Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Giá Của Tự Do

Stephanie có sắc đẹp cổ điển, nhưng hơn thế, nàng có một trái tim đam mê. Ham thích mạo hiểm, nàng dám lao đầu vào những cuộc tình cuồng nhiệt và cũng sẵn sàng chịu trả giá cho những mối tình của mình. Một tính cách như vậy lại ra đời trong thời đại bão táp của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những cuộc tranh giành quyền lực trong nước, chiến tranh ở ngoài nước, những cuộc xâm lược thuộc địa và sự phát triển nhanh chóng của các công ty liên quốc gia, ắt cuộc đời nàng phải bảy nổi ba chìm với ... yêu đương. Số phận éo le đã đẩy Stéphanie lưu lạc khắp năm châu và rơi vào đủ những mối tình hết sức khác nhau: - Nhà kinh doanh trẻ tuổi Armand Dytteville có tài sản lớn ở Nam Thái Bình Dương. - Chàng sĩ quan điển trai, tùy tùng của hoàng đế Napoléon III. - Chàng quý tộc Nga hào hoa Boris tại kinh thành Saint Petersburg. - Một thanh niên bản xứ tại miền đất hoang vu, Yann Kendelec. - Và ... văn hào Victor Hugo, cây bút vĩ đại đồng thời cũng nổi tiếng là thuộc số những đàn ông có nhu cầu tình ái mãnh liệt nhất trong lịch sử thế giới ... STEPHANIE lấy nhân vật cùng tên làm trung tâm, được viết thành 4 cuốn với tên gọi như sau: 1. Bốn mùa yêu. 2. Vì em yêu anh. 3. Cái giá của tự do. 4. Ngọn lửa tình. Tuy là bốn cuốn cùng viết về một nhân vật, song cũng như bộ tiểu thuyết Angelic đã quen thuộc với bạn đọc, mỗi cuốn đều là những câu chuyện hoàn chỉnh, độc lập với nhau, không nhất thiết phải đọc toàn bộ tác phẩm hoặc đọc theo trình tự nhất định mới thấu hiểu được nó. Tất nhiên, hy vọng rằng bạn đọc sẽ gắn bó và say mê với số phận của Stéphanie để không bỏ sót một cuốn, một tập nào, như đọc giả phương Tây đã hết sức hoan nghênh STÉPHANIE khiến bộ sách được tái bản liên tục trong vòng 10 năm nay kể từ khi nó ra đời. *** LÁ THƯ CỦA YVES KENDELEC Stephanie giận dữ lao ra khỏi phòng khách như kẻ mất trí. Xiêm áo, đăng ten, dải lụa sột soạt theo bước chân giận dữ của nàng. Cánh cửa đóng sập lại theo cái khoát tay của nàng. Toàn thân run lên vì uất ức, Stephanie đi thẳng đến phòng giấy, giật mạnh cánh cửa, bước vào, đóng sập lại cùng với động tác giận dữ như lúc nàng đóng cửa phòng khách. Lại một lần nữa nàng khẳng định quyền tự do của nàng trước René. Cái quyền này là điều kiện nàng đã đặt ra với chàng ngay từ khi cưới nhau. Tại sao René không chịu hiểu rằng không thể bắt vợ chỉ chăm lo đến áo quần, đầu tóc, chiêu đãi, tiệc tùng, đến chuyện phiếm với những kẻ kiêu kỳ nhưng ngu xuẩn? Tại sao chàng lại không muốn hiểu rằng Stephanie đâu phải loại người cam chịu sống theo dư luận, sợ hãi những lời đàm tiếu để không dám làm cái này cái nọ theo ý mình? Stephanie đâu thuộc loại ngươi quan tâm đến ý kiến nhận xét của những kẻ đạo đức giả, những kẻ không dám sống theo ý mình và không để người khác sống theo ý họ? Những kẻ chỉ chăm chăm tạo cho mình vẻ ngoài sang trọng, quí phái, kiểu cách phù phiếm? Stephanie thuộc loại phụ nữ hiếu động, yêu cuộc sống, thích lao vào những tình huống phức tạp, không sợ nguy hiểm, thích luôn luôn đương đầu với những hoàn cảnh bất ngờ... Đúng là gần đây nàng ít xông pha vào những tình huống nguy hiểm, nhưng nỗi lo lắng về số phận tầu thuyền của nàng ngoài biển, niềm kiêu hãnh khi nàng chiến thắng trong cuộc giành giật những mặt hàng quí với các đối thủ, niềm phấn hứng khi nàng vạch ra những ý đồ táo bạo, tính mạo hiểm trong việc bỏ vốn vào những vụ kinh doanh liều lĩnh... tất cả những thứ đó René đều tìm mọi cách tước đi của nàng. Stephanie đã ba lần giật sợi dây chuông gọi Aimé. Nàng đấm mạnh xuống mặt bàn mà vẫn không ghìm được cơn giận dữ. Lần này René đi quá mức. Chàng dám nói: “Khi mang danh hiệu cao quí phu nhân Guinchamp thì...” Cao quí gì? Cao quí chỗ nào? Nếu không do bà mẹ bán cái mã đẹp trai của con mình cho Agnès lấy món tài sản kếch sù của dòng họ Lomanais thì chàng đâu có cái biệt thự sang trọng “De Guinchamp” này?... Lương sĩ quan được là bao? Stephanie khinh thói nhu nhược, sợ dư luận của René nhưng vẫn không thể thôi không yêu chàng. Nghĩ cho cùng thì René xưa nay vẫn là người như thế. Nàng chẳng nói với Pompette ngày nào rằng “Tôi biết tất cả những nhận xét của bác về anh ấy, nhưng tôi yêu anh ấy với tất cả mọi ưu điểm và khuyết điểm. Biết làm sao được, tôi không thể không yêu René!” Nàng đã yêu chàng đến mức bất chấp nguy hiểm, bỏ nhà cửa, con cái, đuổi theo chàng ra tận chiến trường. Yêu đến mức nàng nhận lấy chàng để có chàng bên cạnh tất cả các đêm, để được nhìn thấy chàng cười, chàng đi lại, được nghe thấy giọng nói nồng ấm và dâm đãng của chàng thầm thì gọi tên nàng. Mỗi khi René thầm thì gọi “Stephanie”, lập tức nàng rùng mình tưởng như môi chàng đang lướt trên da thịt nàng. Nàng đã bỏ qua thói phù phiếm, thói sợ dư luận của chàng để được yêu chàng, để được hưởng những cơn ân ái cuồng nhiệt của chàng. René chỉ là người đàn ông để yêu