Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tháng Tám Không Vua - Kiutzo Kobayasi

Phóng viên Iximôri trên đường đi công tác từ Fukuoka về Tokyo. Tại ga Hacata anh đọc báo và biết tấm vé tàu của mình mua qua hệ thống bán vé tự động đã bị bán nhầm, nghĩa là có một người khác cũng mua tấm vé với chỗ ngồi của anh. Nhưng vì nghĩ lên tàu sẽ có nhân viên tàu sắp xếp nên anh bỏ qua, không đổi lại. Cùng lúc đó, anh có cảm giác mình bị theo dõi, và sau đó là 2 nhân vật bặm trợn tiếp cận anh để đòi mua lại vé. Cảm thấy có gì bất ổn, anh nhất định không nhượng lại. Anh không biết rằng, tấm vé định mệnh ấy đã đưa anh gặp lại người yêu cũ trên cùng chuyến tàu, đồng thời rơi vào một âm mưu đảo chính tồi tệ của Lực lượng phòng vệ... *** Trong biển sương mù dày đặc, hoàn toàn không thể trông thấy gì cả. Sinh ra không biết ở đâu, từng đám hơi nước nặng nề và xám xịt như những đợt sóng đập vào tấm kính chắn gió, chảy tụ thành từng dòng và chậm chạp tan dọc theo hai bên thành xe. Một sự chuyển động đơn điệu, tẻ ngắt... Đèn pha chiếu không xa hơn một mét đường, những luồng ánh sáng vấp phải bức tường dày của bóng tối, phản chiếu lại rồi tan biến đi trong sương mù. Tầm nhìn xa gần như bằng không. Nếu như đây không phải là xe hơi, mà là máy bay, chắc từ lâu đã phải chuyển sang bay bằng thiết bị thăm dò tự động. Còn về tốc độ thì không cần phải nói. Thậm chí chỉ với hai mươi cây số một giờ, cũng không thể bảo đảm an toàn được. “Đã lâu không có sương mù như thế này...” - Mitiô Ximauti, cảnh sát trưởng khu Trung tâm của quận Aômôri, nhìn qua tấm kính chắn gió của chiếc xe tuần tra và nghĩ thầm. Chốc chốc, trong ánh đèn pha, những chiếc xe hơi ngược chiều, giống như những cái bóng đột ngột xuất hiện và chạy vụt ngang qua. Sự đột ngột đó làm cho Ximauti lo lắng. Hơi nhổm người lên, anh quay sang phía viên cảnh sát trẻ tuổi Muracami đang ngồi sau tay lái ở bên cạnh: - Hay là ta giảm bớt tốc độ đi ? - Để làm gì ? - Muracami hỏi lại. - Đi thế này cũng đã chậm lắm rồi. Không hơn hai mươi kilômét giờ. - Ừ, thôi được, - Ximauti lẩm bẩm và ngồi lại cho thoải mái hơn. Chỉ còn một quãng nữa là đến chỗ rẽ từ quốc lộ số Bốn vào thành phố. Anh nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm. “Hừ, tìm ra được tên giết người trong sương mù thế này thật không phải dễ, - Ximauti nghĩ. - Có lẽ, bóng tối đã giúp tên tội phạm đi lọt qua các bót kiểm soát của cảnh sát”. Từ một nơi nào đó trong đáy sâu của ý thức chợt hiện lên những đặc điểm của tên tội phạm đã được thông báo cho tất cả các đồn, trạm cảnh sát. Gần hai mươi lăm tuổi. Cao một mét bảy mươi, gầy. Áo khoác màu sáng. Tóc dài. Qua hình dáng bên ngoài có thể đoán được là làm ở quán bar hay khách sạn. Một vụ trấn lột tắcxi bình thường. Vào hồi hai mươi ba giờ, một viên cảnh sát, trong khi đi tuần quanh khu