thưởng Huân chương Công trạng (Order of Merit)[2]. Ngoài ra, ông được vinh hạnh đề cử cho giải Nobel Văn chương nhiều lần (1910 - 1914, 1920, 1923 - 1927). Nhiều tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim như Tess of The d’Urbervilles (1913; 1979; 1998, 2008), The Return of the Native (1994), Jude the Obscure (1996), The Mayor of Casterbridge(2000, 2003), Under the Greenwood Tree (2005), Far From the Madding Crowd (2015). Nhiều nhà văn trẻ hơn, bao gồm D. H. Lawrence, John Cowper Powys và Virginia Woolf rất hâm mộ các tác phẩm của ông. Một số nhà soạn nhạc nổi tiếng, bao gồm Gerald Finzi, Benjamin Britten và Gustav Holst đã lấy thơ của ông để phổ nhạc. Holst cũng soạn bản giao hưởng dựa trên chủ đề của tiểu thuyết The Return of the Native nhan đề Egdon Heath; A Homage to Thomas Hardy vào năm 1927.   Mời các bạn đón đọc Jude Kẻ Vô Danh - Thomas Hardy & Nguyễn Thành Nhân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Ở Đâu Về - Heinrich Boll
Trong quãng thời gian từ năm 1947 đến năm 1952, Heinrich Böll đã cho ra đời nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh. Nguồn tư liệu viết truyện của ông được lấy từ những sự kiện mà chính ông đã trải qua, với tư cách là một người lính trong Thế chiến Thứ II. Người ở đâu về? (nguyên bản tiếng Đức là Wo warst du, Adam?) là một trong số đó. Cuốn này được ông viết vào năm 1951. Thông qua 9 chương sách khá độc lập nhau, cuốn tiểu thuyết nói đến số phận của Feinhals và những người lính cùng chung chiến hào với anh trên mặt trận phía đông vào những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Trong những tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh của Böll, không có anh hùng. Nhân vật chính trong những tác phẩm này đều là những người lính bình dị, những người lính bị chèn ép, áp bức. Họ không làm chủ được cuộc sống của chính mình và sự hy sinh của họ trên chiến trường hoàn toàn là vô nghĩa - những cái chết thường là đau đớn và không có gì gọi là cao đẹp cả. Với tư tưởng chỉ trích chiến tranh, Böll viết vô cùng thực tế; ông nhìn nhận chiến tranh không phải là một cuộc phiêu lưu kỳ thú mà là một “căn bệnh thương hàn.” Lời tựa cho cuốn sách là 2 câu nói: một là của Antoine de Saint-Exupery, người đã ví chiến tranh như căn bệnh thương hàn; và một là của Theodor Haecker, người đã gợi ra rằng vấn đề cơ bản của xã hội nước Đức đương thời chính là cứ lấy chiến tranh ra là cái cớ để gỡ tội cho mình – “Hồi ấy, anh ở đâu hở Adam?” “Tôi đang tham dự Đại chiến”. Câu nói này của Haecker đã được Böll trích một phần để làm tựa cho cuốn tiểu thuyết. Với Böll, Adam là đại diện cho một xã hội từ chối thừa nhận trách nhiệm trước những hành vi của mình. Đó cũng là hiện thân của những nhân vật đáng thương như Feinhals (Fanhan) và những đồng đội của anh - những người lính được kêu gọi nhập ngũ chiến đấu cho một mục đích mà họ cho là vô nghĩa. Không may, tính thụ động, hay sự bất lực của họ trước những hành động ấy, đã cho phép những nhân tố tiêu cực trong xã hội, ở đây là chế độ quốc xã, trỗi dậy dẫn đến vụ Thảm sát Holocaust. Böll mô tả sự khủng khiếp của vụ thảm sát Holocaust thông qua sự đụng độ giữa viên Đại úy SS Filskeit, chỉ huy trại hủy diệt và cô gái người Hung-ga-ri theo đạo Do Thái Ilona. Böll