Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Không Giới Hạn

Bạn đã chán tám tiếng ngày qua ngày tại văn phòng? Bạn ngại sự thay đổi vì sợ rủi ro, sợ mất mát? Bạn có ước mơ nhưng không dám vượt ra khỏi sự “ổn định” để chinh phục ước mơ? Vậy thì “Không giới hạn” chính là cuốn sách chỉ ra các bước cơ bản để bạn biết cách nhận diện ước mơ của bản thân, tìm ra cách thức chinh phục ước mơ  và biết cách vượt ra khỏi khuôn mẫu, vỏ bọc an toàn để ghi tên mình trong một cuộc sống đầy ý nghĩa. "Không giới hạn" sẽ dẫn lối bạn đến với một thế giới mới. Ở nơi đó, không có ước mơ nào là không thể thực hiện. Ở nơi đó, không gì là không thể. Mỗi người một câu chuyện khác nhau. Tuy nhiên, để vươn đến thành công vượt trội hơn bao người, những tỷ phú trên đều phải vượt qua nhiều thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống. Một trong số đó có thể dễ dàng quật ngã bất kỳ ai nản chí. Cũng có nhiều người có xuất phát điểm tương tự họ, cùng sống trong một thời đại, nhưng không phải ai cũng trở thành tỷ phú. Hầu hết những người trải qua nỗi cơ cực tương tự đều đầu hàng và từ bỏ ước mơ của mình. Chỉ có những người trụ vững, kiên định với đam mê, mới có thể đến được đích cuối cùng. Cuộc sống được tạo ra với tất cả sự đa dạng vốn có.  Mọi sự thay đổi, dù là nhỏ nhất, cũng không hề dễ dàng. Thay đổi là điều hoàn toàn tự nhiên. Nó là yếu tố giúp con người tồn tại và phát triển. Bạn không thể kéo lùi sự thay đổi. Đó là điều mà không một ai có thể làm được. Vì vậy, hãy chuẩn bị và thích nghi. Chúng ta có những nhu cầu, những mong muốn và những ước mơ rất khác nhau trong cuộc sống. Chúng ta cần tìm được nhịp điệu của riêng mình bằng việc theo đuổi ước mơ. Vì vậy, đừng để sự do dự ngăn cản bước chân của bạn. *** Giới hạn nào của con người? Ý kiến chuyên gia: “Đừng để người khác quyết định giới hạn của bạn chỉ vì nơi bạn sinh ra. Tâm hồn bạn là nơi duy nhất có thể làm điều đó.” – Đầu bếp Gusteau “Con người không thể chạy 100m ít hơn 9,7 giây.” Đó là kết luận của các nhà khoa học tại Đại học Stanford, California, Hoa Kỳ vào năm 2008. Con số này được đưa ra sau khi họ nghiên cứu dựa trên dữ liệu tổng hợp của các môn điền kinh, đua chó và đua ngựa trong suốt 50 năm. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các vận động viên điền kinh chuyên nghiệp đã đạt 99% giới hạn về mặt thể lực. Điều này có nghĩa là con số 9,7 giây trở thành ngưỡng cực đại. Nghiên cứu này đã khiến nhiều người thất vọng. Liệu đây có phải là dấu chấm cuối cùng cho kỷ lục 100m? Trong khi các khoa học gia đang cảm thấy hài lòng, tại một nơi khác trên thế giới, một cá nhân vẫn đang miệt mài tập luyện. Anh không hay biết gì về kết quả cuộc nghiên cứu. Mùa hè năm ấy, chỉ vài tháng sau kết quả trên được công bố, anh đã khiến cả thế giới phải nghiêng mình thán phục. Anh đã vượt khỏi giới hạn của con người. Tên của anh là Usain Bolt. Olympic Bắc Kinh đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của vận động viên điền kinh người Jamaica, Usain Bolt. Anh đã hoàn thành phần trình diễn ngoạn mục trên đường chạy 100m với thời gian 9,69 giây. 9,69 giây – nhanh hơn 1% giây so với giới hạn mà con người có thể đạt được. Kết quả trên càng thuyết phục khi nó được thiết lập trong điều kiện các vận động viên không được lợi về gió (mức gió + 0,0 được đo tại thời điểm diễn ra thi đấu). Hơn thế nữa, Usain Bolt đã chủ động chạy chậm lại vào thời khắc cuối để ăn mừng chiến thắng. Huấn