Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Án Mạng Mười Một Chữ

Tình cờ phát hiện những điều bất thường sau cái chết thảm khốc của người yêu, nhân vật “tôi”, một nữ nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám đã cùng bạn mình, Hagio Fuyuko, cũng là biên tập viên phụ trách sách của “tôi” quyết định điều tra về cái chết này. Trong quá trình điều tra hai người phát hiện người yêu của “tôi” đã từng gặp tai nạn lật thuyền trong chuyến du lịch đảo một năm trước. Và khi họ tìm tới những người cũng tham gia chuyến đi đó để tìm hiểu thì những người này cũng lần lượt bị sát hại. Cuối cùng “tôi” buộc phải tự mình phán đoán, điều tra để tìm ra chân tướng sự việc. Án mạng mười một chữ cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình vào năm 2011. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Review Mọt Mọt:   Án mạng mười một chữ: Higashino Keigo – Những kẻ vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ Khi một vụ án chẳng ai là người trong sạch. Khi tình bạn bị lợi dụng cho mục đích cá nhân. Khi sự thật được phơi bày khiến tất cả đều thương tổn. Bên tình, bên lý, biết chọn bên nào? Án mạng mười một chữ, nỗi đau quá khứ, kéo dài tới hiện tại, lạnh lùng, tàn nhẫn mà đắng cay, chua chát. Cuốn tiểu thuyết mang âm hưởng của trinh thám cổ điển Ra đời vào năm 1987, có thể nói, Án mạng mười một chữ được Higashino Keigo xây dựng rất khác so với các tác phẩm sau này: ngắn gọn, súc tích, tập trung nhiều hơn về mặt tình tiết, quá trình điều tra, phá án. Từ đấy, ông đã đưa sáng tác tiến gần hơn với thể trinh thám cổ điển. Xét về mặt dung lượng, tiểu thuyết Án mạng mười một chữ chỉ gói gọn trong 258 trang truyện, ngắn hơn nhiều khi đặt cạnh hàng loạt các tác phẩm về sau của Keigo-sensei như Bí mật của Naoko, Đơn phương, Bạch dạ hành hay Phương trình hạ chí… Bởi thế, dòng sự kiện của tác phẩm được chú trọng vào cốt truyện chính: quá trình một nhà văn chuyên viết truyện trinh thám đi tìm lời giải đáp cho cái chết đầy bí ẩn của người đàn ông cô yêu. Và trong quá trình đó, cô gái ấy khám phá ra hàng loạt bí ẩn cả trong quá khứ lẫn hiện tại, cả các bí mật về những con người cô vốn không quen biết tới người bạn cô vốn tưởng đã rất thân quen. Từ đấy, Keigo tiên sinh tạo lên kết cấu truyện lồng truyện, sự việc này nối tiếp, là nhân quả cho sự việc kia: Bí ẩn hôm nay, liên đới với cái chết năm xưa; hành động trả thù cho quá khứ, làm nên án mạng trong hiện tại. Một khía cạnh nữa khiến cho Án mạng mười một chữ trở lên gần gũi với các tác phẩm trinh thám cổ điển còn nằm ở yếu tố: Keigo-sensei đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng tình tiết và tạo dựng những cuộc đối thoại, tương tác giữa các nhân vật. Nói như thế không có nghĩa Án mạng mười một chữ thiếu đi các phân cảnh miêu tả nội tâm hay sự biến đổi tâm trạng nhân vật. Vẫn có những day dứt, những hối hận, những mệt mỏi, những sợ hãi… của một con người theo đuổi đến cùng hai chữ chân lý, của một cô gái lần đầu vướng vào những bí ẩn liên hoàn đã cướp đi người đàn ông cô yêu, người bạn thân của cô, thậm chí bản thân cô thiếu chút nữa cũng đã mất mạng. Nhưng trong cuốn sách 258 chương, tình tiết liên tiếp, dồn dập diễn ra; cùng với đó là bản thân nhân vật tôi gặp gỡ hàng loạt nhân vật khác, những người liên đới trực tiếp tới vụ án; vì thế tần suất của các cuộc đối thoại cũng trở nên dày đặc. Không chỉ vậy, trong Án mạng mười một chữ, tác giả còn kết hợp sử dụng nhiều câu văn ngắn, điều đó càng góp phần đẩy mạnh nhịp truyện cũng như tiến trình sự kiện diễn ra nhanh hơn nữa. Nhưng tất cả, đều nằm trong một trục quá trình: Hành trình tìm kiếm sự thật của nữ nhà văn viết truyện trinh thám, đang tự đặt mình vào vai thám tử trong câu chuyện cuộc đời của chính cô. Đồng thời, tác giả cũng khước từ việc gắn Án mạng mười một chữ với những vấn đề quá mức đao to búa lớn trong xã hội. Cho nên tác phẩm dẫu mang hình thức truyện lồng truyện, một án mạng không đứng độc lập mà luôn gắn với bí ẩn phía sau – động cơ gây án của hung thủ và án mạng có thể tiếp nối án mạng mãi chẳng dừng nếu hận thù con người chẳng dứt thì cốt truyện của Án mạng mười một chữ vẫn rất gọn. Từ đó mà làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên gần gũi hơn với trinh thám cổ điển. Những kẻ, vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ. Mặc dù mang nội dung, cốt truyện và cách triển khai cốt truyện gần với trinh thám cổ điển thì Án mạng mười một chữ vẫn là một tác phẩm trinh thám chứa đựng những yếu tố trinh thám hiện đại do Higashino Keigo sáng tạo lên. Nhân vật trung tâm trong tác phẩm – xưng tôi, tự kể lại trải nghiệm của bản thân về vụ án, về quá trình cô điều tra, phá án để đi tới được ánh sáng ẩn sau bức màn. Nhưng nhân vật ấy lại không phải thám tử hay điều tra viên chuyên nghiệp. Cô chỉ là một nhà văn tự do viết tiểu thuyết trinh thám mà thôi. Vì thế bản thân cô hẳn chưa khi nào tưởng tượng tới việc chính mình lại trở thành nhân vật chính cho tấn bi kịch kéo dài với đủ plot twist như một cuốn truyện trinh thám như vậy. Cũng bởi không phải người điều tra chuyên nghiệp, tiếp cận vụ án với tâm thế của người đến sau, bị động nên “tôi” không tránh khỏi những hành động, suy đoán có phần nghiệp dư, nhẹ dạ, thậm chí ngây thơ. Và đây hoàn toàn là tâm lý tự nhiên của con người khi phải ứng phó với một hoàn cảnh bất ngờ, khi phải đối diện trước sự phức tạp của sự việc lẫn lòng người như thế. Sáng tạo lên một nhân vật chuyên sáng tác trinh thám đồng thời đặt nhân vật đó một tác phẩm trinh thám để giải quyết vụ án chính nhân vật vướng phải, đây vừa là sáng tạo, cũng vừa là cách thức Keigo-sensei phần nào