khắc họa Filskeit là một kẻ có cổ to, bụng to, chân ngắn, thiếu hấp dẫn nhưng lại có xu hướng tình dục tiềm tàng trong máu. Filskeit là một kẻ cuồng tín chủ nghĩa Quốc xã về cái gọi là sức mạnh của dòng máu thuần chủng của tộc người A-ri-an. Sự mô tả tính cách của Filskeit chính là một bài văn châm biếm những nét tiêu biểu của lính quốc xã nói chung: ngưỡng mộ quá mức phẩm cấp, tuân lệnh cấp trên một cách mù quáng và một kiến thức nông cạn về nghệ thuật. Filskeit mê mẩn những bản hợp xướng và trong suốt thời gian chiến tranh, khi được cử đến bất cứ trại nào, hắn đều lập ra một ban hợp ca. Khi Ilona tới, hắn yêu cầu cô hát trong khi hắn tuyển mộ nhân sự cho ban hợp ca của hắn. Khi cô hát bài “Kinh cầu nguyện cho tất cả các vị thánh”, Filskeit nhận ra cái lý thuyết ngụy biện của ý thức hệ Quốc xã về sức mạnh của giống người A-ri-an thuần chủng đã trở thành tâm điểm của cuộc đời hắn. Ở Ilona, hắn thấy hắn đã cố công tìm kiếm trong bản thân con người hắn một thứ không tồn tại: “một dòng máu cao quý, hoàn hảo kết hợp với một thứ làm hắn hoàn toàn tê liệt, đó là lòng trung thành.” Phản ứng của hắn thể hiện đúng bản chất méo mó của con người hắn: hắn bắn chết người thiếu phụ và ra lệnh giết hại hết toàn bộ những người Do Thái còn lại trong trại. Lời văn của Böll trong những chương này là một minh chứng rõ ràng cho thái độ của ông trước vụ Thảm sát Holocaust. Nếu như có đôi khi, Böll có vẻ như muốn kết tội tất cả những người Đức về trách nhiệm của mình trước những hiện thực xảy ra, thì cũng có lúc ông lại diễn tả trách nhiệm này trong những người Đức bình thường, những người vẫn bảo toàn được nhân tính của mình mặc dầu phải đối mặt với tính hung bạo ở khắp nơi. Khi người lính Feinhals (Fanhan) gặp Ilona, tình yêu của họ dành cho nhau vượt lên trên hẳn những vấn nạn của loài người hay của dân tộc. Cái chết vô nghĩa của anh ở cuối truyện, giống như cái chết của Ilona, đã nhấn mạnh sự vô nhân tính của chế độ quốc xã mà Thảm sát Holocaust là một ví dụ điển hình. Mời các bạn đón đọc Người Ở Đâu Về của tác giả Heinrich Boll.
Quân Đoàn Hủy Diệt Tập 2: Hoàng Tử Kim Khi - Cassandra Clare
Trong thế giới ngầm màu nhiệm của thành phố Luân Đôn thời Victoria, Tessa thấy được bình yên bên các Thợ Săn Bóng Tối. Nhưng an toàn cũng chẳng được tày gang khi Ông Chủ sẽ không từ bất cứ cách nào để có thể dùng quyền năng của Tessa cho mục đích xấu xa của mình. Với sự giúp đỡ của anh chàng Will đẹp trai nhưng kì cục cùng Jem tốt bụng và tận tâm, Tessa phát hiện ra rằng động cơ của Ông Chủ là vì tư thù. Để vén tấm màn quá khứ, bộ ba du hành từ Yorkshire mờ sương tới một trang viên che giấu những bí mật khủng khiếp. Khi họ đối đầu với người máy truyền lời cảnh báo dành cho Will, họ nhận thấy Ông Chủ biết mọi đường đi nước bước của họ - trong số họ có gián điệp. Hãy khám phá cuốn sách đầy mê hoặc thứ hai trong series Quân đoàn hủy diệt - tác phẩm nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times. Tới với Quân đoàn hủy diệt, bạn đọc sẽ đắm chìm trong không gian Anh thời Victoria bảng lảng sương mù và trôi theo cuộc đời của các Thợ Săn Bóng Tối sống trước thời đại của Clary, Jace hay Simon trong loạt series đình đám Vũ khí bóng đêm. Tác giả Cassandra Clare (27/07/1973), tên thật là Judith