đương. Tình ái là sở trường của chàng, là phẩm chất duy nhất của chàng. Than ôi, đúng là duy nhất! Ngoài khả năng yêu đương và ân ái ra, René không còn bất cứ phẩm chất nào khác! - Cứ vào! Nàng nói to khi nghe thấy ba tiếng gõ ngoài cửa. Đấy là mật hiệu giữa họ. Ba hồi chuông và ba tiếng gõ cửa! Ám hiệu giữa nàng và Aimé. Ngay sau lần cãi nhau đầu tiên, hôm ấy Stephanie báo chồng biết nàng có thai và René lợi dụng hoàn cảnh đó đã yêu cầu nàng thay đổi cách sống, bỏ những công việc quen thuộc của nàng, Stephanie lại trở về với Aimé. Nàng khôi phục mối quan hệ thân tình với anh. Với Aimé nàng có thể nói hết, bởi anh hiểu rõ nàng hơn cả chính nàng hiểu bản thân mình. Giữa Stephanie và Aimé có bao nhiêu sợi dây gắn bó với nhau: quê hương, những kỷ niệm thuở nhỏ, Charles, cùng bao nhiêu yếu tố bí hiểm khác. Trước kỳ sinh nở, René lại một lần nữa yêu cầu vợ rời bỏ công việc kinh doanh mà chàng gọi là “công việc của một mụ nhà buôn”. Sau khi Stephanie sinh cho chàng bé Diane, con gái không phải con trai như nàng mong ước, thì René lải nhải không biết mệt, ngày này sang ngày khác: - Bao giờ em mới chịu thôi cái việc la cà các hãng buôn? Bao giờ em mới chịu thôi đến phố Vivienne, thôi bàn bạc tranh cãi giá cả với đám chủ hiệu đồ gỗ? - Không bao giờ! Em trả lời anh lần này là lần cuối cùng. Đừng bao giờ anh nhắc lại câu hỏi đó với em nữa! Hôm đó, nói xong nàng đã băng ra ngoài và đóng sập cửa lại. - Bà chủ gọi tôi? Thoạt nhìn, Stephanie thấy ngay Aimé giữ thế rồi. Chỉ mấy tháng mới cưới tình thân giữa nàng và anh đã bị giảm bớt, sau đó họ đã lấy lại được tình thân ngày xưa. Lẽ tự nhiên là Aimé lại không ngần ngại tỏ thái độ ương ngạnh với nàng mỗi khi anh không tán thành việc gì đó. - Anh lại thế rồi! - Bà chủ muốn nói tôi lại tiếp tục chứ gì? Nàng cau mặt lườm anh. - Đến bao giờ René mới chịu thôi cái việc dằn vặt tôi? - Thì bà chủ có thôi bỏ thói ương ngạnh, thôi hành hạ ông ấy đâu? - Anh định nói rằng... - Theo cách suy nghĩ của ông chủ, thì ý kiến ông chủ đúng. Stephanie nổi cơn thịnh nộ. - Anh tán thành René à? - Tôi hiểu ông chủ. - Thế thì ích gì chứ? - Stephanie gầm lên. - Ích chứ! - Aimé nói bằng giọng ương ngạnh, cái giọng bao giờ cũng làm Stephanie điên người. - Anh cố tình nói thế để chọc tức tôi thêm! Đúng là Aimé làm thế. Anh thấy nên đẩy cơn giận của Stephanie đến tột đỉnh, sẽ có lợi cho nàng hơn. Phải sau khi lên đến đỉnh điểm, cơn uất giận của nàng mới chịu lui và khi đó anh sẽ lựa lời nói cho nàng hiểu. Tất nhiên không khí thuận hòa giữa hai vợ chồng họ chẳng thể kéo dài được mãi mãi. Dù sao trong một quãng thời gian, họ cũng được hưởng niềm hạnh phúc trong yêu thương. - Anh cũng khuyên tôi đừng hoạt động gì nữa? - Tất nhiên là tôi không khuyên như thế. Bản chất bà chủ đã như vậy làm sao thay đổi được? - Bản chất tôi làm sao? - Bà chủ là người thích leo trèo. - Tôi chưa hiểu - nàng bực tức Aimé giở cái giọng bí hiểm quen thuộc ra. - Ý tôi muốn nói hồi nhỏ còn ở lâu đài bà chủ đã thích tụt lan can cầu thang gác, thích nhẩy vài bậc một lúc, thích trèo cây, thích leo vách núi dốc đứng. Mỗi khi định thuyết phục nàng điều gì, Aimé luôn gợi nhớ lại thời thơ ấu của nàng ở quê nhà, gợi lại cuộc chiến tranh Crimée, khi nàng làm cấp dưỡng cho trung đoàn Bắc Phi. - Như thế thì sao? - Bản chất bà chủ là hiếu động. Tính hiếu động ấy tất nhiên phải được bộc lộ ra trong một công việc nào đó. Hồi cụ bà còn sống, phu nhân Hortense... Stephanie xưa nay vẫn cố học theo mẹ nhưng kết quả nàng lại khác xa mẹ. Bà Hortense ngày xưa không bao giờ nổi nóng. Mẹ nàng bao giờ cũng nói với giọng dịu dàng, nhỏ nhẹ tình cảm trong khi vẫn kiên quyết. Không ai lay chuyển được điều gì một khi mẹ nàng đã quyết. - Mẹ tôi ngày xưa được làm việc theo ý riêng. Cha tôi không bao giờ cản trở. - Bởi cụ chủ ngày xưa đâu có giống ông chủ René de Guinchamp bây giờ? Stephanie hiểu câu đó như Aimé định nói: “Bà chủ đã sai lầm là lấy ông ta!” Nàng còn phạm thêm sai lầm nữa là chịu đến sống ở biệt thự Guinchamp. Như vậy thành ra nàng là người khác chứ không phải là nàng. Lẽ ra nàng phải tậu hoặc xây một tòa nhà khác. Nhưng hồi đó nàng đang khao khát tình yêu, Stephanie đâu có nghĩ gì. René bảo gì nàng cũng răm rắp nghe theo. Chính vì vậy bây giờ thằng bé René năm nay lên 2 cùng hai chị nó sống với nàng, trong khi bốn đứa con nàng đẻ ra - hai đứa sinh đôi con Armand và hai đứa một trai một gái con André, lại không được sống cùng với mẹ chúng. Bốn đứa vẫn sống với mẹ chồng thứ nhất của nàng, bà Francoise. Tình trạng này là do một loạt tình huống. Sau cái chết thương thảm của André, Stephanie một thời gian nằm liệt giường, đành để các con sống bên biệt thự Dytteville. Hồi đó chính Aimé đã khuyên nàng như thế. Vả lại bà Francoise không hề phân biệt đối xử giữa hai đứa cháu nội của bà với hai đứa em cùng mẹ khác cha của chúng. Còn thêm một nguyên nhân nữa khiến Stephanie dễ chấp nhận lời đề nghị của René là sau khi Agnès qua đời chàng đổi tên biệt thự Lomanais thành biệt thự Guinchamp. Nàng đã trở thành phu nhân Guinchamp, việc sống tại biệt thự Guinchamp đâu có gì không hợp lý? Tuy biết không thể lay chuyển những định kiến đã hình thành nên trong đầu Aimé, Stephanie vẫn cố tìm cách lay chuyển chúng. Nàng nói giọng xót xa: - Ôi nếu anh biết vừa rồi René nói với tôi như thế nào, dằn vặt tôi ra sao... Anh ấy dám bảo tôi: “Khi đã mang danh hiệu cao quí “phu nhân Guinchamp” thì có những loại người em không nên tiếp xúc. Quá lắm là đến nhà họ nếu như em buộc phải gặp!”