Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mộ Đom Đóm

Mộ đom đóm là một câu chuyện về chiến tranh. Một chiến tranh mà khói xám và lửa hồng chỉ điểm xuyết. Một chiến tranh mà trạng thái chết chỉ phảng phất, còn “đang chết” mới là trạng thái thường trực, là lực lượng án ngữ, chiếm ngự từ thể xác đến tâm hồn con người, cuối cùng thẳng tay nhấn chìm tất thảy. Một chiến tranh được tiếp cận ở bình diện thô ráp và nguyên thủy nhất từng thấy: cái đói. Vì đói mà kiết lị, vì đói mà lở loét, vì đói mà chấy rận, vì đói mà hao mòn. Không chỉ đói ăn, còn đói nhân cách. Mộ đom đóm kéo giật tới trước mắt người đọc những chân dung thoái hóa phái sinh từ cái đói thời loạn, như khả năng ợ lên nhai lại như bò, như suy nghĩ dị dạng trong ứng xử, trong tiêu khiển bình thường. Không chỉ người đói mà thú vật cũng đói, thậm chí chuột cũng đói, và quay ra gặm nhấm tất thảy những gì có thể, kể cả con người. Bỏ qua những màn bom rải thảm, những trận nổ rung trời, chiến tranh trong Mộ đom đóm tự lột trần mình bằng tội ác lớn nhất của nó: không chỉ cướp đi nhân mạng, mà còn tiêu diệt nhân tính. *** Ngày 21 tháng Chín năm 1945, một đứa trẻ lang thang chết trong ga Sannomiya. Ở đai cuốn bụng đầy rận của cậu, người ta tìm thấy một hộp đựng kẹo. Khi nhân viên nhà ga ném chiếc hộp vào bóng tối, những con đom đóm bay lên tán loạn, và những mẩu xương trắng lăn ra. Đó là xương đứa em gái bốn tuổi của cậu, đã chết do suy dinh dưỡng... Tập truyện Mộ đom đóm bao gồm sáu tác phẩm khởi đầu sự nghiệp văn học của Nosaka Akiyuki, trong đó có hai tác phẩm giành Giải thưởng Naoki. Một là truyện “Mộ đom đóm” với lối viết độc đáo, khắc họa đầy ấn tượng cuộc sống trước khi chết đói của hai anh em lang thang. Hai là “Tảo nâu của Mỹ”. *** NOSAKA AKIYUKI Sinh năm 1930 ở Kamakura, tỉnh Kanagawa. Đang học Đại học Waseda thì bỏ dở con đường bằng cấp. Sau khi trải qua nhiều nghề khác nhau, ông trở thành phóng viên. Năm 1963 ông cho ra đời tác phẩm đầu tay nhan đề Người viết truyện khiêu dâm. Tác phẩm tiếp cận đề tài tình dục bằng giọng văn gay gắt mà hài hước, đã bất ngờ thu hút sự chú ý của dư luận. Năm 1967, Nosaka trình làng hai tác phẩm. Tảo nâu của Mỹ lấy tư liệu từ thực trạng xã hội thời kì bị chiếm đóng, và Mộ đom đóm khắc họa những trải nghiệm chiến tranh, bom đạn và đổ nát. Một năm sau, hai tác phẩm này được trao giải Naoki. Ngoài ra, Nosaka còn một số tác phẩm đáng chú ý như Hoa tử nhân cát nơi vách núi Honegami, 1945 - Mùa hạ - Kobe... *** Cổng Nam ga Sannomiya, thuộc tuyến đường sắt của Bộ Vận tải. Seita ngồi bệt dưới sàn, hai chân duỗi thẳng, rệu rã tựa lưng vào cây cột trơ cả bê tông do tróc lớp gạch ốp. Dưới cái nắng cháy da, đã gần một tháng không tắm mà đôi má hốc hác của cậu vẫn trắng nhợt, hõm xuống. Tối đến, cậu nhìn theo bóng gã đàn ông nghênh ngang đốt đuốc, oang oang mắng chửi như phường trộm cướp. Sáng ngày, cậu ngồi phân biệt đám học sinh vẫn tới trường như chưa có chuyện gì xảy ra. Áo màu kaki nhưng mang bọc vải trắng là trường Cấp hai Kobe 1, đeo cặp là trường cấp hai công lập cấp thành phố. Học sinh các trường cao đẳng nữ* như trường công lập cấp tỉnh 1, trường dân lập Shinwa, Shoin và Yamate đều mặc quần thụng, chỉ khác nhau ở cổ áo thủy thủ. Tương đương với cấp 2, thuộc hệ thống giáo dục quốc dân áp dụng từ năm 1941, thay thế toàn bộ các hệ thống trước đó. (Các chú thích trong sách là của người dịch hoặc ban biên tập tiếng Việt.) Trong đám đông ùn ùn đi ngang qua, có người ngửi thấy thứ mùi khó chịu nên nhìn xuống, rồi vội vã nhảy ra như tránh tà. Seita đã không còn cả sức để lết đến khu vệ sinh ngay trước mặt nữa. Ở chân mỗi cây cột vuông rộng tầm 90 phân này đều có những đứa trẻ tương tự, cứ ngồi ì như đang tìm kiếm sự chở che của mẹ. Chúng đổ về nhà ga có lẽ vì đây là nơi duy nhất chúng được vào, vì nhớ những nơi đông người qua lại, vì có nước uống, và vì may ra được ai đấy bố thí cho. Vừa vào tháng Chín, khu chợ trời dưới gầm đường sắt Sannomiya bắt đầu hoạt động, mở hàng là món nước đường cháy hòa tan đựng trong thùng sắt, một cốc múc đầy giá 50 sen. Chẳng mấy chốc mọc lên nào khoai hấp, bánh dango làm bằng bột khoai, cơm nắm, bánh giầy daifuku, cơm rang, chè zenzai, bánh manju, mì udon, cơm tempura, cơm cà ri... rồi thì bánh ngọt, gạo, lúa mì, đường, tempura, thịt bò, sữa, đồ hộp, cá, rượu shochu, whisky, lê, cam, ủng cao su, săm xe đạp, diêm, thuốc lá, bốt tẽ ngón, tã bỉm, chăn quân đội, giày quân đội, quân phục, bốt cổ lỡ... Mấy ông chồng rao bán cả hộp nhôm đựng cơm trộn lúa mạch buổi sáng vợ chuẩn bị cho, “10 yên đây, 10 yên đây,” tay kia ngoắc lủng lẳng đôi giày cổ ngắn đã sờn, “20 yên, 20 yên mua không?” Bị hấp dẫn bởi mùi thức ăn, Seita bất giác đưa chân vào chợ. Cậu bán lớp áo lót dài, đai obi, cổ áo rời, dây cột eo* của người mẹ quá cố cho sạp quần áo cũ bày hàng trên tấm chiếu bằng cỏ bấc đèn, nhờ đó mà xoay xở được khẩu phần nửa tháng. Các phụ kiện của một bộ kimono. Toàn bộ đồ đem bán đều ngấm nước trong hầm trú ẩn nên đã