vực của mình trên phố Hasucamati, thấy bên vệ đường, cạnh công viên, một chiếc xe tắcxi đứng tại chỗ nhưng đèn hiệu trên nóc nhấp nháy liên hồi. Khi viên cảnh sát đi đến, một thanh niên từ trong xe nhảy bổ ra, bỏ chạy. Viên cảnh sát đuổi theo, nhưng chỉ thoáng sau tên kia đã mất hút. Lái xe tắcxi, một người đàn ông đứng tuổi, nằm trên ghế, cổ bị thắt bằng sợi dây thừng nilông, đã tắt thở. Tiền thu được trong ngày cũng đã biến mất. Trực ban ra lệnh báo động, các trạm kiểm soát lập tức được đặt khắp mọi ngả đường thành phố. Mười phút sau sự kiện xảy ra, hai chục chiếc xe tuần tra phóng vào màn đêm dày đặc sương mù để truy tìm thủ phạm. -  Chúng ta loanh quanh đã gần hai tiếng đồng hồ rồi đấy. - Không hiểu sao, Ximauti cứ có linh cảm rằng cuộc truy lùng sẽ thất bại. Hình ảnh tưởng tượng của tên giết người bị truy lùng bỗng đột nhiên nhòa mờ đi; thay vào đó, khuôn mặt vợ và đứa con trai của anh hiện ra, mỗi lúc một rõ nét hơn. Mới hôm qua con anh vừa chẵn hai tuổi - cái tuổi tuyệt diệu nhất của đứa trẻ. Bây giờ có lẽ nó đang ngủ. Và Ximauti hình dung ra khuôn mặt say sưa của con anh đang áp vào bộ ngực trần của mẹ nó. Anh lắc mạnh đầu, cho tay vào túi lấy thuốc. Bao thuốc rỗng không. -  Này, Muracami, cho xin điếu thuốc. Tớ hết mất rồi. -  Chờ một tí. - Muracami rời tay khỏi cần lái và hơi nghiêng người, rút bao thuốc từ trong túi đưa cho Ximauti. Đúng vào khoảnh khắc đó, Ximauti trông thấy trước mặt mình hiện lên một bóng đen khổng lồ. Khối thép lớn, từ trong màn sương bay vụt ra, chắn ngang đường của họ. -  Cẩn thận !  - Nhưng tiếng phanh đã rít lên, trước cả khi Ximauti kịp mở miệng kêu. Trong luồng ánh sáng của hai ngọn đèn pha, một khối đen lao tới, như sắp đè cả sức nặng đáng sợ của nó lên chiếc xe tuần tra cảnh sát. Ximauti nghe ớn lạnh toàn thân. Ngay bên cạnh, một luồng ánh sáng chói chang quét vụt qua. Và liền đó, tiếng rú của động cơ đập vào tai. -  Qua rồi !  Chỉ cần một phần mấy giây nữa là... - Cùng với cảm giác nhẹ nhõm, một đợt máu nóng dồn lên mặt Ximauti. Quay đầu lại, anh chỉ kịp nhận ra thùng xe của một chiếc ô tô vận tải rất lớn. Với tiếng gầm nhức óc, nó phóng vụt qua và biến mất trong màn sương tối. -  Đuổi theo !  - Ximauti đập tay lên vai Muracami, ra lệnh. - Nhanh lên ! -  Có ngay !  - Sau một giây lúng túng, viên cảnh sát trẻ đáp. Cuộc chạm trán với chiếc xe tải điên rồ kia đã làm cho anh mất bình tĩnh. -  Nhanh lên !  - Ximauti quát. Bây giờ tất cả mọi nghi ngờ của anh đều tập trung vào chiếc xe khổng lồ vừa chạy lướt qua. Điều này gần như là một linh cảm được sinh ra bởi kinh nghiệm của mười năm làm nghề điều tra. -  Đồ mất dạy !  - Cuối cùng Muracami đã bình tĩnh lại. Anh mở máy, quay gấp tay lái và phóng xe vụt đi. Ximauti chẳng còn nhận ra đồng đội của mình nữa. Nét mặt Muracami - anh đang dồn hết sức dấn ga - biểu lộ một sự tập trung căng thẳng. Tiếng còi rú dài. Cứ mỗi lần trên đường xuất hiện và lớn vụt lên ánh đèn pha của những chiếc xe ngược chiều, Ximauti cảm thấy mồ hôi trên tay mình rịn ra vì sợ hãi. - Chiếc xe kì quái, - Muracami căng mắt nhìn về phía trước, lẩm bẩm. - Hình như chột mắt. “Một đèn pha trước bị vỡ”, - Ximauti giải mã trong đầu lời của Muracami. Chiếc xe tải nặng với một bên đèn pha bị vỡ phóng trong đêm sương mù dày đặc với tốc độ mà họa chăng chỉ những kẻ điên mới dám. Không thể xác định được chính xác, nhưng chắc phải đến bảy-tám mươi kilômét một giờ. Phóng xuyên qua đêm tối, không chọn đường. Một thằng muốn tự tử ngồi sau tay lái chắc ? “Không biết nó vội đi đâu thế nhỉ ? - Ximauti lẩm bẩm, cố nhìn cho được một cái gì đó trong bóng tối. - Đến Môriôca, Xendai hay Tôkiô ?” Đột nhiên ngay trước mũi Ximauti hiện ra thành sau của chiếc xe tải. Trong lần gặp gỡ thứ nhất, Ximauti bị bất ngờ đến nỗi ngoài khối vỏ thép, anh không kịp nhìn ra gì hết. Bây giờ anh mới thấy rõ chiếc thùng xe vận tải có mui rất lớn màu bạc trắng. Ô tô kéo moóc mười tấn bịt kín. Muracami mở còi hết công suất, ra lệnh cho người lái chiếc xe tải phải dừng lại. Nhưng nó vẫn cứ tăng thêm tốc độ, rõ ràng là muốn tìm cách tẩu. - Nó đang cố chạy trốn, - Muracami nói giọng khàn khàn và lại nhấn mạnh thêm chân ga. -  Đuổi nhanh lên !  - Ximauti nghiến chặt hai hàm răng. Ý nghĩ về sự nguy hiểm của cuộc đuổi bắt trong đêm sương mù không còn làm anh sợ nữa. Đuổi kịp !  Đuổi kịp bọn chạy trốn !  Cái máu say mê săn đuổi đã hoàn toàn xâm chiếm Ximauti, nó lây sang cả Muracami đang ngồi bên cạnh, sau tay lái. Động cơ rú mạnh, chiếc xe rung lên trước luồng không khí ngược chiều. Thậm chí cả sương mù cũng bắt đầu loãng ra, để lộ dải sơn trắng giữa tâm đường. Chiếc xe tải phía trước chạy ngoằn ngoèo, từ bên này sang bên kia trên toàn bộ nửa bề mặt rộng của con đường, cố tìm cách chặn không cho những người đuổi theo vượt lên. Đúng là tiết mục của dân Tôkiô. Muracami chúi người về phía trước chờ thời điểm thuận lợi. Cần phải biết chắc rằng phía trước không có xe ngược chiều, và lúc đó có thể vòng sang phía bên kia tâm đường, phóng vượt qua chiếc ô tô vận tải. Nhưng để nhận ra những chiếc xe ngược chiều trong bóng tối dày đặc này đâu phải dễ, nhất là khi phía trước lại còn cả một cỗ xe khổng lồ hết lượn sang phải lại sang trái để tìm cách chặn đường. -  Hừ, cứ đợi đấy, - Muracami khẽ lẩm bẩm và đột ngột đánh quặt tay lái sang phải. Ximauti bị hất đổ nghiêng sang một bên, dải sơn trắng giữa lòng đường như treo trong không khí ở phía trên con đường. Tiếng bánh xe cọ lên mặt nhựa kêu rít, mùi cao su cháy xộc vào mũi. Khi Ximauti lấy lại được thăng bằng, phía bên phải anh hiện lên một bức tường trắng bạc. Chiếc xe của họ đang chạy song song với cỗ xe vận tải. Ximauti