tái hiện hiện thực: sự khác biệt rất lớn giữa đời sống với trang văn. Bên cạnh đó, ngoài hình thức truyện lồng truyện, Án mạng mười một chữ còn mang kết cấu đa thanh, đa bội ngôi kể, đa dạng điểm nhìn ở từng chương truyện. Đó là sự đan xen của bốn màn độc thoại ngắn vào mạch truyện chính. Ở đó, người độc thoại không phải nhân vật “tôi” – nữ nhà văn trinh thám mà là một “tôi” khác, theo sát bước chân nhân vật chính đồng thời tham gia trực tiếp vào hàng loạt vụ án mạng trong hiện tại. Tất nhiên, nếu độc giả là một người đã quá quen thuộc với dòng truyện trinh thám thì không thật khó khăn để biết được, tôi trong bốn màn độc thoại ngắn kia là ai. Nhưng sáng tạo lên một cái “tôi” bí ẩn, Keigo-sensei đã tạo lên tính phức hợp, phức điệu cho cuốn tiểu thuyết chỉ hơn 200 trang của ông. Ở đấy, có sự đa thanh của lời kể, đặt độc giả vào những dòng tự sự khác nhau, qua những điểm nhìn khác nhau để từ đó, người đọc có được cái nhìn tổng quan, toàn diện, đa chiều về hệ thống nhân vật cũng như toàn bộ câu chuyện ông xây dựng. Để từ đó, người đọc nhận ra, Án mạng mười một chữ gần gũi với trinh thám cổ điển, cũng dễ đoán biết hung thủ của những vụ án liên hoàn là ai, song đây không phải một cuốn tiểu thuyết được tạo dựng lên một cách đơn giản. Mà trong câu chuyện đó, trong tấn bi kịch kéo dài mãi từ quá khứ cho tới hiện tại và có thể vẫn tiếp nối tới tương lai, là muôn vàn gương mặt: vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ, không ai hoàn toàn trong sạch song cũng không ai lại đáng trách hoàn toàn. Kẻ là nạn nhân hôm nay, trong quá khứ khi xưa đã từng là hung thủ của một vụ ám sát đầy tàn độc. Hung thủ trong hiện tại, lại là nạn nhân của bi kịch quá khứ. Nạn nhân trong quá khứ, phần nào lại trở thành hung thủ khi đặt trên sự phán xét của khía cạnh đạo đức. Kẻ như đứng sau tất cả bi kịch, lại bỗng trở thành nạn nhân nếu toàn bộ sự thật bị phơi bày… Ai cũng có động cơ riêng, ai cũng có nỗi khổ tâm riêng đẩy người ta vướng vào tội ác. Xây dựng lên những khuôn mặt đó, Keigo-sensei lần nữa, đưa tác phẩm của ông tiến gần tới hiện thực cuộc sống. Bởi cuộc sống đa diện và phức tạp, phải – trái, trắng – đen, đúng – sai,… vốn đâu thể lúc nào cũng có thể phân định rạch ròi. Vì thế, sự thật vốn được giấu trong chiếc hộp Pandora, khi người ta nhất quyết khai mở, chạm vào đó chỉ là nghiệt ngã, khổ đau, day dứt. Và con người, đứng trước hiện thực tàn nhẫn, chỉ có thể lựa chọn cách giải quyết để xoa dịu tâm hồn, để bản thân không phải hối hận về sau. Giống như một phương trình có vô số nghiệm, người ta chỉ có thể lựa chọn nghiệm tối ưu cho cuộc đời mà thôi. Và ở khía cạnh này, Higashino Keigo đã gặp gỡ tác giả Agatha Christie, khi bà viết lên Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông cũng với những gương mặt vừa là hung thủ, vừa là nạn nhân như vậy. Nhưng với lối tạo dựng cốt truyện, cách tạo dựng hệ thống nhân vật và khắc họa từng cá nhân, mỗi cái “tôi” khác nhau mà Keigo-sensei đã tạo lên Án mạng mười một chữ thật sự là của riêng bản thân ông, một tác phẩm, vừa cổ điển cũng vừa hiện đại. Dẫu sự thật ra sao, cuộc sống vẫn tiếp tục chảy trôi không ngừng. Có lẽ, cách kết truyện của Án mạng mười một chữ với một hiện thực phơi bày: ai cũng là nạn nhân, ai cũng là hung thủ và chẳng kẻ nào phải trả giá trước pháp luật là một cái kết khó chiều lòng tất cả độc giả, đặc biệt những ai muốn có sự rạch ròi, muốn kiếm tìm sự trắng – đen phân minh trong một tác phẩm trinh thám. Nhưng như đã nói, cuộc đời vốn không phải lúc nào cũng thể phân rõ phải – trái, đúng – sai và dẫu sự thật có ra sao, người ta chọn cách sống thế nào, thì thời gian vẫn tiếp tục chảy trôi, cuộc đời vẫn tiếp tục diễn tiến và con người vẫn phải tiếp tục hướng đến tương lai. Chỉ là, hận thù chắc chắn không thể giải quyết bằng hận thù, kéo dài đau thương, bi kịch chỉ khiến cho tâm hồn thơ dại, trong sáng của những đứa trẻ vô tội như cô bé Yumi càng thêm đau khổ mà thôi. Vậy tại sao, mỗi người không buông bỏ thù hằn, như nhân vật “tôi”, đã chấp nhận sự phức tạp của cuộc đời để có thể đối diện với tương lai bằng thái độ bình thản nhất: “Nhưng từ giờ mọi chuyện ra sao cũng được, tôi sẵn sàng đón nhận. Vì tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Dù ngày mai có xảy ra chuyện gì, thì hôm nay cứ đi ngủ cái đã.” *** Anh đang bị đưa vào tầm ngắm đấy.” Anh nghiêng ly rượu bourbon. Những viên đá trong ly lanh canh nhảy múa. “Bị đưa vào tầm ngắm?” Nghĩ anh đang đùa, tôi nhếch môi cười, hỏi lại. “Nhưng cái gì… bị ngắm cơ?” “Tính mạng anh.” Anh trả lời. “Hình như ai đó đang muốn giết anh.” Tôi vẫn cười. “Tại sao người đó lại muốn giết anh?” “À thì…” Anh im lặng chốc lát rồi tiếp tục. “Anh cũng không biết. Tại sao vậy nhỉ?” Giọng anh nặng nề quá đâm tôi không cười nổi nữa. Ngắm nghía khuôn mặt nhìn nghiêng của anh một hồi, tôi quay qua nhìn gương mặt người pha chế đang đứng quầy, rồi nhìn lại tay mình. “Tức là anh không biết tại sao, nhưng linh cảm thế à?” “Không chỉ linh cảm thôi đâu.” Anh nói. “Anh đang gặp nguy hiểm thật đấy.” Rồi anh gọi thêm một ly bourbon nữa. Tôi nhìn quanh, để chắc chắn không ai để ý, rồi mới quay sang gương mặt nhìn nghiêng của anh, cất lời: “Anh có thể giải thích rõ hơn được không? Rốt cuộc đã có chuyện gì?” “Thì đấy…” Anh uống cạn ly rượu, rồi châm lửa hút thuốc. “Anh đang gặp nguy hiểm. Vậy thôi.” Rồi anh nói khẽ: “Anh cũng thật là… Không định nói với em, mà lại lỡ lời. Chắc do ảnh hưởng của câu chuyện hồi trưa.” “Chuyện hồi trưa?” “Không có gì đâu,” anh lắc đầu. “Nói chung em không cần biết chuyện này.” Tôi chăm chú nhìn cái ly trong tay mình. “Vì em có biết cũng chẳng giải quyết