phai màu. Bộ đồng phục dệt bằng tơ nhân tạo, rồi giày ghệt của Seita cũng lần lượt tiếp bước, cậu chần chừ có nên bán cả quần không. Chẳng biết tự lúc nào Seita đã quen qua đêm ở nhà ga. Một thiếu niên ăn mặc chỉn chu đi cùng gia đình có vẻ vừa trở về từ nơi sơ tán, khăn trùm đầu được gấp gọn gàng vắt trên túi vải, ba lô đeo lưng lủng lẳng cặp lồng, ấm đun nước, mũ sắt. Xem chừng họ đã chuẩn bị lương thực khẩn cấp để ăn trên tàu, nhưng giờ đến nơi rồi nên yên tâm quẳng cho Seita chiếc bánh dango làm bằng cám gạo đã nhão nhoét, như thể vứt bớt hành lý đi. Seita còn nhận được mẩu bánh mì ăn dở, rồi bọc đậu tương rang của một anh lính phục viên thương người, hoặc của bà lão động lòng trắc ẩn vì có đứa cháu trạc tuổi. Họ rón rén đặt xuống ở đằng xa như đem đồ dâng Phật, dù gì cậu cũng rất biết ơn. Thỉnh thoảng, Seita bị nhân viên nhà ga đuổi đi, nhưng hiến binh canh gác ở cửa soát vé lại đánh họ để bảo vệ cậu. Ít nhất trong ga muốn bao nhiêu nước có bấy nhiêu, nên cậu cứ mọc rễ ở đây. Nửa tháng sau thì không đứng lên được nữa. Seita bị tiêu chảy, liên tục ra ra vào vào khu vệ sinh của nhà ga. Mỗi lần đứng dậy lại loạng choạng, tì cả người vào cánh cửa đã long mất tay cầm để gắng gượng đu mình lên, khi đi thì một tay phải bám vào tường. Cứ thế, cậu như quả bóng xì hơi, cuối cùng chỉ đành ngồi dựa vào cột, không nhấc nổi người lên nữa. Nhưng cơn tiêu chảy vẫn dồn dập tấn công, chẳng mấy chốc quanh mông đã vàng khè. Seita cuống quýt, xấu hổ muốn độn thổ mà không sao động đậy được, đành gắng lấy tay vun chút cát bụi trên sàn phủ lên, hòng giấu đi thứ màu đó. Nhưng tay cậu không với được xa, người ta nhìn có khi lại tưởng đứa trẻ lang thang đói đến mất trí nghịch cả nước phân mình thải ra. Không còn thấy đói hay khát, Seita nặng nề gục đầu xuống ngực. “Ôi bẩn quá!” “Chết rồi à?” “Quân Mỹ sắp đến mà nhà ga lại có cái của này, xấu hổ quá!” Chỉ đôi tai cậu là còn hoạt động và nghe được vô vàn thanh âm. Đến tối, bỗng nhiên lặng ngắt như tờ. Không còn tiếng guốc vang vọng trong nhà ga, tiếng tàu chạy lanh canh trên đầu, không còn tiếng giày đột nhiên biến thành bước chạy, tiếng trẻ gọi mẹ, tiếng đàn ông nói chuyện lào khào gần đó, hay tiếng nhân viên nhà ga ném thùng một cách thô bạo. Hôm nay là ngày bao nhiêu rồi? Ngày bao nhiêu nhỉ, mình ở đây bao lâu rồi? Khi tỉnh lại, Seita thấy sàn bê tông ở ngay trước mắt, nhưng không nhận ra mình đã đổ nằm xuống mà vẫn giữ nguyên tư thế co ro lúc ngồi. Cậu đăm đăm nhìn lớp bụi mờ cuốn lên khỏi sàn theo hơi thở yếu ớt của mình. Không biết là ngày bao nhiêu rồi nhỉ? Seita bám dính lấy băn khoăn ấy mãi, rồi ra đi. Đó là ngày 21 tháng Chín năm 1945, sau hôm chính phủ thông qua “Đại cương Chính sách bảo vệ trẻ mồ côi do chiến tranh”. Đến đêm nhân viên nhà ga dè dặt lục soát quần áo đầy chấy rận của Seita và tìm thấy một hộp kẹo giắt trong đai quấn bụng. Anh ta cố mở nắp, nhưng có lẽ hộp bị gỉ nên không mở được. “Cái gì đây?” “Kệ nó, kệ nó, vứt đi cho xong. Thằng này nữa, đến lúc rồi, mắt mở trừng trừng thế là sắp đi tong.” Một người khác lên tiếng. Người đó đang nhòm khuôn mặt rũ xuống của một đứa trẻ lang thang nhỏ tuổi hơn ở ngay cạnh xác Seita. Seita vẫn nằm nguyên tại chỗ, chờ người của ủy ban Hành chính Quận đến dọn, chẳng được ai đắp cho dù chỉ một tấm chiếu manh. Dường như không biết làm sao, tay nhân viên lắc hộp kẹo khiến nó kêu lọc xọc. Trước nhà ga có chỗ bị thiêu rụi, anh ta lấy đà liệng hộp ra khoảng tối cỏ mọc um tùm chỉ sau một mùa hè ấy. Hộp kẹo rơi xuống, bật nắp, chất bột màu trắng đổ ra, ba mẩu xương nhỏ lăn lóc, khuấy động những con đom đóm đang trú ngụ trong cỏ. Hai ba chục con đom đóm lập lòe tán loạn bay lên, một lát sau lại trở về yên tĩnh. Những mẩu xương trắng nọ là của Setsuko em gái Seita, mất ngày 22 tháng Tám dưới hầm trú ẩn ở Manchitani thành phố Nishinomiya. Người ta bảo là tại viêm ruột cấp tính, nhưng thật ra cô bé bốn tuổi đã bất động từ lâu và ra đi trong trạng thái li bì. Cô chết vì kiệt sức do suy dinh dưỡng, giống anh mình. Mùng 5 tháng Sáu, 350 chiếc máy bay B29 ném bom xuống Kobe, khiến năm thị trấn Fukiai, Ikuta, Nada, Suma và Đông Kobe bị thiêu rụi hoàn toàn. Seita mới học lớp Chín đã bị tổng động viên đi lao động ở nhà máy thép Kobe. Hôm đó là ngày tiết kiệm điện. Cậu đang ngồi chờ trong nhà ở thị trấn Mikage gần bờ biển thì nghe báo động, liền hấp tấp vùi lò than Seto* xuống cái hố đã đào sẵn ngoài vườn, giữa những luống cà chua, cà tím, dưa chuột, rau mầm. Lại gom toàn bộ gạo, trứng, đậu tương, cá ngừ bào khô, bơ, cá trích khô, mơ muối, đường saccharin, trứng muối vào đấy rồi phủ đất lên trên. Lò gốm cổ lâu đời ở Nhật Bản, đã có hơn một nghìn năm lịch sử. Mẹ đang ốm, Seita phải thay mẹ cõng em. Bố là đại úy hải quân, nhưng đã bặt tin từ ngày theo tàu tuần dương ra trận. Cậu tháo ảnh chụp bố mặc quân phục mùa đông ra khỏi khung, nhét vào ngực áo. Sau hai trận không kích ngày 17 tháng Ba và 11 tháng Năm, Seita hiểu ra, đèo bòng phụ nữ trẻ con không thể dập tắt