luyện viên của Bolt khẳng định rằng nếu duy trì tốc độ như trong 60m đầu, anh ta có thể về đích với thành tích 9,52 giây. Các nhà nghiên cứu Vật lý của Đại học Olso, đại học lớn nhất và có truyền thống lâu đời nhất của NaUy, đã dựa trên thông số kỹ thuật các bước chạy của Bolt và đưa ra dự đoán anh ta có thể hoàn tất cuộc thi với thời gian xấp xỉ 9,55 giây nếu như không chạy chậm lại tại đích đến. Câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Một năm sau đó, tại giải đấu thế giới được tổ chức tại Berlin, Đức, Usain Bolt đã phá kỷ lục của chính mình với thời gian 9,58 giây. Đây vẫn là cột mốc đáng tự hào của điền kinh thế giới. Trong khi Bolt và các đồng đội đang hân hoan trong niềm vui chiến thắng, thì tại nhiều nơi trên thế giới, các nhà khoa học tiếp tục có sự tranh cãi về con số giới hạn tiếp theo trong cự ly 100m. Liệu nó sẽ là 9,5? 9,44 hay 9,4? Tuy nhiên, điều mà tất cả người hâm mộ điền kinh trên thế giới quan tâm không phải là “Đâu là giới hạn của con người?” Điều họ thật sự khao khát chứng kiến chính là “Khi nào các giới hạn này sẽ bị đánh bại (một lần nữa)?” Giới hạn 9,7 giây đã bị phá vỡ chỉ trong vài tháng. Thế nhưng, trong thể thao, có những giới hạn con người tự đặt ra đã tồn tại trong suốt hơn nửa thế kỷ. Vào đầu thế kỷ XX, sau khi quan sát thành tích thi đấu của các vận động viên trong cự ly 1500m, các nhà chuyên môn đã khẳng định rằng: “Không thể chạy 1500m dưới thời gian 4 phút.” Con số này đã có ảnh hưởng. Kể từ khi được xác lập, không một cá nhân nào có thể chạm đến gần đến cột mốc đầy thử thách ấy. Điều này kéo dài gần 50 năm. Cho đến khi vận động viên người Anh, Roger Bannister kết thúc cuộc đua với thành tích 3 phút 59,4 giây vào ngày 06/05/1954. Ông đã nhanh hơn 0,6 giây so với giới hạn được đặt ra. Liệu cơ thể của Roger Bannister được cấu tạo với một thể chất vượt trội? Hay ông đã khám phá được một phương pháp tập luyện bí mật? Bạn sẽ bất ngờ khi biết rằng ông không phải là một vận động viên chuyên nghiệp. Trong giai đoạn phá vỡ cột mốc giới hạn, ông đang là một bác sĩ trẻ và dành rất ít thời gian để luyện tập. Nếu như câu chuyện dừng lại ở đây, bạn sẽ thấy nó cũng không khác mấy so với sự đột phá của Usain Bolt. Đừng quá lo lắng, đây chỉ là sự khởi đầu. Roger Bannister không những là người đầu tiên phá vỡ kỷ lục, ông còn là người đầu tiên xóa bỏ tấm màn bí mật về giới hạn của con người. Sau khi cột mốc 4 phút bị phá vỡ, chỉ 46 ngày sau đó, vận động viên người Úc John Landy đã phá kỷ lục với thời gian 3 phút 58 giây. Không dừng lại ở đó, một năm sau, vận động viên người Anh, Derek Ibbotson, tiếp tục phá vỡ kỷ lục với thời gian 3 phút 57 giây. Kỷ lục thế giới hiện nay thuộc về Hicham, vận động viên Maroc với thời gian 3 phút 43 giây. Thời điểm hiện tại, hầu hết các vận động viên điền kinh cự ly 1500m ở các giải thế giới đều có thể vượt qua cột mốc 4 phút – một thời được xem là đỉnh điểm giới hạn của con người. Điều gì đã xảy ra trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ? Khi không ai chạm đến cột mốc sừng sững ấy. Nhưng chỉ cần một người phá vỡ, ngay lập tức, các vận động viên khác đều có thể làm được?? Giới hạn không nằm trong thể chất hay trí tuệ. Giới hạn nằm trong chính suy nghĩ của chúng ta. Bạn đã biết điều này. Tuy nhiên, hãy cẩn thận. Bạn đã đi gần hết cuộc hành trình Không giới hạn. Có thể bạn đã nhìn thấy ước mơ trở nên sống động hơn bao giờ hết. Trong giai đoạn đầy lạc quan