. - Chắc ông chủ định nói đến Vaudières! - Ông Vaudières quen biết tôi lâu năm. Ồng lại là chủ ngân hàng, tôi cần quan hệ với ông ta. - Nhưng bà chủ cũng biết, ông chủ không ưa ông Vaudières! - Tôi đang muốn tậu khu đất ở Chesnay thuộc ngoại thành Vaudières và nhất định tôi sẽ tậu, nàng nói giọng dứt khoát - Tôi đã “ngửi” thấy đó là miếng đất tuyệt vời, sẽ có lãi rất lớn. Vụ này cần tiến hành nhanh chóng kẻo có người thọc gậy bánh xe. Tôi không thể đưa chuyện đó ra bàn ở phố Vivienne vì cha tôi quá thận trọng, còn chú Hippolyte thì trước mỗi việc cứ cân nhắc quá lâu. Tôi bàn chuyện với ông Vaudières và hai cố vấn thì có gì là xấu? - Tất nhiên rồi. Nhưng hình như bà chủ lại yêu cầu ông chủ bắt tay họ, những người ông chủ vẫn khinh thường, thậm chí ghét nữa. Quả là Stephanie có yêu cầu René chào hỏi, bắt tay họ! Nàng rất biết rằng Antonin Vaudières cũng như hai người cố vấn kia nếu được nghe René Guinchamp niềm nở chào hỏi, họ sẽ “mềm” hơn khi nàng trao đổi với họ về các khoản trong hợp đồng. René đã hai lần chịu tiếp họ tại biệt thự Guinchamp, nhưng lần nào cũng bảo vợ: “Chỉ lần này thôi đấy”. Đến hôm nay, chàng lại bảo: “Anh đã nói rồi, anh không muốn ai bàn chuyện hàng hóa, buôn bán trong cái nhà này. Em muốn bàn bạc ở đâu tùy em. Tại các văn phòng công ty, tại cửa hiệu hay quán giải khát nào cũng được, miễn không phải ở đây! Em nhớ rằng đã mang danh hiệu cao quí phu nhân Guinchamp thì... “ Chính câu đó làm nàng điên tiết. Danh hiệu cao quí Guinchamp! Bà mẹ René không đào mỏ mấy cô gái nhà giầu thì lấy đâu ra sự “cao quí” của cho Guinchamp. - Mà một cái bắt tay, một nụ cười niềm nở và một câu chào lịch sự thì có gì mà không thể làm được? - Stephanie rầu rĩ nói. - Xin phép bà chủ tôi xin nói thế này. Bà chủ có lý thì ông chủ cũng có lý. Mọi người đều có lý hết. Tuy nhiên Bắc cực và Nam cực không bao giờ đến với nhau. Riêng tôi thì bà chủ hãy tin rằng tôi thi hành mọi điều bà chủ yêu cầu và các vị khách đó tôi sẽ tiếp họ chu đáo: cà phê, trà, nước ngọt, bánh trái... tất tất đều có đủ. Trong lòng Stephanie lại trào lên nổi căm giận René! Vì tình yêu nàng, tại sao chàng không thể bỏ ra năm phút “quí giá”, chào hỏi khách để chiều vợ? Trong khi nàng từng đã dám bỏ cả gia đình để theo chàng ra chiến trường, sẵn sàng chịu dựng bao nỗi gian truân ở Dobroudja. Alma, ở Sebastopol? Đến đây nàng chợt nghĩ đến Boris! Boris! Đến nay nàng vẫn luôn, nghĩ đến chàng. Chàng là tình yêu không gợn sóng mây, tình yêu của tình yêu. Trong thời gian cuộc triển lãm thương mại ở Paris, Boris đã quan tâm đến công việc của nàng. Chàng đã tính sẽ trở lại Paris để nghiên cứu những kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh của nước Pháp. Boris là người thật sự hiểu mình. Stephanie thầm nghĩ, chàng chịu nghe những lời khuyên của nàng. Boris vêrr nàng tuyệt đối, nhưng rồi... chiến tranh, cuộc bao vâv Paris, cái chết của Agnès, René tự do và nàng lấy René! Hoàng thân Boris Petrovitch Biotsky và quận chúa Nalasa vợ chàng đã gửi thư chúc mừng đám cưới Stephanie. Nhưng nàng cũng nhận được một lá thư của Boris mà nàng vẫn còn giữ, một lá thư tuyệt diệu... “... Anh hiểu rằng anh không thể dâng cho em danh hiệu dòng họ anh, tài sản của anh, cuộc đời anh, nhưng anh yêu em và trong ký ức anh, em gần gụi với anh hơn nhiều so với phu nhân Guinchamp đang sống ở Paris. Tha lỗi cho anh. Trong mấy năm tới anh chưa thể sang Pháp. Anh rất đau lòng. Anh vẫn gìn giữ em trong tim anh, trong linh hồn anh, trong con mắt anh. Mong em hạnh phúc, Stephanie! Stephanie của anh, chỉ của riêng anh thôi!...” Cuối thư chàng viết, ám chỉ René: ‘Anh đã cứu sống con người ấy trên bãi chiến trường, cứu hắn vì em, vậy mà bây giờ em lại ở đó với hắn, trở thành vợ hắn... Chúa đã an bài như thế biết làm sao được”? Anh chỉ cầu Chúa một điều, em thân yêu, là sau đây Chúa sẽ cho hai ta được chung sống bên nhau mãi mãi. Đấy là lời cầu Chúa duy nhất của anh!”