bom cháy*, mà căn hầm đào dưới sàn nhà cũng không an toàn nữa, cậu đành đưa mẹ đến trú trước ở hầm bê tông do ủy ban xã bố trí đằng sau trạm cứu hỏa. Còn gọi là bom Napan hoặc lựu đạn lửa. Đang mở tủ vơ vội quần áo ngày thường của bố vào ba lô, Seita nghe thấy tiếng kẻng leng keng ở vọng gác máy bay, bèn chạy ào ra cửa, và lập tức chìm trong tiếng bom rơi vang trời. Sau đợt đánh bom kinh hoàng đầu tiên, cậu có ảo giác là mọi thứ bất chợt tĩnh lặng, nhưng rồi tiếng gầm gào nặng nề của những chiếc B29 lại ầm ĩ không thôi. Seita ngước mắt nhìn lên. Trước giờ cậu mới chỉ thấy vệt mây mập mờ phết ra từ mấy cái chấm nhỏ xíu bay về hướng Đông*. Hay như năm ngày trước trong trận ném bom ở Osaka, từ hầm trú ẩn của nhà máy, cậu nhìn đội máy bay mà tưởng đâu đàn cá đang luồn lách giữa những đám mây trên bầu trời vịnh Osaka. Vệt mây trắng sau đuôi máy bay. Khí thải từ máy bay rất nóng, khi gặp không khí lạnh và ẩm trên cao, hơi nước từ khí thải sẽ ngưng tụ lại thành từng vệt mây trên bầu trời. Có thể gọi là mây nhân tạo. Còn hôm nay, cậu thậm chí nhìn rõ đường kẻ đậm vẽ ra từ thân dưới máy bay. Nó đang bay từ biển về núi ở độ cao chỉ hơn tầm với, rồi đột nhiên chao cánh biến mất ở phía Tây. Lại một tiếng bom rơi. Bầu không khí trở nên ngột ngạt, Seita đứng chôn chân tại chỗ, người như bị ai trói chặt. Bỗng cậu nghe tiếng lạch cạch. Một quả bom cháy màu xanh đường kính 5 phân, dài 60 phân từ mái nhà lăn xuống, nảy đom đom như một con sâu đo, phun đầy dầu ra đất. Seita vội chạy vào nhà, nhưng từ trong nhà, một luồng khói đen cũng đang chầm chậm lan rộng, cậu lại lao ra cửa. Cả dãy nhà vắng tanh, yên ắng như chẳng có chuyện gì. Căn nhà đối diện đã dựng sẵn chổi dập lửa và thang cạnh tường. Dù thế nào cũng phải đến hầm tránh bom của mẹ đã, Seita tự nhủ. Trên lưng cậu, em gái bật khóc nức nở. Cậu vừa dợm bước thì một cột khói đen phun lên từ cửa sổ tầng hai căn nhà trong góc đường. Cứ như được sắp đặt sẵn, bom cháy âm ỉ ở gác xép trước đó cũng đồng loạt bùng lên thành lửa, đốt cây cối trong vườn nổ lép bép. Lửa chạy dọc mái hiên, thiêu cửa chớp đến long ra, rơi đánh thình. Seita thấy trước mắt tối sầm. Không khí lập tức nóng rực. Cậu bật chạy như bị ai xô mạnh. Kế hoạch ban đầu là sơ tán ở bờ đê sông Ishiya nên cậu chạy dọc theo đường tàu Hanshin trên cao về phía Đông, nhưng nơi này sớm đã nhung nhúc dân đi lánh nạn. Kẻ kéo xe bò. Ông nọ cõng bọc chăn đệm, bà kia the thé gọi người. Sốt ruột, cậu chạy ra biển, lúc này tàn lửa vẫn bay tán loạn, bom rơi ầm ầm xung quanh. Thùng rượu cỡ 5400 lít được tận dụng làm bể chữa cháy bị vỡ, nước tràn ra lênh láng. Có người đang loay hoay chuyển bệnh nhân bằng cáng. Vừa qua một khoảnh đất hầu như không có ai, thì lại đến một quãng ồn ào bát nháo như tổng vệ sinh nhà cửa (kiểu kĩ càng tới mức lật tung cả chiếu trải sàn lên ấy). Seita rời khỏi đường quốc lộ cũ, chạy mải miết trên con ngõ hẹp, đi qua khu phố vắng hoe, có lẽ dân chúng đã sơ tán cả rồi. Cậu trông thấy hầm rượu Nadagogo đen thui quen thuộc. Mùa hè mà ra đây sẽ ngửi thấy mùi biển phảng phất. Mỗi bể chứa rượu cách nhau tầm mét rưỡi, qua đó người ta có thể thấy bờ cát lấp lánh dưới nắng hè, mặt biển xanh ngắt trải rộng đến tận chân trời. Bây giờ không phải lúc nghĩ ngợi vẩn vơ. Bờ biển chẳng có hầm, nhưng mọi người đều nghĩ muốn tránh lửa thì cần nước, cho nên trên bờ cát chỉ rộng 50 mét mà tập trung bao nhiêu người, chẳng ai bảo ai cùng nép mình trong thuyền đánh cá hay dưới bóng tời kéo lưới. Mời các bạn đón đọc Mộ Đom Đóm của tác giả Nosaka Akiyuki.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ
Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ là tập truyện ngắn đầu tiên trong series về Arsène Lupin. Tập truyện bao gồm chín truyện ngắn, kể về các phi vụ trộm cắp nổi tiếng của gã siêu đạo chích. Thông qua đó, độc giả sẽ có được cái nhìn rõ hơn về thân phận, tính cách, tài năng cũng như những thủ đoạn tinh vi của nhân vật đặc biệt này.   Arsène Lupin bị bắt Arsène Lupin trong tù Arsène Lupin trốn thoát Lữ khách bí ẩn Chiếc vòng cổ của nữ hoàng Quân bài bảy cơ Két của bà Imbert Viên trân châu đen Herlock Sholmès đến quá muộn “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - Răng Cọp - Bí Ẩn Nút Chai Pha Lê - Người Đàn Bà Bí Ẩn - Arsène Lupin Tái Xuất - Mật Mã 813 - ... *** Arsène Lupin bị bắt Đó là kết thúc đáng ngạc nhiên cho một chuyến đi với khởi đầu đầy hứa hẹn. Chiếc tàu thủy hơi nước vượt Đại Tây Dương mang tên Provence được trang bị đầy đủ tiện nghi, vận tốc lớn, nằm dưới sự chỉ huy của vị thuyền trưởng rất đỗi nhã nhặn, ân cần. Hành khách trên tàu làm thành một xã hội chọn lọc, vui vẻ. Thời gian trôi qua dễ chịu nhờ sức hấp dẫn của những mối quen biết mới và những trò giải trí ngẫu hứng. Chúng tôi tận hưởng cảm giác thư thái khi được tách khỏi cái thế giới thường nhật để sống, có thể nói là, trên một hòn đảo xa lạ, và vì vậy buộc phải giao lưu với nhau thôi. Đã khi nào bạn dừng lại nghĩ xem liệu có bao nhiêu sự tự nhiên, mới