ấy, một chiếc bẫy cuối cùng vẫn đang ngấm ngầm chờ đợi. Nó sẽ đặt dấu chấm hết cho mọi ước mơ. Nó sẽ ru người ta trong niềm hy vọng. Nó sẽ hút cạn niềm tin. Từng chút. Từng chút một. Bạn có sẵn sàng cho chiếc bẫy cuối cùng này? Chiếc bẫy cuối cùng – sự lạc quan Ý kiến chuyên gia: “Giấc mơ rồi sẽ qua đi, nhưng sau đó sẽ còn hy vọng.” – Tarzan Hãy mở trang 149 của tác phẩm Từ tốt đến vĩ đại của tác giả Jim Collins. Bạn sẽ được trải nghiệm một trong những khoảnh khắc ấn tượng nhất của cuốn sách. Tác giả có cơ hội phỏng vấn vị tướng Jim Stockdale về thời gian ông bị giam cầm hơn 8 năm tại trại tù nhân chiến tranh. Trước khi đến gặp Stockdale, tác giả Jim Collins có đọc qua tác phẩm In love and war (tạm dịch: Trong tình yêu và chiến tranh), một quyển sách do Stockdale và vợ luân phiên nhau viết trong suốt tám năm khó khăn. Cuối cùng, Collins nhận ra: “Tôi đang ngồi đây trong một căn phòng ấm cúng, nhìn ra sân trường Stanford thật đẹp, trong một chiều Chủ nhật êm đềm. Tôi cảm thấy buồn khi đọc quyển sách, mặc dù tôi biết rõ kết thúc của nó. Tôi biết ông sẽ thoát ra được, sẽ gặp lại gia đình, trở thành một anh hùng dân tộc, và sẽ trải qua những năm cuối đời nghiên cứu triết học cũng tại ngôi trường xinh đẹp này. Nếu tôi cảm thấy buồn, thì làm sao ông đối mặt với thực tế khi ông đang bị giam và không biết kết cục ra sao?” Đem câu hỏi này phỏng vấn vị tướng, tác giả đã nhận được câu trả lời: “Tôi chưa bao giờ mất niềm tin vào kết cục câu chuyện. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ rằng mình không chỉ thoát được, mà tôi còn chiến thắng và biến những trải nghiệm thành một sự kiện quan trọng trong cuộc đời, mà nếu nhìn lại, tôi không muốn đánh đổi.” Họ tiếp tục chuyến đi dạo trong sân trường đại học. Stockdale phải đi khập khiễng vì một chân của ông đã cứng lại sau nhiều năm ở trong tù. Sau khi đi khoảng 100m trong im lặng, Collins tiếp tục hỏi: “Vậy những người nào đã không thoát được?” “Ồ, dễ biết lắm. Những người lạc quan.” “Những người lạc quan? Tôi thật không hiểu.” (Điều này có vẻ trái ngược hoàn toàn so với những gì vị tướng vừa chia sẻ trước đó.) “Những người lạc quan. Họ là những người sẽ nói: “Chúng ta sẽ được thả vào giáng sinh.” Rồi Giáng sinh đến, Giáng sinh đi. Họ lại nói: “Chúng ta sẽ được thả vào lễ Phục sinh.” Rồi lễ Phục sinh đến, lễ Phục sinh đi. Và rồi sau đó là lễ Tạ ơn, rồi lại Giáng sinh nữa. Và rồi họ chết vì trái tim tan nát.” Vị tướng tiếp tục: “Đây là một bài học rất quan trọng. Anh không được lẫn lộn giữa niềm tin cuối cùng mình sẽ chiến thắng - điều này anh không được để mất - và kỷ luật để đối diện sự thật hiện tại, bất kể nó như thế nào.” (Chúng ta sẽ không được thả vào Giáng sinh và chúng ta sẽ chấp nhận như thế. Nhưng chúng ta phải tin vào kết cục cuối cùng.) Câu chuyện này không những để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả Jim Collins, mà nó còn là kim chỉ nam giúp tôi vượt qua những tháng ngày đen tối nhất. Trong cuộc sống, dù có tiếp tục theo đuổi ước mơ hay không, bạn sẽ luôn phải đối mặt với những biến cố không mong muốn. Đó có thể là một cơn bệnh hiểm nghèo, một tai nạn không báo trước, một quyết định thiếu sáng suốt, một sự ra đi mất mát… Thế nhưng, đó không phải là lý do để chúng ta chìm đắm trong những cơn ác mộng. Hãy lắng nghe lời hướng dẫn của Jim Collins trong chiếc bẫy cuối cùng: “Con người khác nhau không phải vì họ gặp hay không gặp những điều khó khăn không thể