được gì à?” “Không chỉ vì mỗi lý do đó.” Anh nói. “Em biết chỉ thêm lo thôi. Trong khi nỗi bất an của anh thì vẫn còn đó.” Tôi không đáp lại lời anh, chỉ bắt tréo hai chân đang để dưới quầy. “Này, tức là ai đó đang muốn hãm hại anh à?” “Ừ, cứ cho là vậy đi.” “Anh có thấy gì khả nghi không?” “Em hỏi lạ quá!” Lần đầu tiên anh bật cười kể từ lúc bước vào quán bar này. Làn khói màu trắng bồng bềnh phả ra từ kẽ răng. “Em nghĩ có ai đang yên đang lành lại kêu tính mạng mình đang bị đe dọa không? Em thì sao?” “Ừ thì…” tôi ngập ngừng. “Có thể không mà cũng có thể có. Vì em nghĩ chủ ý sát nhân xét cho cùng cũng giống với quan điểm sống thôi.” “Anh cũng nghĩ vậy.” Anh khẽ gật đầu. “Vậy là anh thấy gì đó khả nghi đúng không?” “Không phải tự mãn đâu, nhưng anh tìm được manh mối ở nhiều việc lắm.” “Nhưng anh lại không thể nói ra.” “Vì anh có cảm giác nếu nói ra rồi, thì những hoài nghi ấy sẽ trở thành sự thực.” Rồi anh tiếp. “Anh nhát gan lắm.” Sau đó chúng tôi im lặng ngồi uống rượu, đến khi mệt rồi thì đặt ly xuống, rời khỏi quán, thả bộ trên con đường mưa rơi. _Anh nhát gan lắm._ Tôi vẫn nhớ lời sau cùng của anh. 2 Tôi quen Kawadu Masayuki qua sự giới thiệu của một người bạn. Người bạn đó biên tập sách của tôi, tên Hagio Fuyuko. Fuyuko bằng tuổi tôi, là người phụ nữ chỉ biết đến công việc, và làm ở nhà xuất bản đã gần mười năm nay. Cô luôn đóng bộ áo vest đĩnh đạc như phụ nữ nước Anh, bước đi đầy tự tin. Tôi chơi với cô từ khi bước vào giới này, thấm thoắt cũng đã được ba năm. Nhưng khoảng hai tháng gần đây, một Fuyuko như thế bỗng nhiên lại hăng say bàn tán chuyện đàn ông nhiều hơn là bản thảo. Đúng cái hôm có thông báo quần đảo Amami sắp bước vào mùa mưa. “Tớ biết một anh chàng tuyệt lắm.” Cô nói với gương mặt nghiêm túc. “Một nhà văn tự do tên là Kawadu Masayuki. Cậu biết anh ấy không?” Tôi trả lời là không biết. Tên người cùng ngành lắm lúc tôi còn chẳng biết. Huống chi mấy nhà văn tự do. Theo lời Fuyuko kể thì anh Kawadu Masayuki đó sắp ra sách, và họ đã dần trở nên thân thiết sau vài lần tình cờ cùng tham gia mấy buổi họp xuất bản. “Anh ấy cao, đẹp trai lắm.” “Ừ.” Fuyuko mà lại nói về đàn ông cơ đấy, thật hiếm hoi làm sao. “Tớ thật muốn gặp người được Fuyuko khen hết lời như vậy một lần.” Nghe tôi nói, cô cười đáp: “Ừ, vậy để lần tới nhé.” Tôi chỉ tiện miệng nói chơi, mà hình như cô cũng chẳng cho là thật. Thế nên chẳng bao lâu sau tôi đã quên béng mất lời hẹn như mấy câu chuyện làm quà khác ấy. Nhưng sau đó vài tuần, rốt cuộc tôi cũng gặp Kawadu Masayuki. Anh tình cờ có mặt trong quán bar tôi đến cùng Fuyuko. Cùng đi với anh là một họa sĩ to béo đang mở triển lãm cá nhân tại Ginza. Kawadu Masayuki quả là một người đàn ông bảnh bao. Anh cao khoảng một mét tám, gương mặt thon gọn, rám nắng. Chiếc áo jacket màu trắng trông thật hợp với anh. Vừa nhìn thấy Fuyuko, anh liền vẫy cánh tay đang đặt trên mặt quầy gọi. Fuyuko thoải mái bắt chuyện với anh, rồi giới thiệu tôi. Đúng như tôi dự đoán, anh chưa từng nghe đến tên tôi. Kể cả khi nghe giới thiệu tôi là nhà văn viết truyện trinh thám, anh cũng chỉ gật đầu như thể đang bối rối. Hầu hết mọi người đều có phản ứng tương tự khi nghe tôi giới thiệu như vậy. Sau đó, cũng tại quán bar ấy, chúng tôi trò chuyện một lúc lâu. Giờ ngẫm lại, tôi vẫn thấy lạ, không hiểu sao chúng tôi có thể nói chuyện lâu đến vậy. Tôi cũng không nhớ nổi chúng tôi đã nói những gì với nhau. Trừ một việc là sau cuộc nói chuyện đó, chỉ có tôi và Kawadu Masayuki rời khỏi quán. Chúng tôi đi đến một quán khác, rồi rời đi sau khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi hơi say, nhưng chưa tới mức cần anh đưa về. Mà anh cũng không gượng ép đề nghị. Ba ngày sau, anh gọi điện, mời tôi đi ăn. Tôi không có lý do nào để từ chối, sự thực thì anh là một người đàn ông không tồi, nên tôi cũng chẳng mấy do dự, cứ thế nhận lời. “Tiểu thuyết trinh thám hay ở điểm nào vậy?” Anh hỏi khi chúng tôi đang nhâm nhi chút rượu vang ở nhà hàng trong khách sạn. Tôi không nghĩ ngợi gì, chỉ máy móc lắc đầu. “Nghĩa là cô không biết?” anh hỏi. “Tôi mà biết thì sách của tôi đã bán chạy hơn rồi,” tôi đáp. “Thế anh nghĩ nó hay ở điểm nào?” Anh vừa gãi gãi mũi vừa nói, “Hay ở điểm người ta đã tạo ra nó chăng?” “Những vụ án trong đời thực nhiều khi không phân định rạch rời trắng đen. Ranh giới giữa cái đúng và cái sai rất mơ hồ. Vậy nên dù vấn đề được đặt ra rồi, nhưng người ta lại không thể mong chờ một kết luận tương xứng. Bởi vì nó chỉ là một phần của cái gì đó lớn lao mà thôi. Nhưng ở điểm đó thì tiểu thuyết lại làm trọn vẹn. Đó là một dạng kết cấu. Và tiểu thuyết trinh thám chẳng phải là thể loại kỳ công nhất trong việc xây dựng kết cấu đó hay sao?” “Có lẽ là vậy,” tôi nói. “Anh đã bao giờ phải trăn trở trước ranh giới giữa cái đúng và cái sai chưa?” “Có chứ.” Anh nhếch môi. Tôi nghĩ anh không nói dối. “Rồi anh có đem nỗi trăn trở ấy viết vào sách không?” “Cũng có,” anh đáp. “Nhưng phần lớn là tôi không thể làm được.” “Tại sao lại không thể?” “Vì nhiều lý do lắm.” Gương mặt anh hơi khó chịu, nhưng chỉ một loáng sau anh đã lấy lại vẻ hiền lành vốn có, và rồi bắt đầu nói về tranh vẽ. Tối hôm đó anh đến căn hộ của tôi. Căn hộ vẫn còn vương lại mùi của người chồng cũ. Thoạt đầu trông anh có vẻ hơi lúng túng nhưng chỉ một lát sau anh lập tức quen ngay. “Anh ấy từng là nhà báo,” tôi nói về chồng cũ. “Anh ấy hiếm khi ở nhà. Rồi rốt cuộc cũng chẳng còn lý do nào để trở về ngôi nhà này nữa.” “Và thế là anh ta không quay lại đây nữa?” “Vâng.” Trên chiếc giường chồng cũ từng ôm ấp tôi, Kawadu Masayuki đã cho tôi những khoái cảm dịu dàng hơn rất nhiều so với người chồng cũ. Làm