mẻ trong cách cư xử của những cá nhân riêng biệt này? Những con người buổi tối hôm trước thậm chí chưa hề biết nhau, mà giờ đây, trong vòng vài ngày, đành sống một cuộc sống cực kỳ thân mật, gần gũi, cùng nhau đương đầu với những cơn cuồng nộ của đại dương, với những lần vùi dập khủng khiếp của sóng biển, sự hung hãn của bão tố, và sự buồn tẻ đến khổ sở những lúc mặt nước phẳng lặng, im lìm. Một cuộc sống như thế trở thành một dạng bi kịch, với những bão tố bên cạnh những hùng vĩ của biển cả, với những đơn điệu bên cạnh những trạng thái muôn vẻ muôn màu, và đó có lẽ là lý do tại sao chúng ta bắt đầu hành trình ngắn ngủi ấy trong tâm trạng vừa thích thú vừa lo sợ. Tuy nhiên, vài năm gần đây, du khách vượt Đại Tây Dương được trải nghiệm thêm cảm giác mới. Hòn đảo nhỏ bé trôi nổi nay đã có sự ràng buộc với cái thế giới nó từng tách biệt hoàn toàn. Một mối liên hệ gắn kết hai chốn này ngay cả khi hòn đảo ấy trôi nổi giữa những vùng biển xa xôi hoang vắng nhất của Đại Tây Dương. Mối liên hệ đó chính là đường điện tín không dây, nhờ nó chúng ta có thể tiếp nhận thông tin theo cái cách kỳ bí nhất. Chúng ta đều biết rất rõ ràng rằng các bức điện không truyền đi qua một sợi dây rỗng nào cả. Không, sự kỳ bí thậm chí còn huyền bí hơn, lãng mạn hơn, và chúng ta phải viện đến những cánh gió để giải thích cho phép màu mới mẻ này. Suốt ngày đầu tiên của cuộc hành trình, chúng tôi cứ có cảm giác cái giọng nói xa xôi ấy theo sau, hộ tống, thậm chí là dẫn đường mình. Giọng nói ấy đôi lúc lại thầm thì vào tai một người trong chúng tôi vài lời nhắn nhủ từ cái thế giới đang dần dần lùi về phía sau. Hai người bạn trao đổi với tôi. Mười, hai mươi người khác gửi những lời chia tay hoặc vui vẻ hoặc buồn rầu tới những hành khách khác. Vào ngày thứ hai, trong khi đương đầu với một cơn bão dữ dội, chúng tôi nhận được theo đường điện tín không dây, từ bờ biển nước Pháp cách đây năm trăm dặm, thông tin sau: “Arsène Lupin đang ở trên tàu của quý vị, cabin hạng nhất, tóc vàng, cẳng tay phải bị thương, đi một mình dưới cái tên là R…” Đúng lúc ấy, một tia sét kinh khủng rạch ngang bầu trời dông bão. Sóng điện tín gián đoạn. Phần còn lại của bức điện chẳng bao giờ tới với chúng tôi nữa. Chúng tôi chỉ biết được duy nhất chữ cái đầu của cái tên mà Arsène Lupin đang dùng để che giấu thân phận. Nếu đây là tin tức về một nhân vật khác, tôi chắc chắn rằng nhân viên điện tín và các sĩ quan trên tàu sẽ thận trọng kín mồm kín miệng. Nhưng đây lại là một trong những tin tức dù biện pháp giữ bí mật có chặt chẽ đến đâu cũng không tránh khỏi bị lộ lọt. Ngay ngày hôm ấy, thông tin kia nhanh chóng trở thành câu chuyện được bàn tán xôn xao khắp tàu, hết thảy mọi hành khách đều biết Arsène Lupin danh tiếng lẫy lừng đang trà trộn lẫn trong bọn họ. Arsène Lupin đang ở giữa chúng ta! Tên trộm táo bạo mà những thành tích chói lọi trong vòng vài tháng vừa qua đã làm hao tổn giấy mực của tất cả các tờ báo! Cái con người bí ẩn đã làm cho Ganimard, vị thám tử khôn ngoan sắc sảo nhất của chúng ta, vướng vào một cuộc đối đầu không khoan nhượng trong khung cảnh thú vị, đẹp đẽ như tranh. Arsène Lupin, quý ông lập dị chỉ chuyên gây án tại các lâu đài nguy nga và các phòng khách sang trọng, kẻ một đêm đã đột nhập vào dinh thự của Nam tước Schormann, rồi ra đi tay không, tuy nhiên có để lại tấm danh thiếp viết nguệch ngoạc mấy chữ: “Arsène Lupin, tên trộm hào hoa, sẽ trở lại khi nội thất trong nhà ngài là đồ xịn.” Arsène Lupin, con người với hàng ngàn vỏ bọc: lúc là lái xe riêng, lúc là thám tử, kẻ đánh cá ngựa thuê, nhà vật lý Nga, võ sĩ đấu bò Tây Ban Nha, nhân viên chào hàng, một thanh niên cường tráng, hay một ông già hom hem. Vậy hãy thử tưởng tượng tới tình huống đáng kinh ngạc này: Arsène Lupin đang lang thang thơ thẩn trong phạm vi một chiếc tàu thủy hơi nước vượt Đại Tây Dương, trong cái góc hết sức nhỏ bé ấy của thế giới, trong cái phòng ăn ấy, trong cái phòng hút thuốc ấy, trong cái phòng nghe nhạc ấy! Arsène Lupin có lẽ là bất cứ quý ông nào… là người ngồi cùng bàn tôi… thậm chí là người ngủ cùng buồng tôi không chừng. “Và tình thế này sẽ kéo dài năm ngày!” Tiểu thư Nelly Underdown thốt lên. “Thật không thể chịu đựng được! Tôi hy vọng người ta sẽ tóm cổ hắn.” Rồi nàng nói thêm với tôi: “Thưa ông, ông d’Andrésy, ông có quan hệ thân tình với thuyền trưởng, ông hẳn phải biết chút gì chứ?” Tôi sẽ sung sướng nếu biết được thông tin gì đó mà tiểu thư Nelly quan tâm. Nàng là một trong những trang tuyệt sắc giai nhân chắc chắn vẫn luôn luôn thu hút sự chú ý ở bất cứ đám đông nào. Sự giàu có kết hợp với sắc đẹp tạo thành sức hấp dẫn khó cưỡng, và tiểu thư Nelly thì sở hữu cả hai ưu điểm này. Được giáo dục ở Paris bởi bà mẹ người Pháp, tiểu thư Nelly đang trên đường sang thăm ông bố là nhà triệu phú Underdown ở Chicago. Nàng cùng đi với một người bạn, phu nhân Jerland. Ban đầu, tôi đã định tán tỉnh nàng, nhưng trong không khí thân mật tăng lên nhanh chóng giữa những người bạn đồng hành, chẳng