tránh khỏi trong cuộc sống. Khi phải đấu tranh với những thử thách, nghịch lý Stockdale (bạn phải giữ vững niềm tin rằng cuối cùng mình sẽ chiến thắng, và đồng thời phải đối diện sự thật phũ phàng của hiện tại) tỏ ra rất hữu hiệu giúp bạn vượt qua khó khăn và trở nên mạnh mẽ hơn chứ không hề yếu đi – không chỉ đối với riêng tôi, mà cho tất cả những ai đã học được bài học này và cố gắng áp dụng nó.” Ước mơ lan tỏa Ý kiến chuyên gia: “Ngay cả phép thuật cũng cần thời gian để hiệu nghiệm.” – Bà tiên – Cinderella32 32. Cinderella: là một bộ phim kỳ ảo lãng mạn của Hoa Kỳ do Kenneth Branagh đạo diễn dựa trên phần kịch bản được viết bởi Chris Weitz. Tháng 01/2014, tôi được sống trong thế giới của ước mơ. Tôi có cơ hội tuyệt vời khi được hòa mình vào một không gian nhiều màu sắc của các bạn trẻ trong cuộc thi “Thực hiện ước mơ” lần II. Đây là cuộc thi hằng năm dành cho đối tượng học sinh THPT nhằm hỗ trợ các bạn trong việc xác định và nuôi dưỡng ước mơ nghề nghiệp tương lai, được Thành Đoàn Tp.HCM phối hợp cùng Trung tâm Hỗ trợ Học sinh, sinh viên thành phố, Viện Đào tạo Quốc tế – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh tổ chức. Một buổi sáng Chủ nhật đầu năm mới, tôi đến trường Đại học Kinh tế với một tâm trạng đầy phấn khích. Đã từ rất lâu rồi, tôi mới bước chân vào khuôn viên giảng đường đại học. Với những trải nghiệm của bản thân, tôi hy vọng mình có thể hỗ trợ các bạn. Thế nhưng, như mọi khi, tôi đã lầm. Tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác trước những gì mình chứng kiến. Phần dự thi của các bạn trên cả tuyệt vời. Nó khiến tất cả mọi người trong khán phòng hôm ấy phải thốt lên kinh ngạc. Không ai có thể tin được mình đang lắng nghe các bạn học sinh trung học. Các bạn tràn đầy tự tin khi trình bày ý tưởng. Các bạn có một sự hiểu biết thấu đáo về ước mơ mình lựa chọn. Có ước mơ bắt nguồn từ việc trải nghiệm những bất công trong cuộc sống. Có ước mơ ươm mầm từ tình yêu thương vô bờ bến với những người cùng cảnh ngộ. Có ước mơ xuất phát từ khát khao chinh phục bầu trời. Mỗi ước mơ, các bạn mang đến cho khán giả và ban giám khảo những cung bậc cảm xúc rất khác. Tuy nhiên, điểm chung chính là khát vọng mãnh liệt ánh lên trong từng đôi mắt. Đến với cuộc thi với tâm thế người hỗ trợ, tôi trở về nhà với rất nhiều bài học sâu sắc. Tôi có niềm tin mãnh liệt vào các bạn, vào thế hệ tiếp nối, một thế hệ với những hoài bão và khát khao. Tôi tin vào ước mơ của các bạn. Tôi tin vào ước mơ của mỗi người. Tôi tin đó là những điều tốt đẹp nhất. Nhịp điệu nào cho riêng bạn? Không có ước mơ cho riêng mình, chúng ta phải sống với ước mơ của người khác. Không có được nhịp điệu cho riêng mình, chúng ta phải hòa mình vào nhịp điệu của xã hội. Cuộc sống, thay vì là khoảng thời gian hạnh phúc mỗi người tận hưởng trên Trái đất, lại biến thành một cuộc đua tranh quyết liệt không hồi kết. Bạn đã thoát ra khỏi vòng xoáy? Bạn đã kiếm được nhịp điệu cho riêng mình? Mọi bất hạnh trong cuộc sống đều bắt nguồn từ việc không thể theo đuổi ước mơ. Do phải sống với ước mơ của người khác, hay chính xác hơn, sống cuộc sống của người khác, chúng ta luôn sợ hãi. Chúng ta không biết mình sẽ đi đâu, sẽ làm gì. Từ sợ hãi, chúng ta tranh thủ gom góp thật nhiều tiền tài, của cải, danh vọng. Và khi đạt được, nỗi sợ hãi vẫn không thể biến mất... Thế giới này, cuộc sống này, được tạo ra đầy đủ với tất cả sự đa dạng vốn có. Chim trên trời, cá dưới nước, đều