. Stephanie đưa tay lên gạt những hình ảnh hiện ra trước mắt. Mơ màng làm gì? Boris đã có cuộc đời chàng. Nàng có cuộc đời nàng, cuộc đời mà nàng tự ý lựa chọn. Bao tháng nay cuộc đời ấy biến thành nỗi đau khổ ngấm ngầm, không làm sao chữa được. Thói ngoan cố của René mỗi ngày làm nàng thêm cay đắng trong lòng. Tại sao René bất công làm vậy? Tại sao René thiển cận làm vậy? Lúc ăn bữa trưa, nàng đã tính sẽ giảng hòa với chồng và thuyết phục thêm đôi chút. Nhưng lúc nàng gọi lấy cà phê, René nói ngay: - Phu nhân tha lỗi... Cách xưng hô nhạt nhẽo “phu nhân” nàng rất ghét. Cách đó nàng chỉ chịu được nơi đông người. - Tôi sang uống cà phê bên biệt thự Resmont. Achille đã có lời mời tôi, bởi biết phu nhân hôm nay bận tiếp khách kinh doanh. - Anh ấy biết là do anh kể chứ gì? - Nàng bực tức nói. - Chính phu nhân báo trước cho tôi biết chuyện đó và tôi muốn phu nhân hoàn toàn thoải mái, hoàn toàn tự do làm những công việc quan trọng của phu nhân. Phu nhân coi tự do là thứ quí giá nhất. Cũng nói thêm, nếu phu nhân định mời những vị khách kia đến ăn tối, xin phu nhân cho tôi biết trước để tôi liệu. Đúng là thái độ khiêu khích! Stephanie không nhịn được, quật mạnh khăn xuống bàn, giận dữ đứng phắt dậy, cặp mắt tóe lửa nhìn thẳng vào mắt René, nhưng René làm như không thấy, thản nhiên bước ra cửa. - René! René vẫn thản nhiên mở cửa, điềm tĩnh bước ra ngoài, coi như không nghe thấy vợ gọi. Anh ta đã biến thành vừa câm vừa mù vừa điếc! Stephanie cắn ngón tay, lẩm bẩm một mình: - Mình sẽ không chịu! Mình không muốn chịu nhún. René phải hiểu mình... Mình buộc anh ấy phải hiểu... Còn anh ấy vẫn ngoan cố, mình sẽ tiếp Vaudières tại đây. Mình sẽ tậu bằng được khu đất ở Chesnay! Tối hôm ấy, Stephanie thấy chồng về, nàng không buồn hỏi xem ngày hôm ấy chàng có gì vui không. René tỏ ra vẫn đẹp trai, duyên dáng và đáng yêu như mọi khi. Chàng hỏi vợ nên nhận hay thoái thác lời mời đến dự buổi vũ hội ở biệt thự nữ công tước Lozencoise. Không muốn gây chuyện thêm, Stephanie nở nụ cười rất tươi, bảo chồng rằng nàng sẽ rất vui đến dự buổi vũ hội ấy. René nghiêng mình cảm ơn vợ tỏ ý chàng rất sung sướng thấy nàng cũng muốn dự. “Mình đành đầu hàng vậy - Stephanie thầm nghĩ - Mình có mong ước gì đâu, ngoài việc làm cho chàng vui. Rồi chàng sẽ phải hiểu như thế, sẽ chiều mình và niềm nở tiếp những khách kinh doanh của mình”. Nhưng trong khi nghĩ thế, nàng lại càng thấy ghét nữ công tước Lozencoise. Bà ta góa chồng, công tước Wedborg, nhưng còn rất trẻ. Đó là một phụ nữ tóc vàng vô cùng xinh đẹp, được nam giới kháo nhau là “người phụ nữ mặc áo có cổ rộng nhất Paris!” Đã một thời gian dài Lozencoise là nhân tình lén lút của René, ngay từ hồi Agnès còn sồng. Stephanie rất ghét bà ta vì mỗi lần hai vợ chồng nàng gặp bà ta trong một cuộc hội họp đông người nào đó, Lozencoise đều tỏ thái độ thân mật quá mức với René và hai người trò chuyện theo kiểu nói như ngầm ám chỉ những kỷ niệm ân ái với nhau, Stephanie rất khó chịu thấy Lozencoise lẳng lơ quá đáng, cổ áo bao giờ cũng mở rất rộng, chỉ vừa đủ che núm vú, còn cả nửa trên cặp vú nhô hẳn ra ngoài, miệng thì bôi son đỏ chót và lúc nào cũng như sắp hôn người đàn ông đang tiếp chuyện bà ta. Cặp mắt Lozencoise nhìn René như muốn nói với chảng: “Em yêu anh. Em không thể quên anh. Bất cứ lúc nào anh muốn, em cũng sung sướng được chiều anh. Thân xác em đang khao khát thân xác anh. Cặp môi em đang khao khát cặp môi anh!” Một lần sau cuộc vũ hội René gặp “mụ ta”, Stephanie đã to tiếng với chồng. René chỉ cười... nhưng chuyện đó đã lâu rồi, nàng chỉ còn coi là một kỷ niệm êm ái. Vì nàng ghen với “mụ ta” thì đúng là điên rồ. Nàng là vợ của René và nàng biết René chỉ yêu một mình nàng. Tuy nhiên Stephanie vẫn lấn cấn thế nào đó mỗi khi chồng gặp Lozencoise. Chính vì vậy hàng tháng, “mụ ta” đều gửi thiếp mời hai vợ chồng nàng đến dự vũ hội ở nhà mụ. Mọi lần Stephanie đều khoái thác, nhưng hôm nay vì muốn làm lành với chồng nên nàng chiều chàng, bằng lòng đi dự. Nàng thầm nghĩ: “Em bằng lòng đi với anh đến nhà mụ ta dự vũ hội chỉ vì anh thích đến đó. Nhưng để đáp lại, anh cũng phải chiều em trong một số việc”. Khốn nỗi từ khi René chịu rời khỏi nhà để vợ tiếp khách kinh doanh cũng như nàng chịu cùng chồng đến dự vũ hội ở nhà người đàn bà đáng ghét, thì sự rạn nứt giữa họ cũng bắt đầu. Sự nhượng bộ nhau tạo cho quan hệ giữa họ mất đi niềm tươi mát, sự thoải mái không thể thiếu được trong tình yêu. Theo đà ấy cuộc sống chung giữa René và Stephanie biến thành một thứ mỹ lệ giả tạo, một lớp sơn phết bên ngoài để che giấu những bất đồng bên trong. Cuối cùng đến lúc quá mệt mỏi, Stephanie đã nghĩ đến chuyện xa lánh chồng. Không khí trong biệt thự Guinchamp ngày càng làm nàng khó chịu. Nàng đâm ghét mọi thứ xa hoa phù phiếm ở đây, từ những bức họa khoe mẽ đến những hàng mỹ nghệ đắt tiền nhưng vô tích sự. Stephanie cảm thấy sống trong tòa nhà cực kỳ sang trọng này không thoải mái bằng sống trong phòng giam chật chội tại pháo đài Sebastopol! Ban ngày nàng cố không ở nhà. Buổi tối buộc phải về thì lòng nàng nặng trĩu. Nhiều buổi tôi nàng ngồi với các con trong biệt thự Dytteville và chỉ ao ước được ngủ lại đấy, không phải về biệt thự Guinchamp. Đang trong tâm trạng rối bời, đang nghĩ cách nào thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt căng