mấy chốc tôi bị cung cách duyên dáng của nàng gây ấn tượng mạnh mẽ, và cảm xúc tôi dành cho nàng trở nên quá sâu sắc, quá trân trọng tới mức việc tán tỉnh vớ vẩn là không thể được nữa. Nàng còn chấp nhận sự quan tâm của tôi với thiện ý nhất định. Nàng hạ cố cười vui vẻ trước mỗi lời nhận xét dí dỏm của tôi và tỏ ra thích thú các câu chuyện tôi kể. Nhưng tôi cảm giác rằng mình đang có một đối thủ, một gã trai trẻ trầm lặng, tinh tế. Đôi lúc tôi chột dạ thấy nàng ưa sự hài hước kín đáo của gã hơn sự phù phiếm đậm chất Paris của tôi. Gã cũng trong đám người ngưỡng mộ vây xung quanh tiểu thư Nelly khi nàng hỏi tôi câu bên trên. Tất cả chúng tôi đang ngồi thoải mái trên những chiếc ghế dựa đặt ngoài boong. Cơn bão đêm hôm trước đã tan, bầu trời đã trong xanh lại. Thời tiết lúc bấy giờ quả là dễ chịu. “Tôi không có thông tin chính xác nào, thưa cô.” Tôi trả lời. “Nhưng chúng ta, chính chúng ta đây, chẳng thể tự điều tra về bí ẩn này giống thám tử Ganimard, kẻ thù riêng của Arsène Lupin, hay sao?” “Ôi! Ôi! Ông đi xa quá, thưa ông.” “Không hề, thưa cô. Đầu tiên, tôi xin hỏi nhé, cô có thấy chuyện này là chuyện phức tạp không?” “Rất phức tạp.” “Phải chăng cô quên mất chìa khóa để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nắm giữ?” “Chìa khóa nào vậy?” “Thứ nhất, Lupin tự nhận mình là Ngài R.” “Thông tin này khá mơ hồ.” Tiểu thư Nelly đáp. “Thứ hai, hắn đi một mình.” “Thông tin đó có ích gì chăng?” Tiểu thư Nelly hỏi. “Thứ ba, hắn tóc vàng.” “Thì sao?” “Thì chúng ta chỉ cần rà soát danh sách hành khách và bước tiếp theo là loại trừ dần.” Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ của tác giả Maurice Leblanc.
Giết Chỉ Huy Đội Kỵ Sĩ
“Có thể một ngày nào đó tôi sẽ vẽ được chân dung của thứ không có. Như một họa sĩ đã vẽ được bức tranh Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Nhưng để làm được vậy, tôi cần có thời gian. Tôi phải làm bạn với thời gian.” Rời khỏi người vợ đã đơn phương đòi ly hôn, “tôi” - chàng họa sĩ vẽ chân dung ba mươi sáu tuổi lang thang khắp nẻo đường rồi dừng chân tại một biệt thự nằm giữa khu rừng âm u trên đỉnh ngọn núi trông về phía biển, và sống tiếp tại đó trong nỗi cô đơn thăm thẳm. Không lâu sau, con cú đại bàng trên gác mái và tiếng chuông kỳ quái lúc đêm khuya đã khơi mào một chuỗi hiện tượng bí ẩn, dẫn dụ “tôi” bước vào chuyến phiêu lưu tâm linh huyền hoặc. Người đàn ông tóc bạc trắng xuất hiện từ bên kia thung lũng xanh biếc, ngôi miếu với căn hầm đá trong rừng, đĩa hát cũ, “Chỉ huy đội kỵ sĩ”… những chi tiết nửa thực nửa hư chậm rãi hiện hình trong bức tranh siêu thực u hoài, lạnh gáy của Murakami. *** Tác giả Haruki Murakami sinh ngày 12/1/1949 tại Kyoto, lớn lên ở thành phố Ashiya, tỉnh Hyogo nhưng phần lớn thời thanh xuân lại trải qua ở Tokyo. Murakami từng học về kịch tại đại học Waseda, Tokyo. Khi đang còn là sinh viên tại đại học Waseda, ông mở một quán nhạc Jazz có tên là Peter Cat và bắt đầu viết tiểu thuyết. Văn phong của ông chịu ảnh hưởng lớn từ văn học Mỹ, các tác phẩm của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống và con người ở đô thị hiện đại. Nhà văn Haruki Murakami Sinh: 12 tháng 1, 1949 (tuổi 66), Fushimi-ku, Kyoto, Kyōto, Nhật Bản Vợ: Yoko Takahashi (kết hôn 1971) Giải thưởng: Giải Jerusalem, Giải Franz Kafka Đề cử: Giải văn học quốc tế Neustadt Nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như: Lắng nghe gió hát Rừng Na Uy 1Q84 Biên niên ký Chim vặn dây cót Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời Kafka bên bờ biển Người tình Sputnik Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới Cuộc săn cừu hoang Ngầm Nhảy nhảy nhảy Tôi nói gì khi nói về chạy bộ Kino Sau Cơn Động Đất Ngày Đẹp Trời Để Xem Kangaroo Những Người Đàn Ông Không Có Đàn Bà Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương Truyện Ngắn Murakami - Nghiên Cứu Và Phê Bình Giết Chỉ Huy Đội Kỵ Sĩ   *** "Giết chỉ huy đội kỵ sĩ" ra mắt bản tiếng Nhật năm 2017 và bản tiếng Anh năm 2018. Nhà xuất bản tại Nhật cho biết 1,3 triệu bản sách ra mắt trong lần in đầu. Tại Việt Nam, đơn vị phụ trách xuất bản đã tổ chức cuộc thi thiết kế bìa cho Giết chỉ huy đội kỵ sĩ của Murakami vào cuối năm 2020. Đến ngày 11/1, sách được phát hành. Cũng giống tại Nhật, cuốn sách gây được ấn tượng với bạn đọc Việt. Giết chỉ huy đội kỵ sĩ được giới thiệu là cuốn tiểu thuyết sở hữu nhiều chi tiết nửa thực nửa hư trong bức tranh siêu thực đầy u hoài, đậm chất Murakami, thứ đã "hớp hồn" bạn đọc trong nhiều tác phẩm như Xứ sở kỳ diệu tàn bạo và chốn tận cùng của thế giới hay 1Q84. Đối với Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, mặc dù tác phẩm mang đậm phong cách đậm chất Murakami, lại vẫn đem đến nhiều sự mới mẻ. Điều này giúp cho người đọc có được những trải nghiệm mới ngay trong bầu không khí quen thuộc, hấp dẫn. Để nói về chất lượng của cuốn tiểu thuyết, có lẽ cần so sánh Giết chỉ huy đội kỵ sĩ với 1Q84, một trong những tác phẩm thành công nhất sự nghiệp của Haruki