Rumelt, nhà văn người Mỹ chuyên viết về thể loại tiểu thuyết kỳ ảo. Từng làm việc tại nhiều tạp chí và tòa báo cỡ nhỏ, trong đó có The Hollywood Reporter. Hiện Cassandra Clare đang sống ở Amherst, bang Massachusetts cùng chồng và ba chú mèo. Các series sách tiêu biểu:  - Vũ khí bóng đêm (The Mortal Instruments),  - Quân đoàn hủy diệt (The Infernal Devices),  - The Dark Artifices Trilogy, - The Bane Chronicles,  - Magisterium (viết chung với Holly Black)… Ngoài ra cô còn viết nhiều truyện ngắn và fan-fic khác. Hãy khám phá cuốn sách đầy mê hoặc đầu tiên trong series Quân đoàn hủy diệt– tác phẩm nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times. Tới với Quân đoàn hủy diệt, bạn đọc sẽ đắm chìm trong không gian Anh thời Victoria bảng lảng sương mù và trôi theo cuộc đời của các Thợ Săn Bóng Tối sống trước thời đại của Clary, Jace hay Simon trong loạt series đình đám Vũ khí bóng đêm.   Trọn bộ series Quân đoàn hủy diệt (The Infernal Devices) do Chibooks xuất bản:      Dây chuyền thiên sứ (Clockwork Angel, phần 1)      Hoàng Tử Kim Khí (Clockwork Prince, phần 2)      (Clockwork Princess, phần 3) Mời các bạn đón đọc Quân Đoàn Hủy Diệt Tập 2: Hoàng Tử Kim Khi của tác giả Cassandra Clare.
Ngọc Phương Nam - Jules Verne
Ngọc Phương Nam xứng đáng được độc giả hâm mộ tác phẩm Jules Verne quan tâm nhiều hơn, vì tuy không nổi tiếng bằng Tám mươi ngày vòng quanh thế giới, Hai vạn dặm dưới đáy biển hay Năm tuần trên khinh khí cầu, nhưng Ngọc Phương Nam lại chứa đựng một số phương diện hiếm thấy ở ngòi bút nhà văn vĩ đại của dòng văn chương khoa học viễn tưởng. Tác phẩm đưa ta vào thế giới kỳ bí, vừa hoang sơ vừa hùng tráng, vừa thô mộc vừa diễm lệ của những viên kim cương, đưa ta vào công việc lao động chân tay và cuộc sống chất phác, lao khổ của người thợ mỏ kim cương, cuộc sống ấy được đặt bên cạnh và tương phản mãnh liệt với tính chất phù phiếm tột cùng của thế giới đá quý. Lẽ dĩ nhiên, Jules Verne cũng đặt màu da đen của người Phi đối lập với những người da trắng chủ mỏ. Và trên tất cả, Ngọc Phương Nam cho ta thấy ngay cả người sáng lập dòng văn chương khoa học viễn tưởng hiển hách cũng không thể tránh có lúc bàn tới (và bàn rất hay) về tình yêu. *** Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng. Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn. Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”. Mời các bạn đón đọc Ngọc Phương Nam của tác giả Jules Verne.
Kỹ Nghệ Lấy Tây
Thiên phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây của nhà văn - nhà báo Vũ Trọng Phụng xuất hiện lần đầu trên báo Nhật Tân năm 1934, tính đến nay tác phẩm này đã hơn 80 tuổi. Với hai phóng sự này, Vũ Đình Chí và Vũ Bằng đã cho ông là một trong hàng vài ba "nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự của nước ta". Những phóng sự tiếp theo như Cơm thầy cơm cô, Lục sì đã góp phần tạo nên danh hiệu "ông vua phóng sự của đất Bắc" cho Vũ Trọng Phụng. Những tiểu thuyết và phóng sự của ông cũng nhận được nhiều ý kiến phản bác. Từ năm 1936 đến khi Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939, đã nổ ra cuộc tranh luận xung quanh vấn đề "Dâm hay không Dâm" trong các tiểu thuyết, phóng sự của ông. Mời các bạn đón đọc Kỹ Nghệ Lấy Tây của tác giả Vũ Trọng Phụng.