có vị trí riêng. Chúng có nhu cầu khác nhau, có sức ảnh hưởng khác nhau. Thế nhưng, tất cả đều hòa hợp trong nhịp sống. Chúng đủ đầy. Chỉ duy nhất có loài người là khác biệt. Chúng ta bị tiêm nhiễm rằng cuộc sống luôn thiếu thốn; rằng chúng ta chỉ có chung một mục đích. Nếu như chúng ta không giành được, điều đó sẽ đánh mất vào tay của người khác. Điều này đã khiến lịch sử loài người luôn chìm đắm trong nỗi bất hạnh. Biết bao cuộc chiến đã nổ ra, từ đủ mọi nguyên nhân khác nhau: thực phẩm, tài nguyên, nguồn lực, niềm tin, tôn giáo… Chúng ta luôn phải giành giật. Thế giới này quá chật chội. Ở góc độ nhỏ hơn, đó là những cuộc tranh đua địa vị, quyền lực, tài sản, nhà đất... Tại sao có điều này? Bởi vì chúng ta là nô lệ. Chúng ta là nô lệ của chính mình. Chúng ta bị định hướng bởi một hình mẫu thành công nhất định. Đó phải là người có địa vị, quyền lực, tài sản, mặc những trang phục đẹp, những chiếc xe đắt tiền, hay đến những nơi cao cấp… Thay vì tìm kiếm nhịp điệu riêng, chúng ta lao vào những cuộc chiến để giành được những điều này. Để rồi khi đạt được, tâm hồn bỗng nhiên trống trải... Khi ấy, bất hạnh bắt đầu xuất hiện. Không. Cuộc sống không phải vậy. Cuộc sống được tạo ra với tất cả sự đa dạng vốn có. Ước mơ của tôi là trở thành một nhà văn, trong khi bạn gái tôi muốn là một cô giáo dạy trẻ. Tôi ước có một chiếc Cafe racer, trong khi anh trai tôi yêu thích dòng xe Vespa. Tôi xem bóng rổ là một môn thể thao giải trí, trong khi có rất nhiều người khao khát trở thành vận động viên chuyên nghiệp. Chúng ta có những nhu cầu, những mong muốn và những ước mơ rất khác nhau trong cuộc sống. Chúng ta cần tìm được nhịp điệu của riêng mình. Bằng việc theo đuổi ước mơ. Chúng ta sẽ tìm thấy sự hòa hợp. Một khi tất cả ước mơ đều trở thành hiện thực, cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa, đa dạng và đầy màu sắc. Khi ấy, mọi bất hạnh sẽ không còn. Chúng ta sẽ không còn tranh đấu. Chúng ta chỉ còn yêu thương. Hãy tìm nhịp điệu của riêng mình. Đó chính là tự do. Đó chính là hạnh phúc. Thế giới được tạo ra với tất cả sự đầy đủ. Cuộc sống này luôn đủ chỗ cho bạn, cho tôi, cho tất cả mọi người. Hãy tìm kiếm nhịp điệu của riêng mình. Bạn cần nó. Tất cả mọi người đều cần nó. Bởi vì cuộc sống này là không giới hạn. Bạn sẽ được nhớ đến như thế nào? “Đây là cơ hội cuối cùng. Sau chuyện này, anh sẽ không còn đường quay lại. Nếu chọn viên thuốc xanh, câu chuyện sẽ kết thúc. Anh sẽ tỉnh dậy trên giường của mình và tin những điều anh muốn tin. Nếu chọn viên thuốc đỏ, anh sẽ sống trong Wonderland và tôi sẽ chỉ cho anh thấy hố thỏ này sâu đến mức nào. Hãy nhớ, tất cả những điều tôi đem lại không gì khác ngoại trừ sự thật.” Tôi biết, bạn đang ở ngoài đó. Tôi có thể cảm nhận bạn. Tôi biết, bạn đang sợ hãi... sợ hãi về chúng ta. Bạn sợ hãi sự thay đổi... Tôi không biết về tương lai. Nên tôi không ở đây để kể cho bạn nghe một kết thúc. Tôi ở đây để kể cho bạn nghe về một bắt đầu. Bạn sẽ ngừng đọc. Bạn sẽ trở lại thế giới, một thế giới đã khác đi rất nhiều... Bạn sẽ thấy những điều mình chưa thấy... Hãy kể tôi nghe... Và khi bạn thấy những điều tôi đã thấy... Hãy kể tôi nghe... Tôi biết, bạn đang ở ngoài đó. Đừng để sự do dự cản trở bước chân bạn. Bởi vì cuộc sống là không giới hạn. Mời các bạn đón đọc Không Giới Hạn của tác giả Đặng Quốc Bảo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi
Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.