Murakami. Tại 1Q84, tác giả đưa người đọc tới một thế giới huyền bí, đan xen giữa thực và ảo. Không chỉ thế, tác phẩm còn được định hình bởi chiều sâu tâm lý, tình cảm của người phụ nữ, trái ngược với sự bạo lực hiển hiện trong truyện. Còn đối với Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, có lẽ, cuốn sách còn cần được nhìn ở góc độ đa chiều hơn. Nhân vật "Tôi" đã phải trải qua nhiều thứ cảm xúc hỗn độn, khó tả. Mọi thứ bắt đầu từ việc cô vợ đơn phương đòi ly hôn, rồi những bước đi lạc lõng, cô đơn sau này. Tất cả được đẩy lên cao trào khi anh ta vô tình bước vào một chuyến phiêu lưu kỳ ảo. Nhân vật "Tôi" và hành trình tìm về hạnh phúc Đầu tiên, sự mới mẻ của tác phẩm đến từ hội họa - yếu tố cốt lõi xuyên suốt Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Thông qua nội tâm của nhân vật "Tôi", Murakami không giấu giếm sự khâm phục mà mình dành cho nghệ thuật hội họa cũng như văn chương và âm nhạc. Xây dựng nhân vật "Tôi" có cá tính, hoàn cảnh như vậy đồng nghĩa việc Murakami có cơ hội để tạo ra các chi tiết ẩn dụ, truyền tải triết lý của mình về hội họa một cách trôi chảy, mượt mà nhất. Tất nhiên, cuốn tiểu thuyết vẫn có những điểm quen thuộc giống với các tác phẩm trước của Murakami, ví dụ cách ông đưa vào cuốn sách các chi tiết như thú vui tự nấu ăn, âm nhạc, hay những đối thoại hài hước. Giết chỉ huy đội kỵ sĩ không chỉ tạo ra luồng gió mới đối với người hâm mộ Murakami mà tác phẩm còn xây dựng được chiều sâu trong nội tâm mỗi nhân vật. Ảnh: Midori. Bên cạnh đó, Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng xuất hiện yếu tố thần thoại như trong Kafka bên bờ biển (câu chuyện về Oedipus) là ẩn dụ về dòng sông với người lái đò vô diện được lấy cảm hứng từ sông Styx dưới âm phủ và gã lái đò Charon. Giống với Rừng Na Uy, các tuyến nhân vật được gói trong mối quan hệ tay 3 như Watanabe Toru - Naoko - Kizuki hay Watanabe Toru - Midori - Naoko, thì Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng được Murkami xây dựng và phân vai theo mối quan hệ ba người như thế. Duy có điều khác biệt ở đây là các mối quan hệ này đều được gắn liền bức họa quan trọng, ví dụ "Tôi" - họa sĩ Amada Tomihiko - bức Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, Tôi - Menshiki - bức chân dung Menshiki... Vì thế, dù liên tục xuất hiện những tình tiết ẩn dụ, siêu thực hay một khái niệm khó hiểu nhưng độc giả vẫn có thể theo dõi mạch truyện một cách khá thuận lợi, không bị chồng chéo. Rồi tất cả ý tưởng và ẩn dụ xuất hiện trong truyện được xâu chuỗi, liên kết với nhau bằng luật nhân quả. Thậm chí, sự luân hồi phi thời gian đã đưa nhân vật "Tôi" đi qua tất cả không gian hư hư thực thực trong Giết chỉ huy đội kỵ sĩ. Qua cuộc hành trình ấy, nhân vật "Tôi" đã nhận ra rằng bất cứ ai cũng đều trải qua “ẩn dụ kép” mang tính chất hai mặt. Những sai lầm, nỗi đau và sự sợ hãi có thể còn đáng sợ hơn cả cái chết nhưng đồng thời trong chính những khoảnh khắc tiêu cực ấy, người ta vẫn có thể tìm thấy điều tốt đẹp. *** Haruki là tác giả quốc tế chứ không riêng gì của Nhật nữa, phong cách của ông như một tượng đài trên văn đàn, độc đáo riêng biệt. Hiếm có tác giả nào giữ được sức sáng tác đều tay và tốc độ ra sách nhanh như ông (và làm quái nào mà ổng vẫn chưa đoạt giải Pulitzer nhỉ)  Mối duyên độc giả - tác giả của mình và ông thì hơi bị gián đoạn và chỉ mới nối lại gần dây. Sự gián đoạn tính theo chục năm, thời mình đọc 1 lèo Rừng Nauy, Phía Nam Biên Giới Phía Tây Mặt Trời, Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót - mà quả thực. bây giờ chỉ nhớ rõ nhất mỗi Rừng Nauy vì nhờ coi phim, 17 - 18 tuổi, thời trẩu tre nên thấy cái gì mà khó hiểu phức tạp là thích nhảy vô lắm, mà cái giá của việc đọc mà không cảm không hiểu là ù cạc và mất luôn sự hứng thú với tác giả suốt một thời gian dài, phải đến khi “già chát” như hiện tại thì mới đọc lại, mà cứ nhẩn nhơ tha thẩn mãi mới xong một cuốn, vì đâu còn quỹ thời gian dồi dào như xưa.  Nhưng thích, cuốn đầu tiền mình đọc lại của ông sau giai đoạn “nghỉ chơi dài hơi” là “Những người đàn ông không có đàn bà” (nghe đồn 1 truyện ngắn trong đó sắp được dựng thành phim 3 tiếng - đạo diễn chắc cũng không phải người thường mà có thể dựng 1 truyện ngắn của ổng chưa đầy 3 trang thành phim 3 tiếng). Lần đó đọc sách mà cảm giác bỡ ngỡ rụt rè đúng kiểu gặp lại 1 người bạn vong niên, thậm chí với đứa có tật đọc nhanh như mình mà lần đó có những trang phải giở lại, hoặc nghỉ 1 2 hôm rồi đọc tiếp.  