tình xong, anh còn vòng tay ôm vai tôi, đề nghị, “Lần sau em đến chỗ anh nhé?” Chúng tôi gặp nhau khoảng một, hai lần một tuần. Hầu hết là anh đến chỗ tôi, nhưng cũng đôi khi tôi tới nhà anh. Anh độc thân, hình như cũng chưa từng kết hôn, vậy mà phòng ốc lại ngăn nắp như thể phòng của người đã lập gia đình. Tới mức tôi còn tưởng tượng hay là có ai đó dọn dẹp phòng giúp anh? Rồi chẳng mấy sau đó, mối quan hệ của chúng tôi bị Fuyuko phát hiện. Số là Fuyuko đến chỗ tôi lấy bản thảo đúng lúc anh đang có mặt ở đó, nên tôi không thể bịa ra được lý do nào để giải thích. Mà thật ra tôi cũng đâu cần phải giải thích điều gì. “Cậu yêu anh ta à?” Fuyuko hỏi lúc chỉ có hai người chúng tôi. “Tớ thích anh ấy,” tôi trả lời. “Thế cậu có định kết hôn không đấy?” “Làm gì có chuyện.” “Vậy à.” Fuyuko thở phào như trút được gánh nặng, đôi môi khẽ nở một nụ cười duyên dáng. “Thấy hai người thân thiết, người bắc cầu như tớ đây cũng vui lắm. Nhưng cậu đừng sa đà quá. Cứ duy trì mối quan hệ như hiện tại thôi.” “Không sao đâu. Tớ đã có bài học nhớ đời rồi mà,” tôi nói. Rồi hai tháng trôi qua. Mối quan hệ giữa tôi và Kawadu Masayuki vẫn được duy trì đúng mực như lời hứa với Fuyuko. Ngay cả hồi tháng Sáu, khi chúng tôi đi du lịch cùng nhau, may thay anh cũng không đả động gì tới chuyện kết hôn. Bằng không hẳn tôi phải bối rối lắm. Nhưng nghĩ lại, dẫu anh có nhắc đến chuyện kết hôn thì cũng chẳng có gì là lạ. Anh đã ba mươi tư tuổi, tính chuyện lập gia đình cũng là lẽ đương nhiên. Hay là anh cũng đang cố duy trì một mức độ nhất định nào đó trong mối quan hệ với tôi? Nhưng nếu cứ mải bận tâm đến điều đó e là tôi sẽ làm mất đi ý nghĩa của mối quan hệ này mất. Thế rồi khi chúng tôi quen nhau được hai tháng. Thì Kawadu Masayuki chết ngoài biển. 3 Vào một ngày tháng Bảy, cảnh sát đến thông báo cho tôi về cái chết của anh. Anh ta điềm tĩnh, song vẻ ngoài tầm thường hơn nhiều so với những cảnh sát tôi vẽ ra trong tiểu thuyết của mình. Có thể dùng từ “có sức thuyết phục” để miêu tả về người này. “Sáng nay, người ta phát hiện một thi thể nổi trên vịnh Tokyo. Khi vớt thi thể ấy lên, từ di vật còn sót lại chúng tôi xác định đó là anh Kawadu Masayuki.” Vị cảnh sát nhỏ nhắn nhưng có vẻ khỏe mạnh gần bốn mươi tuổi thông báo. Bên cạnh anh ta là một cảnh sát trẻ khác. Anh này thì chỉ yên lặng đứng đấy. Tôi mất vài giây không thốt nên lời, sau đó nuốt nước bọt. “Vậy là các anh xác định được danh tính rồi ạ?” “Vâng,” vị cảnh sát thu cằm lại. “Nạn nhân quê ở Shizuoka. Em gái anh ta đã đến nhận dạng thi thể, ngoài ra chúng tôi cũng đã giám định răng và chụp X quang.” Rồi vị cảnh sát nhấn mạnh thêm, “Kết quả cho thấy đó là anh Kawadu Masayuki.” Thấy tôi vẫn im lặng, anh ta tiếp, “Có thể phiền cô bớt chút thời gian để chúng ta thong thả trao đổi không?” Cánh cửa trước sảnh ra vào vẫn đang mở. Tôi đề nghị họ đợi ở quán cà phê gần nhà, nghe vậy hai vị cảnh sát khẽ gật đầu rồi rời đi. Nhưng đến khi họ đi khuất, tôi vẫn đứng ở cái sảnh ấy, lơ đễnh nhìn ra bên ngoài, mãi sau mới thở dài, đóng cửa, đi về phòng ngủ, thay đồ để ra khỏi nhà. Đứng trước bàn trang điểm để tô chút son mà tôi như ngừng thở. Gương mặt phờ phạc của tôi phản chiếu trong tấm gương. Trông tôi có vẻ mệt mỏi ngay cả với việc biểu lộ cảm xúc. Tôi rời mắt khỏi cái gương, lấy lại nhịp thở, rồi nhìn lại khuôn mặt mình trong gương. Lần này có vẻ khá hơn rồi. Tôi gật gù hài lòng với biểu cảm ấy. Tôi thích anh ấy. Nhưng anh đã chết, tôi buồn là lẽ đương nhiên. Vài phút sau, tôi đã ngồi đối diện hai vị cảnh sát trong quán cà phê mình vẫn thường hay lui tới. Ở đây còn bán cả bánh ngọt nữa. Bánh ở đây tươi, vị ngọt thanh. “Anh ta bị sát hại,” vị cảnh sát nói như tuyên bố. Nhưng tôi không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Vì đó là lời mà tôi đã lường trước. “Anh ấy bị sát hại như nào vậy ạ?” tôi hỏi. “Cực kỳ khủng khiếp,” vị cảnh sát nhăn mặt. “Gáy bị đập mạnh bởi một vật cùn. Thi thể thì bị vứt lại bên cạnh vịnh. Chỏng chơ như rác.” Người yêu tôi đã bị người ta vứt ở đó như một đống rác. Vị cảnh sát ho một tiếng. Tôi ngẩng mặt lên. “Vậy nguyên nhân tử vong là do xuất huyết bên trong não hay là…?” “Không phải.” Anh ta ngắt lời, nhìn lại gương mặt tôi rồi nói tiếp. “Hiện tại chúng tôi chưa thể khẳng định chắc chắn điều gì. Tuy có dấu vết bị đập vào gáy, nhưng chừng nào chưa có kết quả giải phẫu thì tất cả chỉ là phỏng đoán.” “Vậy ạ?” Nghĩa là có khả năng anh ấy bị sát hại bằng một phương thức khác, nhưng sau đó hung thủ còn đập mạnh vào gáy và vứt anh đi ư? Nếu đúng như vậy, thì tại sao hung thủ phải tàn bạo đến mức đó? “Còn chuyện này…” Vị cảnh sát gọi tôi, chắc do thấy tôi lơ đễnh quá. “Hình như cô cũng gần gũi với anh Kawadu Masayuki nhỉ?” Tôi gật đầu. Chẳng có lý do gì để phủ nhận điều đó. “Cô là người yêu của anh ấy à?” “Tôi nghĩ vậy.” Vị cảnh sát hỏi quá trình chúng tôi gặp gỡ. Tôi trả lời thành thật. Tôi cũng sợ sẽ phiền đến Fuyuko nhưng cuối cùng vẫn nhắc đến tên cô. “Lần cuối cùng cô nói chuyện với anh Kawadu là khi nào?” Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời. “Tối hôm kia. Anh ấy gọi tôi tới.” Chúng tôi dùng bữa ở nhà hàng, sau đó uống rượu ở quán bar. “Hai người đã nói những chuyện gì?” “Chúng tôi nói nhiều chuyện lắm… trong đó…” Tôi cúi mặt, mắt nhìn cái gạt tàn bằng thủy tinh. “Anh ấy có nói rằng mình đang bị ai đó nhắm.” “Bị nhắm sao?” “Vâng.” Tôi kể những điều mình đã nghe từ anh trong buổi tối hôm kia. Đôi mắt vị cảnh sát bỗng sáng lên lấp lánh. “Và anh Kawadu cũng thấy có điều gì khả nghi?” “Tôi không dám khẳng định.” Vì anh cũng không khẳng định chắc chắn điều đó. “Nhưng cô thì không thấy có gì khả nghi à?” Tôi gật đầu. “Vâng.” Sau đó vị cảnh sát hỏi về quan hệ bạn bè và công việc của anh. Tôi hầu như không biết gì. “Tiện đây xin hỏi tối qua cô đã ở đâu vậy ạ?” Câu hỏi cuối cùng của anh ta nhằm mục đích xác nhận chứng cứ ngoại phạm của tôi. Họ không hỏi thời gian cụ thể hẳn là do chưa xác định được thời gian tử vong chính xác. Nên dù tôi có đưa ra thời gian cụ thể thì cũng chẳng giúp ích gì cho chứng cứ ngoại phạm của mình cả. “Hôm qua tôi ở nhà cả ngày,” tôi trả lời. “Tôi làm việc.” “Nếu có ai làm chứng được cho cô thì tốt.” Vị cảnh sát ngước lên nhìn tôi với vẻ kẻ cả. “Tiếc là không có,” tôi lắc đầu. “Việc đó e là không thể. Vì tôi ở nhà một mình, cũng chẳng có ai đến chơi cả.” “Tiếc thật. Cuộc đời đúng là có nhiều chuyện đáng tiếc quá.” Sau đó vị cảnh sát xin lỗi vì đã làm phiền tôi rồi đứng dậy. Đúng như tôi đoán, chiều tối hôm đó Fuyuko tới. Cô thở gấp như thể đã chạy như bay đến nhà tôi vậy. Khi ấy tôi đã mở sẵn văn bản để soạn thảo, dù chưa đánh được chữ nào, và đang uống bia. Trước khi uống bia tôi đã khóc. Khóc mệt nên tôi mới uống bia. “Cậu nghe rồi chứ?” Vừa nhìn thấy tôi, Fuyuko lập tức hỏi. “Cảnh sát tới đây rồi,” tôi đáp. Cô có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng chấp nhận điều hiển nhiên ấy. “Cậu có thấy gì khả nghi không?” “Tớ không, chỉ biết là anh ấy bị người ta nhắm đến thôi.” Đôi mắt Fuyuko tròn xoe, miệng há hốc vì ngạc nhiên, tôi kể cho cô chuyện hôm kia. Cô ấy lắc đầu tiếc nuối y chang vị cảnh sát đó. “Chẳng nhẽ không có cách gì để ngăn chặn sao? Như là báo cảnh sát chẳng hạn.” “Tớ cũng không biết. Nhưng chắc anh ấy có lý do riêng nên mới không làm vậy.” Cô lại lắc đầu. “Vậy nghĩa là cậu không thấy có gì khả nghi à?’ “Không. Thật ra…” tôi ngập ngừng, rồi tiếp tục, “Tớ hầu như chẳng biết gì về anh ấy cả.” “Thế à?” Fuyuko nghe chừng thất vọng lắm. Biểu cảm của cô y hệt vị cảnh sát đến đây hồi trưa. “Từ nãy tới giờ tớ cứ nghĩ về anh ấy mãi,” tôi nói. “Nhưng mà tớ không biết gì cả. Có một đường kẻ được vạch ra giữa tớ và anh ấy, cả hai đều cố để không xâm phạm đường kẻ ấy. Mà vụ án lần này lại xảy ra bên vùng của anh ấy.” Tôi hỏi Fuyuko có muốn uống gì không, cô gật đầu nên tôi vào bếp mang bia ra. Giọng Fuyuko vang lên từ sau lưng tôi. “Trong số những chuyện anh ấy nói, có chuyện nào để lại ấn tượng với cậu không?” “Dạo gần đây bọn tớ không chuyện trò với nhau nhiều.” “Nhưng cũng phải nói chuyện gì chứ. Chẳng lẽ gặp nhau là lên giường ngay à?” “Cũng gần như là vậy đó,” tôi nói, má hơi rúm lại. Mời các bạn đón đọc Án Mạng Mười Một Chữ của tác giả Higashino Keigo & Phương Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truy Lùng
Masao đau đớn khi nhận tin cả hai bố mẹ đã tử nạn sau một tai nạn máy bay. Kinh hoàng và xót xa tột độ nhưng bằng trí thông minh, sự tỉnh táo của mình, Masao kịp nhận ra phía sau đó là một âm mưu… Bản năng sinh tồn cùng với quyết tâm làm sáng rõ cái chết của cha mẹ đã giúp Masao tẩu thoát và truy tìm sự thật. Nhưng ở bất cứ đâu, Masao cũng phải đối diện với sự truy lùng ráo riết đầy nguy hiểm của người chú - kẻ chủ mưu chiếm đoạt tài sản của cha mẹ anh. Cuộc chạm trán cuối cùng đầy bất ngờ và kịch tính, Masao tưởng rằng, mọi chuyện đã chấm hết. Nó cũng kết thúc, nhưng người phải chết lại không phải Masao… *** Sidney Sheldon , là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Phần lớn tác phẩm của ông thuộc thể loại trinh thám, hình sự, tình cảm, và đều thuộc hàng best-seller. Các tác phẩm như Rage of Angels (Thiên thần nổi giận), The Other Side of Midnight (Phía bên kia nửa đêm), If Tomorrow Comes (Nếu còn có ngày mai)... đã làm nên tên tuổi Sheldon. Với cốt truyện ly kỳ, hồi hộp, gây thích thú, những quyển sách này đã lôi kéo khá đông độc giả đến với Sheldon. Sidney Sheldon đã xuất bản 18 tiểu thuyết, bán ra đến 300 triệu bản, và là tác giả sách nổi bật nhất trong nhiều thập kỷ. Các bản dịch tác phẩm sang 71 ngôn ngữ ở 180 quốc gia giúp ông được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là “tác giả được dịch nhiều nhất thế giới”. Ông qua đời tại bệnh viện Eisenhower ở thành phố Rancho Mirage thuộc bang California, Hoa Kỳ và thọ 89 tuổi. Ước tính tổng tài sản sau khi qua đời của Sidney Sheldon là 3 tỷ USD. Các bộ tiểu thuyết của Sidney Sheldon: The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi (Tên khác: Người Đàn Bà Quỷ Quyệt) If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Kí ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) *** Sidney Sheldon Truy Lùng   Mở đầu   - Chú ý! Phi công biết chắc rằng tất cả họ sẽ chết. Trong cơn bão giật điên cuồng, chiếc máy bay Silver Arrow Jet mười hai chỗ ngồi bị nhồi lên dội lên dội xuống như một thứ đồ chơi giữa đất trời vùng Appalache. Phi công chính và phụ lái cố ráng sức giữ mũi bay nhoi vượt thoát trận cuồng phong mãnh liệt. Chiếc Silver Arrow Jet quả là một chiếc máy bay tuyệt diệu, được thiết kế và lắp ráp hoàn hảo. Song, vào những giây phút cuối cùng, máy móc bị trục trặc. Một trong hai hành khách ngồi ở cabin sang trọng trên máy bay đứng dậy, tiến vào buồng lái và nói: - Máy móc bị trục trặc, cánh quạt quay không đủ lực đưa máy bay thoát lên cao. Thông thường, phi công đã bảo vị khách nọ quay về chỗ của ông. Nhưng điều đó không thể áp dụng vào trường hợp này. Vị khách nọ là ngài Yoneo Matsumoto, người sáng lập và chủ tịch một trong những tổ hợp công nghiệp lớn nhất thế giới. Phi công vội đáp: - Dạ thưa, kiệt lực rồi ạ. Cả ba người đàn ông hiểu rõ ý nghĩa của câu nói đó. Hết hy vọng sống sót. những ngọn núi nhấp nhô như lớp lớp tên nhọn chĩa cao chờ dịp là lao xô vào máy bay. Lực tàn sức cạn, nó khó bề thoát