Cổ Nhân Đàm Luận - Cầm Đài & Trần Trung Viên
NHỜI NÓI ĐẦU Người xưa dẫu khuất, truyện cũ còn ghi. Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng hãy còn chơ chơ. Nói một câu mà muôn đời sử sanh còn chép, luận một nhẽ mà mấy kiếp miệng thế còn chuyền. Nhất ngôn hưng bang nhất ngôn táng quốc, một nhời nói ra mà nước vững nhà yên, một nhời nói ra mà bể dao núi động. Quan-hệ thay là lời nói ! Xét ra các bậc đế-vương, vĩ-nhân, anh-hùng, hào-kiệt ; chí-khí hiên ngang, công-danh cái thế, sự-nghiệp ngang-tàng, non song chung đúc, kể đã bao phen vật đổi sao dời, mà tiếng tăm còn lừng-lẫy, muôn thuở nào quên. Ấy chẳng phải là những người đã dìu-dắt dậy khôn cho hậu-sinh dư ! Gương sáng ví tầy nhật nguyệt, khí thiêng tựa với càn khôn ; những nhời vàng tiếng ngọc đó, ta há nỡ quên sao ? Vậy nên lưu chữ lấy mà mở mang chí-khí, mà nghiền mà nghĩ cho kỹ-càng cho thấm-thía, họa may óc non dổi nên sắt đá, khỏi phải như sáp, mà muốn nận vuông nên vuông, nận tròn nên tròn, mang tiếng nhược-nhu. Vậy thì anh em ta, đang lúc ở vào buổi Âu Á dao thời này, cũng nên đọc mấy câu cổ ngữ sau đây chẳng cũng là một phương thể thao cho tinh-thần dư ? Mong thay ! Mong lắm thay ! Ngày mồng 3 tháng chạp năm Mậu-Thìn (13 Janvier 1929) T. T. V. *** Cống-Chỉnh là một tay dan hùng đời Lê, trước sau không một, chỉ biết lợi mình. Khi bỏ ngoài Bắc vào theo Tây-Sơn, rồi dắt quân Tây-Sơn ra Bắc sâm lấn, làm lắm điều tàn bạo. Chỉnh có một người bạn thân tên là Thế-Long. Một hôm hai người nói truyện việc nước, Chỉnh có ý thương tiếc chúa Trịnh ; Thế-Long nhân dịp muốn toan mưu dúp đỡ nhà Chúa mới nói rằng : « Ông tuy nói thì nhân nghĩa mà bụng ông thì tàn-bạo. Trước ông xuất thân, được danh giá cũng nhờ có chúa Trịnh, nay ông lại dúp Tây-Sơn mà diệt Trịnh, kể tội chúa Trịnh là hiếp vua, sao ông không xét công chúa Trịnh phù Lê hơn 200 năm. Ông theo người mới hại người cũ là bất nghĩa ; kể tội người, không kể công người là bất nhân. Làm đời trượng-phu mà lại đeo tiếng ấy sao ? » Cống-Chỉnh nghe song thẹn nói rằng : « Tôi vì đạo nhớn thiên-hạ mà diệt Trịnh tôn Lê, đó là rất nhân-nghĩa, sao gọi được là tàn-bạo. » Thế-Long nói : « Vua Lê vẫn tôn mà nước vẫn yên, can gì phải nhờ đến ông dúp, chẳng qua ông chỉ mượn tiếng là tranh cướp. Ông đưa quân Tây-Sơn về hại dân hại chúa, cả nước ai cũng cho ông là thú dữ, tôi nói tàn bạo là còn nể ông đấy ông đừng dữ mãi lỗi cáo đội lốt cọp mà rồi nhân tâm ngày một thêm thù oán. Ông sẽ là người có tội với cả nước, thì rồi cả nước dong ông làm sao được, » Cống-Chỉnh nghe xong giận quá, nhưng mà cứ điềm nhiên nói rằng : « Thôi anh đã chót bạn với thú dữ thì nên nghĩ mưu gì hộ thú dữ với ! » Thế-Long nói : « Nay ông dẹp bọn kiêu binh đã song, chỉ nên điều-đình với Tây-Sơn cho rút quân về, rồi tìm người hiền nhà Trịnh lập lên là yên. » Chỉnh nói : « Thế thì anh cứ về xem có người hiền nhà Trịnh nào, sẽ đem nhời ra nói mà kiếm đường tiến thân nhé ! » Thế-Long từ dở ra, Chỉnh nói một mình rằng : « Tên nó là Long, long là rồng, rồng nên cho nó xuống nước mới được, kẻo để trên cạn nó hại người ! » Nói song mật sai người ra đón Long ở ngoài cổng, bắt chói quăng xuống sông Nhị Hà.   Mời các bạn đón đọc Cổ Nhân Đàm Luận của tác giả Cầm Đài & Trần Trung Viên.