Cuộc gặp gỡ tiếp theo cách đó cũng khá lâu là bộ tiểu thuyết cực nổi thời gian mới ra mắt, 1Q84mà mình cũng là đứa lỗi thời nên 10 năm sau khi sách ra mới tìm đọc. Sau lần đầu bỡ ngỡ thì lần 2 này Haruki đã khiến mình “té” vô tình yêu sách của ổng lần nữa, thiên thời địa lợi thì đúng hơn là “nhân hoà” vì mình nhịn lâu ơi là lâu mới đọc lại tiểu thuyết (sau 1 thời gian nỗ lực xoá nghèo kiến thức với các sách lĩnh vực khác thì trời ơi lúc đó 1Q84 đã tưới mát cánh đồng khô quéo trong mình bằng ngồn ngộn câu từ và một câu chuyện liêu trai phức tạp đúng phong cách của ông)  Và lần 3 là Giết chỉ huy đội kỵ sĩ (gớm mở bài lê thê vãi)  Tại sao mình chọn Giết chỉ huy đội kỵ sĩ chứ không phải 1Q84 để viết về, một phần vì mới đọc gần đây nên vẫn nhớ mang máng (ha ha), nhưng phần lớn là vì mình thích …Kỵ Sĩ hơn là ..84. Nếu ví cả 2 với ẩm thực thì 1Q84 là một bữa ăn đêm Phục Sinh cầu kì, đầy ắp các mỹ bị và món nào cũng được đầu bếp chăm chút với kỹ năng tuyệt đỉnh, bữa ăn kéo dài tận 3 tập (dày) (mà ổng hoàn thành chỉ trong vỏn vẹn 1 năm, khủng khiếp) thì Giết chỉ huy đội kỵ sĩ với mình như một bữa Brunch cuối tuần, ngon, chất lượng và đủ nhiều để lấp đầy bụng cho cả bửa sáng lẫn trưa, quan trọng là chữ “đủ”.  Sức hấp dẫn của Haruki mang đến cho mình trong ...Kỵ Sỹ thực ra cũng là những điều đã giúp ông nổi tiếng bấy lâu, bút lực dồi dào, trí tưởng tượng tuyệt vời, khả năng xây dựng nhân vật sống động và cực kì tỉ mỉ, nhưng điều mà ông làm mình phải ngả mũ trong tiểu thuyết mới nhất này là kiến thức và sự đầu tư ông đã bỏ ra để làm chất liệu cho sách - vốn sống dồi dào, sự thông tuệ cùa ông thể hiện rõ nét trong các nhân vật và tác phẩm của ông, dù là chính hay phụ hay thoáng qua, họ đều có một tư chất nghệ thuật nhất định, họ có gout nghe nhạc, họ đọc sách, họ theo đuổi thứ mà họ đang theo đuổi một cách nghiêm cẩn. Lần này với Chỉ huy đội kỵ sĩ, ông mang đến cho độc giả một lát cắt nghệ thuật mới, là hội hoạ, nhưng cũng như những gì mình từng biết về ông, hội hoạ chỉ là tấm giấy nền, trên tấm giấy ấy, ông vẽ nên câu chuyện của mình bằng những đường cọ sắc nét, táo bạo, và nhiều tầng lớp - và cũng giống như thưởng tranh, đôi khi thứ níu giữ khán giả là sự kết nối của họ với chính tác phẩm đó - với chính người nghệ sĩ hơn là những gì thể hiện trên bức tranh.  “- Nhưng làm thế nào mà cậu phát hiện được bức tranh này? Menshiki hỏi  - Phát hiện?  - Đương nhiên cậu là người vẽ bức tranh này. Cậu đã tự mình sáng tác. Nhưng đồng thời, xét theo một nghĩa khác thì cậu đã phát hiện ra bức tranh. Nghĩa là cậu đã tìm thấy và lấy ra được hình ảnh chôn giấu bên trong cậu. Chắc phải dùng từ khai quật mới đún. Cậu có nghĩ vậy không?  Nói vậy có lẽ cũn đúng, tôi thầm nghĩ. Tất nhiên là tự tôi đã vẽ bức tranh này theo ý mình. Tôi cũng là người chọn màu vẽ, là người dùng cọ, dao và ngón tay để tô màu. Nhưng nếu nhìn theo cách khác thì có lẽ tôi đã dùng Menshiki làm chất xúc tác để tìm và lấy ra thứ được chôn sâu bên trong con người tôi… Menshiki nói:  - Giống như một trận động đất xuất hiện dưới đáy biển sâu. Thay đổi lớn xảy ra ở thế giới vô hình, thế giới không có ánh mặt trời, nói cách khác là vùng vô thức bên trong. Thay đổi ấy lan truyền tới mặt đất, gây ra phản ứng liên hoàn, cuối cùng mới định hình trước mắt chúng ta…” Mình có đọc đâu đó không rõ (chắc là lúc search hình sách để chèn vô bài viết) rằng Giết chỉ huy đội kị sỹ không được đánh giá cao bởi đọc giả yêu thích Haruki, nhưng với mình, khi viết những dòng này, mình chợt nhớ đến 1 nhận xét của báo Thanh Niên về phim Đông Tà Tây Độc, rằng ”Đạo diễn Vương Gia Vệ mượn truyện kiếm hiệp Kim Dung để kể về tình yêu”, mình xin lấy ý tứ của câu này để nói về sách của Haruki, những cuộc phiêu lưu viễn tưởng trong sách của ông thực ra cũng chỉ để làm nền để ông kể về những con nguời cô đơn trên thế giới  này và cách họ kết nối với chính mình, và với thế giới quan xung quanh, một cách kì lạ, khó tin, huyễn hoặc đến vô lý. Như Aomame nắm chặt tay Tengo đi qua đường hầm thông lên đường cao tốc để trở về lại thế giới của họ trong 1Q84, và anh hoạ sĩ chui vào một thế giới sâu trong lòng đất để hoàn thành một nghĩa vụ anh không hiểu là gì nhưng anh tin bằng trực giác của mình và hành động, để rồi khi ra khỏi ở phía bên kia, tất cả đã khác trừ chính anh.  Đôi khi sự rời rạc và vô lý trong cách hành văn của ông lại chính là sự cố ý sắp đặt, vì mỗi con người sẽ có một cách khác nhau để tìm đến bản thể của mình. Liệu tương lai có thật sự là một bí ẩn, hay nó bắt đầu từ rất lâu trước hiện tại, có lẽ sự băn khoăn về sự vĩ mô của cuộc đời được truyền tải tài tình qua con chữ mới là điều khiến độc giả “ghiền” Haruki lâu và dài đến vậy, sự thoả mãn không nằm ở đáp án hay cái kết nào, màn nằm ở hành trình kì diệu nằm sau mỗi trang sách (và mỗi ngày). Tận hưởng và khám phá thôi.  Thực ra, mình vẫn bị “stuck” khi viết review về sách, có nên miêu tả về nhân vật không, có nên tóm tắt câu chuyện không, có nên điểm qua các tình tiết “key” trong sách không. Bởi sách (hoặc phim) nó khác với món ăn hay địa điểm, nó attach khá nhiều với cá nhân, sự cảm thụ, tính cách, gout, tâm trạng nữa…đều khiến mình phải chùng tay mỗi khi viết về sách hay phim, bởi thực sự các lăn tăn kể trên, với mình thì mình nghĩ “phải tự đọc hay xem thì mới nghiệm ra được”, nên stuck là chỗ đó, không biết viết gì thêm… Hy vọng đến những cuốn sau sẽ đỡ stuck hơn.  Mời các bạn đón đọc Giết Chỉ Huy Đội Kỵ Sĩ của tác giả Haruki Murakami & Mộc Miên (dịch).