lên tránh hiểm họa. Máy bay bắt đầu mất độ cao và lê lết như con thú bị thương. Yoneo Matsumoto quan sát một lát các thiết bị trong buồng lái, rồi quay về bên chỗ vợ ngồi. Qua nét mặt bình thản, không để lộ chút hoảng hốt của vợ, ông biết rằng bà không hề sợ hãi. Ông âu yếm nắm tay bà. Bà mỉm cười nhìn ông chan chứa yêu thương. Yoneo Matsumoto sẵn sàng đón nhận cái chết. Ông đã sống một cuộc đời sôi động, đầy ý nghĩa, ông đã thành đạt hơn biết bao người khác. Từ hai bàn tay trắng, ông đã gây dựng nên nền công nghiệp Matsumoto, doanh nghiệp mà mọi ông chủ đều có quyền tự hào. Ông có hàng ngàn nhân viên làm việc trong cả trăm công xưởng nằm khắp thế giới. Họ tận tụy với ông và rất mực yêu mến, quý trọng ông. Tâm trí ông quay trở lại những ngày đầu, khi ông còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp trường đại học. Ông có năng khiếu bẩm sinh về ngành điện tử và mọi cửa đều rộng mở đón chào ông. Ông đã gặp Eiko và yêu bà say đắm. Bà tiếp thêm cho ông sức mạnh của lòng can đảm và nghị lực để xây dựng nên hãng công nghiệp của chính mình. Trong năm năm đầu, ông lăn lộn suốt ngày đêm, cố kiếm miếng ăn manh áo nuôi Eiko và Massao, đứa con trai nhỏ của hai vợ chồng. Con đường Yoneo Matsumoto lựa chọn thật chông gai, gian khổ, nhưng vốn là người trọng danh dự và có tài, ông không hề nao núng chùn bước trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Đường doanh nghiệp của ông mỗi ngày một thênh thang rộng lớn rồi từ một hãng sản xuất, nó phát triển thành một tổ hợp kinh doanh hùng mạnh. Nền công nghiệp Matsumoto dần dà thu hút các hãng và chi nhánh khác, và từ một cơ sở kinh doanh non trẻ, nó trở thành một công ty khổng lồ - một triều đại công nghiệp bao trùm thế giới chuyên sản xuất các loại máy bay và máy tính điện tử, các loại máy quay phim, máy ảnh, máy thu thanh, truyền hình và hàng trăm chủng loại khác nữa. Một tiếng sét đột ngột dội lên bứt ông ra khỏi mọi suy tư. Tiếp ngay sau đó, một làn chớp sáng ngời rạch ngang bầu trời tựa hồ như vừa có một quả tên lửa khổng lồ điên cuồng lao vút vào khoảng không. Những người ngồi trên máy bay thấy rõ trong khoảnh khắc toàn bộ khung cảnh ngoài trời: quanh họ nhìn đâu cũng chỉ toàn vách núi hiểm trở. Ánh chớp tắt lặn, cảnh vật lại chìm trong bóng đen dày đặc. Yoneo Matsumoto siết chặt tay người vợ thân yêu đã cùng ông chia sẻ mọi nỗi buồn vui, đã từng cổ vũ, động viên ông vượt qua bao sóng gió cuộc đời. Lúc này đây, giữa cảnh trời đất đảo điên trong cơn giông tố cuồng phong, bà lại ở bên ông hiền hậu, dịu dàng và bình tĩnh. Chỉ dăm phút nữa, cả hai ông bà sẽ xa lìa cuộc đời này. Nhưng họ còn đứa con trai Massao, nó sẽ tiếp tục sự nghiệp của họ. Massao sẽ thừa kế để chế Matsumoto và nó sẽ vững vàng cai quản đế chế mà hai vợ chồng đã cùng chung sức tạo dựng nên. Ánh chớp khủng khiếp lại vụt loé và họ thấy rõ cảnh tượng bên ngoài như cảnh địa ngục: một đỉnh núi phủ đầy tuyết đùn lên những áng mây đen tựa chiếc vạc dầu sôi bốc khói nghi ngút và, ngay trước mặt họ, là sườn núi dựng đứng lởm chởm đá như những chiếc răng nhọn nhe ra chỉ chờ họ lao vào là phanh thây xé xác. Mấy giây sau, cả thế giới dường như bị nổ tung thành hàng ngàn tia lửa nhỏ. Sau đó, cảnh vật lại chìm vào bóng đêm chết chóc rùng rợn, gió gào rú thê lương, vang vọng khắp một vùng đất cô đơn trải dài vô tận... Mời các bạn đón đọc Truy Lùng của tác giả Sidney Sheldon.
Cô Gái Trong Mạng Nhện
Cuốn sách Cô gái trong mạng nhện của David Lagercrantz là phần nối tiếp tam bộ khúc Cô gái có hình xăm rồng mà Stieg Larsson hoàn thành trước đó. Cô gái trong mạng nhện là phần nối dài tam bộ khúc Millennium (Cô gái có hình xăm rồng, Cô gái đùa với lửa, Cô gái chọc tổ ong bầu) mà Stieg Larsson đã hoàn thành cách đây một thập kỷ. Tác phẩm đã càn quét các bảng xếp hạng uy tín và tiêu thụ được hơn 8 triệu bản trong năm 2015. Qua ngòi bút của David Lagercrantz, Cô gái trong mạng nhện đã hoàn toàn chinh phục giới phê bình khó tính cũng như độc giả toàn cầu nhờ văn phong tuyệt vời kết hợp giữa phong cách hành động quyết liệt của trinh thám Mỹ và lối phân tích sắc sảo đến từng chi tiết của trinh thám Thụy Điển. Đây được xem như một siêu phẩm kịch tính về chuyến phiêu lưu đầy rủi ro để đi tìm sự thật, công lý và tính minh bạch; phơi bày mối quan hệ móc ngoặc bẩn thỉu giữa giới chính khách, các nhà tài phiệt, các cơ quan tình báo và các tổ chức bí mật ngoài vòng luật pháp. Kể từ sau “vụ Salander”, Lisbeth đột ngột biến mất khỏi thế giới của Mikael Blomkvist, trong khi anh vẫn tiếp tục bám trụ tòa soạn Millennium giữa cơn bão khủng hoảng tài chính và chiến dịch bôi nhọ ác ý trên mạng xã hội. Nhưng một lần nữa, số phận lại đưa đẩy họ bước vào chiến tuyến mới khi Linus Brandell – một nhà nghiên cứu trẻ tuổi đã bất ngờ đến tìm gặp Mikael và khẩn khoản nhờ anh điều tra một vụ tấn công tin tặc động trời nhằm vào nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, giáo sư Frans Balder.  Mikael vốn dĩ không thành thạo mảng công nghệ thông tin, cũng chẳng biết Balder là ai, và đáng lẽ anh đã bỏ qua vụ việc nếu trong câu chuyện Linus không nhắc đến một “nữ hacker lập dị”. Sự nghi hoặc của Blomkvist càng được củng cố hơn, khi ngay sau đó đích thân giáo sư Balder gọi điện thuyết phục anh đến gặp ông vì nghi ngờ có sự rò rỉ thông tin từ một dự án tuyệt mật quy tụ những bộ óc hàng đầu thế giới mà ông tham gia: Dự án Siêu Máy tính Nhân tạo. Tuy nhiên, khi đến nơi hẹn, những gì Blomkvist chứng kiến lại là một đứa trẻ có ánh nhìn vô định ngồi giữa những vòng tròn số bên cạnh thi thể lạnh cứng của vị giáo sư già...  