Cãi Gì Cũng Thắng - Madsen Pirie
Hiểu biết về ngụy biện cung cấp khả năng phòng thủ cũng như tấn công cho bất kỳ ai. Khả năng phát hiện ra các ngụy biện sẽ cho phép bạn bảo vệ bản thân khi chúng được những người khác sử dụng và khả năng sử dụng các ngụy biện tài tình sẽ cho phép bạn thành công và ở thế công kích khi bạn hướng tranh luận theo cách của mình. Lý luận hợp lý là nền tảng để chiến thắng trong mọi cuộc tranh luận. Cuốn sách này được viết ra như một chỉ dẫn thực tiễn cho những ai mong muốn giành chiến thắng trong tranh luận. Nó dạy bạn cách tạo ra những ngụy biện quỷ quái và hiểm ác một cách có chủ ý ; từ đó bạn có thể nhận ra chúng trong các cuộc tranh luận và biết cách đối phó với nó. Tác giả mô tả từng ngụy biện đi kèm với ví dụ và lý giải vì sao chúng mang tính dối lừa. Sau những đoạn văn miêu tả tổng quát về lịch sử hay sự xuất hiện của một ngụy biện, tác giả đều khuyến nghị người đọc về cách thức và tình huống sử dụng giúp ngụy biện phát huy hiệu quả dối lừa cao nhất. Cuốn sách sẽ dạy người đọc cách tranh luận hiệu quả, thậm chí là không trung thực. Tuy nhiên, trong quá trình học cách tranh luận, và trong quá trình thực hành cũng như đánh bóng các ngụy biện, người đọc sẽ biết được cách xác định và xây dựng hệ thống miễn nhiễm trước các ngụy biện kia. Độc giả sẽ được cung cấp một kho từ vựng để đối thoại với các chính trị gia và những tay bình luận truyền thông. Hiểu biết về ngụy biện cung cấp khả năng phòng thủ cũng như tấn công cho bất kỳ ai. Khả năng phát hiện ra các ngụy biện sẽ cho phép bạn bảo vệ bản thân khi chúng được những người khác sử dụng và khả năng sử dụng các ngụy biện tài tình sẽ cho phép bạn thành công và ở thế công kích khi bạn hướng tranh luận theo cách của mình. Tiến sĩ Ducam Madsen Pirie (sinh ngày 24/08/1940) là một nhà nghiên cứu, một tác giả và một nhà giáo dục người Anh. Ông là người sáng lập và hiện là chủ tịch Viện nghiên cứu Adam Smit. *** Bạn đọc thân mến, Vừa qua, chúng tôi đã ra mắt bạn đọc cuốn sách đầu tiên trong bộ sách về biện luận của Alpha Books, cuốn Viết gì cũng đúng của Anthony Weston. Đây là cuốn sách dẫn nhập cô đọng về nghệ thuật viết và cách đưa ra những lập luận sắc bén, thông qua các nguyên tắc cụ thể được giải thích và minh họa đầy đủ, ngắn gọn. Viết gì cũng đúng được xem như cuốn giáo khoa thư nổi tiếng, đã được dịch sang 8 ngôn ngữ - vẫn là lựa chọn đầu tiên với những ai tìm kiếm một cuốn sách hướng dẫn dễ hiểu về cách đưa ra các lập luận vững chắc.  Cuốn sách tiếp theo trong bộ sách này chính là ấn phẩm bạn đang cầm trên tay, cuốn Cãi gì cũng thắng. Trong cuốn sách dí dỏm và mang tính truyền nhiễm này, Madsen Pirie cung cấp một hướng dẫn đầy đủ cách sử dụng – mà thực ra là lạm dụng – lý luận để giành chiến thắng trong mọi tranh luận. Ông xác định tất cả những ngụy biện thông dụng nhất trong tranh luận với các ví dụ mang sức mạnh hủy diệt. Chúng ta đều cho rằng mình là người có suy nghĩ rõ ràng và hợp lý nhưng sau khi đọc xong cuốn sách này, ta sẽ nhận ra những ngụy biện mà mình sử dụng. Tác giả chỉ cho bạn thấy cách cùng lúc tăng cường sức mạnh cho suy nghĩ của bạn và tìm ra điểm yếu trong những lập luận của người khác. Và tinh quái hơn, Pirie còn chỉ cho bạn cách để trở nên phi lý một cách tinh tế mà không bị phát hiện. Cuốn sách này sẽ biến bạn trở thành một người thông minh đến phát bực: gia đình, bạn bè và các đối thủ của bạn đều sẽ ước ao rằng bạn chưa từng đọc nó. Xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc cuốn sách hấp dẫn này! Hà Nội, tháng 4 năm 2012 Mời các bạn đón đọc Cãi Gì Cũng Thắng của tác giả Madsen Pirie.