Một Q Tám Tư
Nó là một mớ bùi nhùi, một chiếc khăn len được đan hai đầu, rồi vứt xó, rồi lại tiếp tục đan nhưng không hề có một chút hình thù gì của chiếc khăn len. Nhưng đến cuối cùng nó vẫn là một chiếc khăn len đặc biệt. 1Q84 – Q tức là Question, đúng vậy, question với cả những nhân vật trong truyện lẫn người đọc cho đến phút cuối cùng. Câu chuyện kể về 2 nhân vật, 2 môi trường sống, 2 lối sống hoàn toàn khác nhau nếu không muốn nói là trái ngược. Tôi chần chừ do dự đọc quyển sách này đã bao lâu, có lần mở ra đọc vài trang lại gấp vào và vứt xó. Rồi một ngày ngẫu nhiên tôi đột nhiên rút nó ra khỏi kệ sách và đọc ngấu nghiến. Cuốn đầu tiên, khi chưa nhập vào mạch truyện tôi đã phải nhai nó cả tuần liền. Tôi tự nhủ, “Ừ thì đoạn của Aomame cũng hấp dẫn đấy, nhưng rồi sau đó đoạn của Tengo cũng hấp dẫn không kém. Cuốn thứ 2 trong vòng 5 ngày và cuốn thứ 3 thì tôi như bị rơi vào một vòng xoáy. Chỉ trong vòng 2 ngày, tôi nghỉ làm 2 ngày là ngốn cái cuốn sách bìa màu tím ấy từ sáng đến tối, cả trong mơ tôi cũng mơ thấy Nhộng không khí, Fukaeri, và cái hình ảnh xám xịt mà Murakami phác hoạ nên. Thế giới song song? Khái niệm chắc hẳn tôi chưa bao giờ tưởng tượng đến. Nhưng khi đọc 1Q84 tôi như bị hút trọn vào thế giới ấy. Những tình tiết ly kì, không hẳn là trinh thám hay ma quỷ, nhưng nó cứ gợi lên cho tôi một nỗi sợ tiềm tàng. Sự huyền bí của Người Tí Hon, họ là những kẻ man rợ hay thế nào? Nó giống như nỗi sợ những con búp bê mỗi đêm tỉnh dậy của các bé gái phải không? Tuy vậy, trong câu chuyện vẫn còn nhiều lỗ hổng bởi vì có quá nhiều tình tiết xảy ra. Tôi rất hụt hẫng với đoạn kết, Tengo và Aomame đã gặp nhau nhưng sao vẫn thấy nó chưa phải một cái kết hoàn hảo tôi mong chờ? Hay bởi vì nó còn quá nhiều câu hỏi? Những con người ở thế giới có hai mặt trăng rồi sẽ ra sao? Fukaeri? Cô gái ấy là Mẫu thể hay Tử thể? Bà già trong biệt thự Cây liễu và Tamaru? Và cả những Người Tí Hon chui ra từ cái xác của Ushikawa? Tại sao phải giao hợp? Rất nhiều câu hỏi không được giải đáp đến nỗi tôi phải lên google để tìm xem có còn một bản kết nào khác nữa không. Và sự thất vọng lớn nữa là đoạn kết chỉ toàn những lời tự nhủ trong lòng của Aomame mà chẳng hề nhắc đến cảm xúc của Tengo là mấy. Kiểu như mình rất bất mãn với việc 2 người này gặp nhau là có cái kết như thế. Bởi vì trước đó mình đã quá mong chờ họ gặp nhau rồi sẽ thế nào, và nghĩ ra đủ mọi tình huống giả tưởng. Murakami rất tài giỏi trong cách dùng ngôn ngữ và lối kể chuyện cuốn hút nhưng về logic thì không có một chút logic nào cả. Có lẽ đó cũng là cái chính tạo nên sự huyền bí trong những cuốn sách của ông. Đến giờ tôi vẫn mù mờ về sự tồn tại của Người Tí Hon để làm gì? Nó có đại diện hay là sự ẩn dụ về Thiện – Ác trong mỗi con người hay không? Và tình yêu của Aomame và Tengo có thật sự như họ nghĩ? Bởi nếu ngoài đời thực sẽ chẳng ai có thể yêu lại một người đã quá khác xa người ấy của 20 năm trước. Lúc đầu có thể sẽ rất yêu nhưng rồi sau này họ có nhận ra mọi sự tưởng tượng của mình về đối phương đều không phải sự thực? Nếu vậy, tình yêu trong câu chuyện này có còn ý nghĩa gì nữa không? Tôi không biết, nhưng sau tất cả tôi vẫn nghĩ đây là một cuốn sách hay. Nó không hay ở phần kết, không hay nếu ta lôi nó ra thành những triết lý hay chủ đề cố định. Nó chỉ hay khi ta bước vào dòng chảy câu chuyện mà không phán xét đúng sai. Cũng giống như đời người, ông A, B, C nào đấy vừa chết hôm nọ, ừ thì cũng chia buồn đấy rồi thôi. Nhưng nếu ta trải qua từng giây phút cuộc đời họ chắc chắn nó cũng sống động không kém bất kỳ cuộc đời nào. Tác giả: Bà Năm Mời các bạn đón đọc Một Q Tám Tư của tác giả Haruki Murakami & Lục Hương (dịch).
Lược Sử Tương Lai
Homo sapiens có phải là một dạng sống siêu đẳng, hay chỉ là một tay đầu gấu địa phương? Làm thế nào con người lại tin rằng họ không chỉ đã kiểm soát thế giới, mà còn mang lại ý nghĩa cho nó? Công nghệ sinh học và trí thông minh nhân tạo đe doạ loài người ra sao? Sinh vật nào có thể kế thừa loài người, và tôn giáo mới nào sẽ được sản sinh? Với giọng kể cuốn hút và mới lạ, Harari sẽ dần gợi mở và trả lời những câu hỏi trê, nhờ phân tích chi tiết những luận điểm gây nhiều tranh cãi: chủ nghĩa nhân đạo là một dạng tôn giáo, thứ tôn giáo tôn thờ con người thay vì thần thánh; sinh vật là thuật toán… ông vẽ ra một viễn cảnh tương lai khi Sapiens thất thế và Dữ liệu giáo trở thành một hình mẫu. HOMO DEUS còn bàn sâu hơn về các năng lực mà con người đã tự trang bị để sinh tồn và tiến hoá thành một giống loài ngự trị trên trái đất, để rồi chính trong tiến trình hoàn thiện và nâng cấp các năng lực ấy chúng ta sẽ bị truất quyền kiểm soát bởi một sinh vật mới, mang tên Homo Deus.   Mời các bạn đón đọc Lược Sử Tương Lai của tác giả Yuval Noah Harari & Dương Ngọc Trà (dịch) & Lê Dọn Bạn (dịch).