Những bí ẩn giăng mắc, những nhân vật lẩn khuất trong tam bộ khúc Millennium đã dần bước ra từ bóng tối để tiếp tục đưa người đọc vào một câu chuyện cuốn hút ngay từ phần mở đầu và dị thường cho đến tận những dòng cuối cùng. Từ những tổ chức ngầm ở Stockhlom cho tới giới chính trị thao túng Thung lũng Silicon, một âm mưu thâm hiểm đã vượt ra ngoài biên giới Thụy Điển, bao trùm lên toàn thế giới, đe dọa phá vỡ thế cân bằng của cán cân quyền lực. Và sẽ phá vỡ mãi mãi nếu chìa khóa của sự việc không được tìm ra. Ngay từ ban đầu, David Lagercrantz đã đặt độc giả vào một không gian căng thẳng tột độ, khiến họ phải lặng đi trước khả năng vô hạn của khoa học và rùng mình trước cái bắt tay đầy toan tính máu lạnh giữa giới chóp bu với đám tội phạm quốc tế. Lôi cuốn và kịch tính, sự kết hợp giữa các ẩn số toán học và bí ẩn đằng sau những vụ án mạng đã làm nên sự hấp dẫn trí tuệ rất riêng cho Cô gái trong mạng nhện. Và đó cũng là lí do tác phẩm này được các nhà phê bình đánh giá là sự trở lại tuyệt vời của một trong những sê-ri tiểu thuyết trinh thám hay nhất thế kỉ 21. *** đôi lời gửi độc giả   Tôi rất nhớ những buổi sáng sớm, khi Stockholm chìm trong yên lặng và gia đình tôi vẫn đang say giấc. Tôi sẽ uống cà phê, ngồi vào máy tính và viết như thể nó là cứu cánh duy nhất của cuộc đời mình. Đúng vậy, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đôi khi tôi thấy nhớ cảm giác cuồng nhiệt đến phát sốt và mấp mé bờ vực sợ hãi ấy – nỗi sợ hãi rằng mình không đủ tầm để kế tục sự nghiệp của Stieg Larsson. Mối quan ngại ấy là thứ dẫn dắt tôi, và có thể nói Lisbeth Salander là người khiến tôi sợ hãi nhất. Làm sao tôi có thể mô tả một nhân vật ấn tượng đến thế mà không làm độc giả thất vọng? Tôi còn nhớ lúc đầu mình rất hăm hở vào cuộc. Dường như tôi đã cố gắng quá mức, nên phải mất nhiều thời giờ để cắt gọt và tinh giản mọi thứ. Chủ yếu tôi phải lược bớt cảm xúc. Sự ủy mị và sướt mướt không thích hợp với Lisbeth. Cảm xúc của cô ấy chỉ nên được bóng gió đề cập thông qua câu chữ, và tôi nhận ra cô tốt nhất khi có hành động, khi cô chiến đấu Với vị thế của một kẻ dưới cơ. Chỉ cần tôi tìm được đúng tình huống, cô sẽ xuất hiện sống động. Nhưng vẫn còn một vấn đề khiến tôi phải mất một thời gian dài để tháo gỡ: Lisbeth Salander nhớ về quá khứ thế nào? Các bạn cũng biết đấy, thứ làm cho Lisbeth trở thành một nhân vật đặc biệt không chỉ là cá tính. Cũng giống như Người dơi, Siêu nhân hay bất cứ vị siêu anh hùng nào khác, Lisbeth có sự huyền bí của riêng mình, đó chính là một yếu tố quyết định làm nên sức công phá dữ dội của cô. Tôi nhận ra mình cần phải khai thác và phát triển nó. Do vậy, tôi đã quay về thời thơ ấu của Lisbeth, khi người cha tàn ác ngược đãi mẹ Lisbeth và cô thề sẽ trả thù. Tôi cũng nhận ra mình sẽ làm hỏng một phần sự huyền bí của Lisbeth nếu để cô tự nhớ ra những biến cố đó. Chúng sẽ có vẻ bạo liệt hơn nếu được nhìn từ bên ngoài, với chỉ một chút xíu bóng gió về nỗi uất hận và đau đớn của Lisbeth. Tôi cũng cảm thấy mình cần một chiếc kính lọc. Tôi nhận thấy bản thân Stieg Larsson cũng vất vả với vấn đề này: anh gần như luôn nhờ đến ông luật sư già Holger Palmgren, người giám hộ cũ của Lisbeth, để kể lại thời thơ ấu của cô. Tất nhiên đó là một mánh khóe kinh điển. Những hình tượng nhân vật có sức mê hoặc lớn trong văn chương thường được quan sát tốt nhất từ một khoảng cách nhất định. Bạn cần một bác sĩ Watson để tạo nên huyền thoại và duy trì sự bí ẩn xung quanh nó. Từ góc nhìn của nhân vật chính, đa phần mọi thứ sẽ chỉ mang tính logic và hiển nhiên, nhưng khi cùng một quá trình đó được quan sát bởi một người khác, nó sẽ giúp chúng ta hiểu ra vì sao mọi thứ lại đáng chú ý đến như vậy. Nó giúp chúng ta cảm thấy kinh ngạc. Tôi quyết định sử dụng cùng những thủ pháp như Stieg Larsson đã dùng. Tuy nhiên tôi cũng không nhượng bộ hoàn toàn. Tôi tiếp tục đào sâu vào những suy nghĩ và ký ức của Lisbeth Salander, thử thách các giới hạn. Không quá lời khi nói rằng chính quá trình đó đã giúp tôi nắm bắt được cô ấy, và một buổi tối nọ, một buổi tối tuyệt vời, sáng sủa, tôi đã khám phá bí mật lớn nhất của cô gái ấy. Sau cái ngày hôm đó, mọi thứ giống như thể được cô tự viết ra. Tôi bắt đầu hiểu tại sao Lisbeth phải tấn công một lần nữa, mạnh mẽ và không khoan nhượng. Tôi đã nhận ra câu chuyện phải tiếp tục như thế nào, và tôi đã bắt đầu nhớ tiếc nó. Tôi hi vọng các bạn sẽ thích thú câu chuyện! David Lagercrantz, Stockholm, ngày 15 tháng 5 năm 2015 *** Ra mắt độc giả từ năm 2005, bộ trường thiên tác phẩm Milennium gồm "Cô gái có hình xăm rồng", "Cô gái đùa với lửa", "Cô gái chọc tổ ong bầu" của tác giả Stieg Larsson đã tạo nên một cơn địa chấn với hơn 80 triệu bản trên toàn cầu và vẫn chưa hề có dấu hiệu hạ nhiệt. Mười năm sau, độc giả hâm mộ lại háo hức khám phá cuộc điều tra mới của cặp đôi nhà báo Mikael Blomkvist và hacker Lisbeth Salander, dưới ngòi bút của David Lagercrantz, với tựa đề "Cô gái trong mạng nhện". Tác phẩm nối dài này đã tiêu thụ được hơn 8 triệu bản trong năm 2015. Chấp bút dưới áp lực cái bóng khổng lồ của Stieg Larsson, David Lagercrantz đã hoàn toàn chinh phục giới phê bình khó tính cũng như độc giả toàn cầu bằng văn phong tuyệt vời kết hợp giữa phong cách hành động quyết liệt của trinh thám Mỹ và lối phân tích sắc sảo đến từng chi tiết của trinh thám Thụy Điển. Tại buổi giới thiệu sách, dịch giả Vũ Hoàng Anh, họa sĩ Dũng Choai, nhà văn Di Li cùng đại diện Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam đã chia sẻ những nét đặc sắc của bộ tiểu thuyết trinh thám cuốn hút này và những dấu ấn của nó trong phản ánh đời sống văn hóa, xã hội Thụy Điển với tất cả sự lôi cuốn và kịch tính, đặc biệt là sự kết