thẳng này thì một lá thư bay đến tay nàng. Lá thư của Yves Kendelec. Ông ta là người nàng chưa gặp bao giờ, chỉ một lần nàng viết thư cho ông ta hỏi tình hình ở đảo Nouvelle Caledonie[1], tại sao việc khai thác kền ở đó lại không tăng lên được... Lá thư “hỏi tình hình” đó phải một năm sau nàng mới nhận được phúc đáp. Thư viết: - “... Nouvelle Caledonie là một nơi đất mới. Công việc hiện đại hóa nó đòi hỏi rất nhiều tiền bạc và thời gian. Các phương tiện khai thác ở đây hiện rất thô sơ. Thiếu nhân công châu Âu. Dân bản địa, người Canaques, quen sống nhàn tản, mặc dù họ rất hiền lành chất phác. Bẳn thân tôi lại đang rất mỏi mệt và đau ốm. Vài năm nữa, tôi lại giao công việc lại cho con trai tôi và hó sẽ trình bày tình hình với ngài Georges Dytteville... “ Bức thư làm Stephanie sôi máu. Nàng thấy rõ nếu cứ để tình trạng như thế này thì việc kinh doanh ở đảo không sao tiến triển được. Nàng thấy cần phải sang xem xét tình hình tại chỗ, thuyết phục mọi người ở đó và thực hiện cải tiến công nghệ bằng mọi giá, trang bị kỹ thuật hiện đại... “Không, không phải việc của mình - Stephanie suy nghĩ - Mình không thể sang đó. Đấy là việc của Hippolyte. Nhứng cậu ta lại quen hưởng cuôc sống yên ổn, nhàn hạ, sung túc rồi. Cậu ta ngại khó khăn, “sợ gian khổ”. Mối mâu thuẫn đó ám ảnh Stephanie và nhiều lúc nàng thấy phải đích thân nàng sang mới được. Ngoài nàng không ai khác. Nhưng nếu đi nàng sẽ phải xa gia đình, bỏ lại con cái. Nàng không muốn xa hẳn René... Nàng đã bốn mươi tuổi rồi, đâu còn trẻ trung để đi đây đi đó nữa... Nhưng một ý nghĩ khác bác lại. Tình trạng ở Nouvélle Caledonie cần phải giải quyết ngay. Chờ mười năm nữa thì sẽ quá muộn! Đảo Nouvelle Caledonie đang là vùng đất mới. Người ta đã phát hiện những mỏ kền ở đó từ nhiều năm rồi. Nếu nàng sang đó, bắt tay vào xây dựng, việc khai thác thứ kim loại đáng quí này mới có cơ phát đạt mạnh mẽ... Đành để các con xa mẹ chúng trong mười tháng, mười lăm tháng... Nàng phải sang nhìn tận mắt mới nghĩ ra cách phát triển. Sau thời gian đó nàng trở về Pháp tuyển mộ một đội ngũ thợ kỹ thuật trẻ, đồng thời mua sắm máy móc... “Thôi được mình sẽ suy nghĩ thêm. Nếu thật sự cần thiết. Nếu không có ai khác ngoài mình... Và sau một thời gian xa cách, rất có thể mình và René nối lại được...” nàng kết luận. --------------------------- [1] Còn gọi là Tân Caleđôni hoặc Tân Đảo, nằm ở Nam Thái Bình Dương (N.D) Mời các bạn đón đọc Cái Giá Của Tự Do của tác giả Marcel Gobineau.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cái Cười của Thánh nhân - Nguyễn Duy Cần
Cái Cười Của Thánh Nhân không chỉ là một quyển biên khảo về văn chương u mặc phương Đông, mà còn hàm chứa trong nó những giá trị nhân văn. Những câu chuyện cổ, những bài văn u mặc trong quyển sách cho ta thấy cuộc đời dưới một lăng kính khác hài hước hơn, thú vị hơn và sâu sắc hơn. Một cuốn sách không chỉ để mua vui mà còn khiến người đọc phải suy ngẫm. "Cái cười của Thánh nhân" là tiếng cười của người thoát vòng tục lụy, tiếng cười vang của con người tự do, tiếng cười vang vọng ngàn năm khắp mấy cõi trời... Đó là tiếng cười của Lão Tử, của Trang Tử và của bao hiền nhân khác biết tung tăng đùa chơi với cuộc đời. Nguyễn Duy Cần đã mượn chuyện ngàn xưa để cười chuyện thời nay đó! Chúng ta đang ở trong một thế giới vật chất đầy đủ nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng tinh thần của chúng ta mệt lắm, khổ lắm bởi tầm nhìn, tầm nhận thức của chúng ta. Chúng ta đang sống vì những việc mà mình cho là quan trọng lắm, giá trị lắm, cần thiết lắm và những cuộc tranh giành, chiến tranh, đau khổ cũng vì đó mà diễn ra... Dường như cuộc sống đang thiếu vắng dần sự bình yên, thiếu vắng dần hạnh phúc! Đọc Cái cười của Thánh Nhân để chúng ta biết cười mình, biết xót xa thân phận của mình và biết tự giải thoát để có tiếng cười đầy hoan lạc trong cuộc đời. - Bác sĩ Trương Thìn, 27/02/2012 *** Một nhà văn tây phương có viết: “Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện” Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn… đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn… mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác… theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình… đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã “cười to” với câu nói bất hủ này: “Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!” Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu “u mặc đại sư” có nói: “U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện”. U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là “văn minh nhất” lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: “Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái “trống không” của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế… Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. ... Mời các bạn đón đọc Cái Cười của Thánh nhân của tác giả Nguyễn Duy Cần.
Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen - Stefan Zweig
Nhớ lần đầu đọc Bức thư của người đàn bà không quen do bạn giới thiệu, đọc không thể dứt và đọc xong buốt lạnh cả sống lưng! Thật không thể hình dung được một chuyện như vậy lại có thể xảy ra và người ta (cô gái, ông nhà văn, thượng đế hay thánh Allah, Phật tổ) có thể để nó xảy ra như vậy. Tôi cố gắng hình dung và gọi tên mối tình của người con gái ấy nhưng không sao làm được, nó khác tất cả mọi mối tình từng được mô tả trong sách báo, thơ văn và cả ngoài đời. Không phải chỉ là lãng mạn vì cô gái hiểu rõ người đàn ông kia, rõ từ cái hay, cái dở, cho đến từng giây từng phút trong thói quen sinh hoạt của ông ta. Phải, khi cô còn bé, sống trong sự thiếu thốn tình cảm, có thể tình cảm đó xuất phát từ sự lãng mạn + ngưỡng mộ + nhu cầu giao cảm. Nhưng rồi cô lớn lên, cô trải nghiệm cuộc sống, cô hiểu bản thân và hiểu người tình của mình rất rõ, tình yêu của cô vẫn như vậy, thậm chí còn nồng nàn hơn bởi nó đã mang dáng dấp tình yêu của một người phụ nữ với tư cách là một người phụ nữ hoàn chỉnh. Từ chỗ không thể gọi tên mối tình câm lặng ấy, tôi đâm ra nghi ngờ không biết liệu có thể có thật hay không - một tình cảm trong bối cảnh như vậy. Tôi đọc lại bức thư, đọc lại nhiều lần nữa và nhận thấy, nó có thể, có thể có thật vì tất cả diễn ra đều rất logic và có thể hiểu được. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể nào gọi tên hay mô tả tình yêu của cô gái một cách ngắn gọn được. Đã có lúc tôi tự hỏi tay nhà văn kia có phải người xấu không, có xứng đáng được nhận một tình cảm như vậy hay không? Có lẽ nếu tay nhà văn đó không xứng đáng thì tôi cũng nhẹ đi một chút, có chỗ để mà xỉ vả cho bõ tức - thói xấu muốn trút tình cảm vào một cái gì đó mà. Nhưng đọc đi đọc lại, tay nhà văn đó cũng chả có gì xấu hết. Bác ấy sống phóng túng trong tình cảm, sống trong sự đầy đủ về vật chất, viết văn, và chả hề có ý định che dấu các điểm hay, điểm dở trong phong cách của mình. Lúc nào cũng thế, tình cảm và phớt lạnh, nồng nàn và hời hợt - không che giấu chút nào. Và cô gái yêu đúng con người đó, không phải một hình tượng mà nhà văn cố tình tạo ra để thu hút, cũng không phải cô gái chủ động vẽ lên để mê hoặc bản thân. Đoạn kết, nhà văn nhìn bình hoa và không thể nào hình dung ra rõ rệt bất cứ điều gì về người con gái ấy. Một mình trong căn phòng vắng lặng với bình hoa mà trong những năm trước, có một hình bóng âm thầm cắm những bông hoa trắng cho ngày sinh nhật của ông. Không hiểu nhà văn cảm nhận sự mất mát đó như thế nào khi mà ông chưa bao giờ biết rằng mình có để mà biết mình có thể mất... Cuốn sách này gồm 2 truyện vừa, bên cạnh Bức thư của người đàn bà không quen là 24 giờ trong đời một người đàn bà, đều đã được dựng thành phim. Bên cạnh nguyên tác văn học, cuốn sách còn cung cấp thông tin và hình ảnh đẹp về các bộ phim làm theo hai câu chuyện đầy bi kịch về tình yêu đơn phương không được đền đáp của những người phụ nữ. 24 giờ trong đời một người đàn bà là hồi ức của một người phụ nữ lớn tuổi kể về mối quan hệ tình cờ và kỳ dị với một chàng trai mê cờ bạc. Giằng co giữa niềm tin đạo đức và sự tha hóa của con người, những nhân vật trong truyện dường như tuyệt vọng trong việc chiến thắng định mệnh, để rồi số phận đẩy đưa đến những lối rẽ không dừng được. Một trích đoạn nhỏ trong 24 giờ trong đời một người đàn bà, thay cho lời kết của bài viết này: “… Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh oan và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tội, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khứ, đè chặt lấy quá khứ không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ”… *** Stéfan Zweig (28 tháng 11, 1881 - 22 tháng 2, 1942) là một nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch và nhà viết tiểu sử người Áo nổi tiếng trên thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả gốc Do Thái ở thành phố Viên, Áo. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Thế chiến thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930 ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Tháng 2 năm 1942 , trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro ( Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stéfan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948  truyện Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen Biết đã được dựng thành phim có tựa “Letter from an unknown woman", với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. *** Lời Dịch Giả: Với tôi, cái tên Stéfan Zweig, ngoài biểu tượng văn chương tuyệt đỉnh của loài người, còn gợi cho tôi nhiều kỉ niệm về quá khứ, về tuổi trẻ, về chiến tranh... Tôi “biết” Stéfan Zweig từ khá sớm: Thuở mười tám đôi mươi, tức là hơn sáu mươi năm trước. “Biết” đây tất nhiên không hiểu theo nghĩa cụ thể - quen biết - bởi chúng tôi cách nhau bao xa cả về thời gian lẫn không gian, mà là có cơ hội tiếp xúc với tác phẩm của ông. Năm 1951, trong chiến dịch Hà Nam Ninh, tôi “gặp” Stéfan Zweig: Tôi tìm thấy trên bàn giấy của viên đồn trưởng một cuốn sách nhan đề Amok, ou le fou de Malaisie (Amok hay gã điên ở Malaysia). Đó là một tập gồm 3 truyện vừa: Amok, Bức thư của người đàn bà không quen và Ngõ hẻm dưới ánh trăng. Tôi bắt đầu “mê” Zweig từ dạo ấy.  Tôi chọn “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" của S. Zweig. Tôi dịch ngay tại chỗ, tại phòng đọc của thư viện. Tôi viết thẳng vào một cuốn sổ tay, ngòi bút cứ như tự động lia đi. Liền một mạch 3 ngày. Những trang cuối, tôi vừa dịch vừa khóc. Dịch xong, đọc lại, hầu như không sửa một đoạn nào. Lúc ấy, tôi không nghĩ đến việc đưa xuất bản, mà chỉ làm như để giải toả một kìm nén. Sau này, khi nhà xuất bản đề nghị in, tôi cứ đưa nguyên cuốn sổ tay cho đánh máy lại. Cho tới nay, bản dịch đã được tái bản có lẽ không dưới 10 lần, theo nhiều dạng khác nhau: In riêng, gộp cùng một, hai truyện khác. in với hình ảnh minh hoạ trích từ phim dựng theo truyện, tuyển tập...Cho tới nay, trong số gần 60 tác phẩm dịch “Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen" vẫn là một trong những bản dịch tôi hài lòng nhất.   Mời các bạn đón đọc Bức Thư Của Người Đàn Bà Không Quen của tác giả Stefan Zweig.