Làm Thế Nào Để Chinh Phục Đối Phương - Tako Kagayaki
Nhận thấy cuốn sách "Làm thế nào để chinh phục đối phương" của tác giả Tako Kagayaki - Giáo sư trường Đại học Chi ba - Nhật Bản nhằm trang bị cho các bạn trẻ những kiến thức, những kỹ xảo tâm lý để hiểu lòng người, nhằm đạt hiệu quả mong muốn trong giao tiếp xã hội, đàm phán, hợp tác trong công tác, trên thương trường. . . Những kiến thức tâm lý ấy được ứng dụng vào đời sống qua những ví dụ cụ thể, sinh động thật thú vị và cần thiết cho các bạn trẻ. Cùng với sự hưởng ứng đón nhận nồng nhiệt của các bạn trẻ về mảng sách "Tâm lý học ứng dụng" của Nhà xuất bản Thanh Niên, mà đọng lại là "Nghệ thuật hiểu thấu tâm lý người khác". "Thuật tâm lý gìn giữ tình yêu". "Nghệ thuật ứng xử và sự thành công của mỗi người", "Ấn tượng trong phút đầu giao tiếp", nay chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một tác phẩm nữa thuộc loại này "Làm thế nào để chinh phục đối phương". Hy vọng những kiến thức thu nhận được sẽ giúp bạn trẻ tự tin hơn, để thành đạt trong cuộc sống. Nhà xuất bản Thanh niên *** "Đoán xem tôi là ai" là một tiết mục lý thú của Đài truyền hình NHK (Đài truyền hình Nhật Bản). Tiết mục này quy định 3 người đóng giả và 1 người thật cùng ra sàn diễn, người đoán có thể hỏi các kiểu câu hỏi, sau đó đoán tìm xem ai là người thật, người đoán khó tránh khỏi bị mắc bẫy, đến cả khán giả truyền hình cũng có khi bị lơ mơ. Tôi có dịp mong làm người đoán một lần. Đề tài mà tôi được tham dự là tìm ra một ngôi sao bóng bàn của Nhật trong số bốn người Phụ nữ. Khi đó tôi hỏi họ câu hỏi như thế này: "Hễ là người chơi bóng bàn, hẳn ai cũng biết rõ vận động viên nữ tên là A. Xin hỏi các cô, thời kỳ cô ta đạt phong độ nhất là trước hay sau Đại chiến thế giới II?”. Mọi người chắc đều biết rằng không có vận 1 động viên tên A này, mà chỉ là mồi nhử tôi tưởng tượng ra mà thôi. Đó chỉ là một mẹo nhỏ mà giúp tôi đoán được thân phận thực của họ. Ba trong bốn người đó trả lời một cách rất tự tin rằng "trước" hoặc "sau”; chỉ có một người thì lắp bắp nói cô ta không biết. Tôi đoán ra người này mới là ngôi sao bóng bàn thực sự, kết quả tôi đã đúng. Tôi nghĩ, câu hỏi nhỏ kiểu "Thả con săn sắt bắt con cá rô" của tôi này sở dĩ có thể mò ra được ngôi sao bóng bàn thực là vì câu hỏi của tôi ẩn chứa một kết cấu hai tầng. Trước tiên, tôi tạo cho họ một tiền đề "Ai cũng đều biết", để họ không nghi ngờ và phủ định nội dung tôi đưa ra, kết quả là họ đã tiếp nhận, nên khi tôi để họ chọn là trước hay sau chiến tranh, họ đã sai lầm khi coi nhẹ tiền đề trên, nên đều cảm thấy rằng không A thì B, không B thì A. Như vậy người có thân phận giả tự chui vào tròng, lộ rõ nguyên hình; còn người có thân phận thật thì có thái độ ngượng ngùng về sự không biết của mình. Tất nhiên tôi chỉ nghĩ ra kết cấu này với điều kiện người có thân phận thật trả lời đúng sự mẹo nhỏ này thì e rằng tôi cũng khó mà thu được thắng lợi. Con người ta ai cũng có một mặt tương đối yếu. Chỉ cần hiểu một chút về nhược điểm, khuyết điểm tâm lý và tính mù quáng tâm lý của họ thì có thể dẫn dắt được họ. Chính vì nắm bắt và lợi dụng được nhược điểm về tâm lý của con người, bọn lừa đảo mới làm cho nhiều người từng trải phải bó tay. Tất nhiên, cố ý lừa gạt lấy tiền của người khác, đem lại nỗi bất hạnh lớn cho họ là một hành vi phạm tội. Ở đây tôi chỉ muốn nói rằng, chỉ cần thông thuộc các loại tâm lý của con người, đối xử bằng những phương pháp khác nhau đối với những người khác nhau, thì có thể đạt được hiệu quả mong đợi. Chẳng hạn, đối với học sinh chán học, ông thầy thiếu kinh nghiệm chỉ biết nói: "Em như vậy là không được!”, làm cho học sinh lại càng chán học; còn ông thầy thông minh chắc chắn sẽ nói: "Chỉ cần em chịu học thì chắc chắn sẽ tiến bộ", dùng cách đó để kích thích lòng tự tôn của học sinh, kết quả học sinh đã chăm hẳn lên. Trong cuốn sách này, điều tôi muốn bàn đến chính là kỹ xảo tâm lý để khéo léo chinh phục, người khác. Trong việc ứng xử giữa người với người nếu bạn muốn tránh gây phản ứng của người khác, không muốn làm anh ta cáu, lại không muôn tự chuốc họa vào mình, thì không thể thiếu được những kỹ xảo tâm lý nhất định. Thậm chí có khi trong bạn bè thân thiết, cẩn thận một chút tốt hơn là thiếu cẩn thận, vận dụng một số kỹ xảo tâm lý cũng không phải là việc xấu. Tất nhiên, thế giới không thiếu những con người lòng dạ khó mà đoán biết được, miệng nam mô bụng bồ dao găm. Những kỹ xảo tâm lý trong cuốn sách này sẽ giúp bạn nhận ra bộ mặt thật của loại người này để bạn khống chế họ, chiến thắng họ. Tako Kagayaki Mời các bạn đón đọc Làm Thế Nào Để Chinh Phục Đối Phương của tác giả Tako Kagayaki.