hợp giữa các ẩn số toán học và bí ẩn trong "Cô gái trong mạng nhện" - lý giải vì sao tập sách xứng đáng nối dài bộ series tiểu thuyết trinh thám được đánh giá trong nhóm sách trinh thám hay nhất thế kỉ 21. David Lagercrantz sinh năm 1962 tại Thụy Điển, tốt nghiệp trường báo chí Gothenburg. Ông là cựu phóng viên điều tra của nhật báo Expressen và là người được Nhà xuất bản cũng như Hội đồng bảo vệ tài sản của Stieg Larsson chọn mặt gửi vàng để viết tiếp câu chuyện về Salander. *** Cô gái trong mạng nhện - David Lagercrantz Dịch giả Hoàng Anh người review Trà Phạm #cô_gái_trong_mạng_nhện #trinh_thám_bắc_âu Nối tiếp tam bộ khúc millennium, David Largercrantx tiếp tục mang đến phần 4: cô gái trong mạng nhện với bức tranh toàn diện hơn về cô gái kì quặc Lisbeth và câu truyện đầy hấp dẫn của bộ đôi Lisbeth và Blokvist cùng một mớ rắc rối khác xung quanh hai người. Thực ra đọc xong cũng được 1 tuần rồi, nhưng vì bận chuyện nọ chuyện kia rồi gặp đủ các vấn đề liên quan đến điện thoại và internet nên chẳng thể viết vài dòng ngay được. Nhân ngày mưa, trốn việc viết vội vài dòng vậy. Nội dung truyện khá hấp dẫn, tuy nhiên vẫn có phần hơi gượng gạo khi giới thiệu về các nhân vật, sự ngang tàng, kì quặc của Lisbeth cũng bị giảm bớt phần nào. Các phần đào sâu quá khứ và những bí ẩn xoay quanh Lisbeth cũng gượng gạo không kém. Cảm giác khi đọc là tính cách của các nhân vật không còn được "nguyên vẹn" nữa nên nếu như các phần trước đọc đến đoạn nào, vỗ đùi sung sướng "đúng là Lisbeth có khác" hay "đúng là Blomkvist có khác" thì nay cảm giác như không đúng vậy. Truyện tập trung về mảng IT, hoặc được gọi là tên khác, nhưng cơ bản là về tin học, tin tặc,.v.v. đọc thực sự như đọc tiếng ngoài hành tinh ý, không thuộc phạm trù hiểu biết của mình nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần và có đoạn phải bỏ qua (thà toán em còn hiểu được chứ mấy cái này em chịu). Truyện cũng nói đến một loạt các vấn đề trong đời sống hằng ngày mà ta có thể bắt gặp ngoài đời thực và khiến ta nhức nhối, phải suy nghĩ, phải lo lắng cho thực tế không tốt đẹp chút nào. Nói chung truyện ổn, hơi gượng gạo nhưng nội dung vẫn đầy đủ các yếu tố hấp dẫn. *** Nửa đầu dài dòng với những giới thiệu về vô số cục, ngành, cơ quan nhà nước. Cục tình báo, cục điều tra thương nghiệp, cục gì gì gì gì và các tổ chức tội phạm. Đọc mà loạn xà ngầu. Có lẽ vì mình không nhạy trong việc nhớ các chi tiết như thế. Nửa sau nhanh hơn, có chút gay cấn, chút xíu thôi à. Xong rồi mọi chuyện được giải quyết cái rụp xong rồi hết chuyện. Mình đọc nửa đầu trong chừng 2 tháng và nửa sau trong chừng 3 ngày. Vậy là hiểu rồi nha. Mình nghĩ sẽ có vài phần tiếp theo khi tác giả đã xây dựng một nhân vật phản diện mới (và chưa chết). Nhưng truyện xuất bản từ 2015 mà đến giờ vẫn không thấy thông tin về quyển tiếp. Không muốn nhìn nhận nhưng cả Mikael Blomkvist và Lisbeth Salander đều mờ nhạt so với tầm vóc đồ sộ của các cục đoạn đầu. Họ không làm gì nhiều. Mà thật ra không ai làm gì nhiều cả. Trừ nỗ lực của tên sát thủ chính phải hành động những 3 lần. Nguyen Anh *** Boog đã đọc hết cả 3 tập trong series Cô gái có hình xăm rồng và đây là tập 4 trong series đó nhưng lại do người khác chắp bút nên Boog lần lữa mãi mới đọc. Cũng bởi nghe nói phim chuyển thể từ tập 4 này chuẩn bị ra rạp nên Boog quyết định đọc để xem phim cho dễ hiểu. Hơn nữa lại được biết quyển này do dịch giả Hoàng Anh dịch nên Boog có phần nào yên tâm. Bởi biết dịch giả Hoàng Anh qua một số tác phẩm Boog đã đọc như: Kẻ nhắc tuồng, người ru ngủ, bộ ba quyển Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt marie đã ở đây, đọc mới nhất là Chênh Vênh thì Boog đều có cảm tình với mấy tác phẩm đó cả. Mở đầu tập này có vẻ khá chậm nhưng càng về cuối thì nó càng hấp dẫn. Một nhà khoa học đang nghiên cứu một công trình mà nhiều tổ chức muốn có bị ám sát. Đó là một công trình nghiên cứu siêu máy tính có trí tuệ nhân tạo có thể hiểu được con người. Nhưng nếu công trình này được hoàn thiện thì mọi con người sẽ bị kiểm soát, mọi thứ sẽ bị phơi bày không còn gì là bí mật. Công trình nghiên cứu này còn liên quan tới mạng lưới của nhiều các tổ chức từ Duma của Nga tới NSA của Mỹ tới cả các tổ chức tội phạm, chúng rối tung và chằng chịt như một mạng nhện. Mới đầu có vẻ mọi sự việc chẳng liên quan, dính dáng gì tới cô gái đặc biệt Lisbeth Salander. Nhưng hoá ra không phải vậy, việc nhà khoa học bị ám sát đó lại gợi mở thêm về quá khứ của Salander. Boog thấy tập này khá thú vị là Lisbeth tìm được một đứa trẻ khá giống mình, mắc chứng tự kỷ thiên tài. Không phải đứa trẻ nào tự kỷ cũng là thiên tài nhưng nếu đó là tự kỷ thiên tài thì nên quan tâm và phát huy khả năng đặc biệt đó. Điểm trừ mà Boog dành cho tập này là Lisbeth hoàn hảo quá, Lisbeth giống như kiểu anh hùng quá giỏi không mắc một sai lầm nào. Nếu như mấy tập trước cô ấy giỏi nhưng vẫn mắc sai lầm thì tập này mọi việc Lisbeth làm quá hoàn hảo, khiến cô ấy không thực tế như mấy tập trước. Ở tập này còn xuất hiện một nhân vật nữ rất đặc biệt. Đẹp, ánh mắt hút hồn khiến người khác mê mẩn và dễ dàng bị sai khiến nhưng phụ nữ đẹp là phụ nữ nguy hiểm một lần nữa lại đúng. Chết vì gái là cái chết êm ái nên các đấng mày râu cẩn thận nha, còn nếu các vị tự nguyện chết vì người đẹp thì Boog không còn gì để nói
Vụ Án Họ Trình
Vụ Án Họ Trình - Frances Noyes Hart & Hoàng Hải Thuỷ (phóng tác) Frances Newbold Noyes Hart là một nhà văn Mỹ có truyện ngắn được đăng trên tạp chí của Scribner, tờ Saturday Evening Post, tờ Ladies 'Home Journal.  Mời các bạn đón đọc Vụ Án Họ Trình của tác giả Frances Noyes Hart & Hoàng Hải Thuỷ (phóng tác).