Bão đồng - Cao Năm
Nhà văn Cao Năm đã sáng tác hàng chục truyện ngắn, phần nhiều về nông thôn; cùng thời gian này, anh lặng lẽ đặt bút viết tiểu thuyết. Đeo đuổi suốt 25 năm qua, cuối cùng một cuốn tiểu thuyết dầy dặn của Cao Năm cũng đã ra mắt bạn đọc với nhan đề tập truyện "Bão Đồng". Đọc truyện bạn đọc sẽ được dẫn dắt đến những miền cảm xúc mới mẻ, lạ kỳ những thân thương.  Ý tưởng nghệ thuật nảy ra từ một cơn gió lốc dữ dội không kém một trận bão mạnh tràn qua một vùng thôn quê rộng lớn, gây nhiêu thiệt hại. Nhưng chính cơn lốc kinh hoàng ấy đã lật tẩy tất cả những gì từng được coi là tốt đẹp mà bấy lâu được sơn phết bằng những từ ngữ mĩ miều, trong những bản báo cáo dài thượt luôn luôn khẳng định thành tích năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước. Ẩn sau những gì màu mè hoa mĩ ấy là không ít chuyện xấu xa, trụy lạc, tha hoá, biến chất, và đi liền với nó là những thói hư, tật xấu, lợi dụng chức quyền, cấp đất sai nguyên tắc nhằm chiếm dụng đất công... Viết tiểu thuyết "Bão đồng", nhà văn Cao Năm không chỉ phê phán kịch liệt những mặt xấu xa, thói hư tật xấu ở một bộ phận cán bộ, đảng viên - những người đang giữ chức vụ chủ chốt ở xã, ở huyện - mà quan trọng hơn, còn giúp bạn đọc thấy được nhiều người dân, nhiều cán bộ, đảng viên tốt ở nông thôn, như bố con cụ Mải, anh Cải, cô Dậm, anh Túc,... một lòng một dạ gắn bó với tập thể, với cộng đồng làng xã, đêm ngày lo làm sao cho mọi người có bát ăn bát để, quên đi quyền lợi, và cả danh dự cá nhân, để bảo tồn sự trong sạch, uy tín của tổ chức Đảng ở địa phương. Đúng là trong gian nan mới thấy người ngay kẻ gian, người hiền kẻ hèn, còn bình thường cũng khó mà biết người tốt, kẻ xấu.  Truyện khắc hoạ được những nhân vật góc cạnh và đầy tính biến hoá, hiểu theo cả nghĩa tích cực và tiêu cực, với một chuỗi tình huống bất ngờ, đan xen, mà nhiều chỗ đã nâng lên thành kịch tính. Tỉ như chuyện tấm ảnh của liệt sĩ Bao - hi sinh ở chiến trường năm 1968 - được ông Thàng ở Bắc Cạn cất giữ. Sau cơn bão, Bính - con trai ông Bao - cùng Điền và Liểu được xã cử đi mua sắn về cứu đói cho dân, lại tình cờ nhìn thấy ảnh bố mình trên ban thờ nhà ông Thàng, rồi xin mang ảnh bố mình về... Hoặc tình huống Cải đến nhà vợ chồng Thuật. Thuật hiện là chủ tịch xã, được người em rể là chủ tịch huyện che đỡ, đã lấy hàng nghìn mét vuông đất công lập sinh phần gia tộc. Lợi dụng lúc giáp hạt đói kém, hắn mượn xã viên đào đất vượt sinh phần không phải trả công. Cải vốn là tình địch của Thuật. Hồi Thuật đi chiến trường, đơn vị pháo cao xạ của Cải về lập trận địa ở xã. *** Điền và Cải len vào được một chỗ thuận lợi thì đứng như chôn chân ở đó, nhìn dán mắt vào mấy người đàn ông cởi trần, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi màu nâu thẫm, ngang lưng thắt mảnh vải hồng điều. Hai anh em len vào được một chỗ mãi phía vòng trong, thế mà không biết có phải do cái áo sơ mi trắng cộc tay rất nổi của Điền mách lối, mà Dậm và một cô bạn, cũng người ngoài Phương Lưu, chẳng biết bằng cách nào cũng chen vào được gần, đứng đằng sau. Rồi cũng chẳng biết bằng cách nào, hay có con mắt để sau gáy, Điền bỗng nhiên thấy nhồn nhột phía sau, liền quay lại, nhận ngay ra Dậm. Em cũng vào mãi trong này xem à? Đi với ai thế? Điền nhìn Dậm nhỏ nhẹ hỏi. Dậm đánh mắt nhìn Điền, giọng mềm đi, định bảo vào mãi trong này xem mới gặp được anh chứ, hỏi thế mà cũng hỏi. Lại thao thiết nói, không vào mãi trong này xem thì còn xem ở đâu. Rồi hai tay như đẩy vai cô bạn về phía Điền, hỏi, anh không nhận ra chị Lư à. Điền nhìn lại một thoáng, nói thác, tối trời, nhìn mãi không nhận ra ai. Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng, quay lại, nhưng tối trời, không nhận ra cô Đội trưởng Phương Lưu. Vả lại, Cải nghe tiếng người nói lào thào phía sau lưng thì quay lại theo cảm tính, chứ thực, còn mải để tâm theo dõi hai người đàn ông đang tay năm tay mười nhào lặn đất, vo tròn thành bánh pháo to bằng cái mâm. Khi hai người đàn ông nhào lặn xong đống đất, vo tròn thành bánh pháo bằng cái mâm, thì thình lình Cải nghe ba tiếng trống "thùng, thùng, thùng" như ba tiếng súng thần công khai hoả cất lên vang trời dậy đất. Bỗng tất cả mọi người trên sân như nín thở, hàng trăm cặp mắt đổ dồn về chỗ hai người đàn ông ngang lưng thắt dải hồng điều, đang lấy hết sức gượng nhẹ hai tay bốc bánh pháo đất lên khỏi mặt sân, nâng lên ngang người, đẩy lên ngang đầu, rồi dồn hết sức lực giơ thẳng hai tay bê bánh pháo cho cao lên, cao nữa, cao mãi. Cao nữa, cao mãi đến hết cỡ tay, hai người đàn ông bất ngờ tung mạnh bánh pháo lên không trung. Trong tích tắc, một tiếng nổ dễ ngang tiếng sấm đánh bùng một phát, làm hàng trăm người trên sân như cũng bùng cả lên. Sau tiếng nổ là một vành pháo đất văng ra như con trăn nằm cuộn trên sân, rồi tiếng người hò reo, tiếng trống thúc bật lên vang dậy, tưởng vỡ vụn cái sân gạch rộng đến mấy sào. Giữa tiếng reo hò của người xem, hai người trong ban tổ chức cầm thước dây chạy đến chỗ bánh pháo vừa văng xuống, chăm chú, cẩn trọng đo từng vết nứt, chỗ gấp, khoảng văng xa của pháo. Cũng giống như nhảy cao, chạy xa trong điền kinh, luật chơi pháo đất lấy độ văng xa của vành bánh pháo làm kết quả cuối cùng để đánh giá tài nghệ của người chủ pháo. Hết đợt pháo của hai người đàn ông thắt dải hồng điều, đến lượt hai người đàn ông cũng chỉ mặc chiếc quần đùi nâu, nhưng ngang lưng thắt dải vải xanh màu lá mạ, như để phân biệt với hai người thắt vải hồng điều ban nãy. ... Mời các bạn đón đọc Bão đồng của tác giả Cao Năm.
Mặt Trận Phía Sau - Nguyễn Thế Duyên
Đường càng ngày càng bớt dốc. Những cánh rừng gỗ tạp rậm rì chằng chịt những dây leo thưa dần ra, cuối cùng nhường chỗ cho những cánh rừng khọoc bạt ngàn quang đãng mở ra nom thật thích mắt. Những cây khọoc to lớn, lực lưỡng, mùa khô đã trút gần hết lá lao thẳng lên giữa nền trời đầy nắng và gió. Mặt đất bằng lì được trải dưới một lớp lá khô giòn tan như bánh đa mới nướng làm rừng vừa sạch sẽ lại vừa phóng khoáng. Nắng! Ngước nhìn lên chỉ thấy những chiếc lá khọoc cuối cùng đang quắt lại, lay lắt, run rẩy trong những đợt gió dữ dội của cánh Nam. Mới đầu mùa khô mà bầu trời không lấy một gợn mây. Những đám mây đen dày đặc ngự trị bầu trời suốt sáu tháng nay như đã bị mặt trời đốt cháy. Mặt trời không còn rõ nét. Chỉ thấy một vành mờ sáng trắng, lóa lên những vầng lửa hung hãn thiêu đốt mặt đất đã khô cong. Những con suối nhỏ đã cạn hết nước. Lòng suối khô khốc phơi ra những tảng đá trắng mốc lên hơi hầm hập. Họa hoằn lắm mới gặp một vũng nước còn sót lại mà những đám rêu quanh đấy đã bị dẫm nát bởi muôn vàn những dấu chân người, chân thú. Văn đặt ba lô lên một gốc cây đổ men theo dòng suối đến vũng nước. Một đàn bướm đông nghịt, đủ các mầu sắc đang đậu trên những miếng đất ẩm ướt giật mình tung lên. Những cánh bướm quạt nắng chấp chới “ Còn em thương bên tây anh mùa đông Nước khe cạn bướm bay lèn đá Biết lòng anh say miền đất lạ….” Văn chợt nhớ đến bài hát “Trường Sơn đông, Trường sơn tây” Mà anh rất thích. Chính cái cảnh này đây đã làm anh “Say miền đất lạ” và bây giờ anh đã gặp nó rồi. Hồi Văn vào là cuối mùa mưa, mùa măng đã qua. Rừng tre chỉ còn lại những cây măng nhọn hoắt, cao vút. Cô gái giao liên một lần nhìn thấy bữa cơm ăn với canh ruốc lèo tèo vài ngọn rau tàu bay của bọn Văn đã bảo. - Sao các anh không đi lấy măng về mà ăn? - Măng năm ngoái à, Đồng chí? Văn đã lém lỉnh hỏi lại. Tất cả cười ồ. Cô giao liên cũng cười một cách dễ dãi. - Các anh không biết đấy thôi. Đến cuối tháng mười mới hết vụ măng cơ mà. Bọn Văn ngớ người không biết cô gái nói gì. Về sau hỏi lại mới biết ở Trường sơn này măng có ba vụ. Đầu mùa mưa, những chiếc măng mới nhú lên khỏi mặt đất như những chiếc sừng nghé. Muốn ăn, người ta phải đào xuống đất lấy cả củ măng mang về vụ ấy gọi là vụ măng đào. Vào giữa mùa mưa, những ngọn măng đã mọc khá cao, muốn ăn chỉ việc lấy chân đạp gẫy ngọn măng bỏ vào gùi nên gọi là vụ măng đạp. Vụ này là vụ măng chính. Măng vừa nhiều, vừa ngon lại dễ lấy. Còn bây giờ, những ngọn măng đã mọc cao tít tắp, người ta phải rung cây măng cho ngọn rụng xuống mang về ăn. - Mà lấy măng rung các anh nhớ phải lấy mũ cứng đội vào không ngọn măng rơi vào đầu thì khốn. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Trận Phía Sau của tác giả Nguyễn Thế Duyên.