có cảm giác như đã qua rất nhiều thời gian, nhưng thực ra tất cả chỉ mới có năm - sáu giây đồng hồ. Chiếc xe tuần tra dồn hết sức lao như tên bắn về phía trước. Bức tường màu trắng bạc nằm lại sau và bắt đầu lùi nhanh ra xa. Sau khi vượt được cỗ xe vận tải, chiếc xe cảnh sát quay trở về bên trái của đường, chạy thêm một quãng rồi bắt đầu phanh lại. Ximauti nhảy vụt xuống đường - chiếc xe ô tô vận tải đang lao tới như một con voi điên có thể đè nát xe của họ như đè một vỏ trứng mỏng manh. Muracami cũng nhảy theo ra. Đường của chiếc xe tải đã bị chặn. Và nó, dường như đành chịu thuần phục, dần dần giảm tốc độ và dừng lại, thanh chắn trước thiếu tý nữa thì đâm vào chiếc xe cảnh sát. Ximauti chạy bổ tới bên cabin chiếc xe tải. Anh đã nổi điên đến mức sẵn sàng bắn chết lái xe. Cần phải biết điều khi nói chuyện với cảnh sát chứ ! Viên cảnh sát trưởng leo lên bậc lên xuống và nhìn vào cabin. Sau tay lái là một thanh niên còn trẻ. Tóc cắt ngắn - theo mốt mới bây giờ, trông hơi là lạ. Qua tấm cửa kính của cabin, Ximauti bắt gặp ánh mắt nhìn sắc nhọn và thù địch. Người ngồi bên cạnh lái xe có vẻ già hơn nhiều. Tóc cũng cắt ngắn, cái nhìn cũng như thế - lạnh lùng và sắc nhọn. Muracami leo lên đứng bên cạnh Ximauti, lấy tay gõ vào kính. Chiếc cửa sổ nhỏ hé mở ra. -  Bằng lái của anh đâu ? - Ximauti ra lệnh. Lái xe lấy bằng lái từ trong túi ra và đưa cho Ximauti, đôi mắt cảnh giác theo dõi từng cử chỉ của hai viên cảnh sát. “Chẳng lẽ bọn này giấu tên giết người lái xe tắcxi hay sao ?” - Ximauti vừa xem xét kĩ lưỡng bằng lái vừa căng thẳng nghĩ. Tên: Côiti Tatzima, thành phố Murôman, phố Vanixi, số... Anh nhìn ảnh, rồi nhìn lái xe. Vừa giống vừa không giống... Nỗi nghi ngờ càng tăng thêm. Cần phải xem xét xe kĩ lưỡng. -  Các anh chở gì ? - Ximauti hỏi. -  Máy móc... về nhà máy, ở Tôkiô, - lái xe ấp úng đáp. -  Để rồi xem !  - Không trả lại bằng, Ximauti ra hiệu bảo người lái ra khỏi cabin. Mặt lái xe lập tức sầm lại. Anh ta quay sang phía người nhiều tuổi hơn ngồi bên cạnh - từ lúc đầu tới giờ người này chưa hề thốt lên một lời nào - và nhận được một tín hiệu gì đó bằng mắt. Lái xe ngoan ngoãn mở cửa cabin. Hai viên cảnh sát nhảy xuống đường. Lái xe cũng bước xuống, để cánh cửa cabin hé mở. Và lúc đó Ximauti, đang chuẩn bị nhổm vào thùng xe, chợt trông thấy một vật mà anh không thể nào ngờ tới - đó là nòng súng đen ngòm đang chĩa thẳng vào anh từ phía trong cánh cửa không đóng kín. Ngay trong khoảnh khắc ấy, lái xe xô mạnh hai viên cảnh sát rồi nhảy lên cabin. Bị bất ngờ, Ximauti và Muracami bắn ra giữa đường. Theo bản năng, Ximauti liếc nhìn về phía cabin. Nòng súng trường !  Ximauti không thể nào hiểu được cái người già hơn kia đang làm gì. Một ánh lửa lóe lên đầu nòng súng. Một tiếng kêu ngắn đập mạnh vào mang tai. Thân người Muracami nhảy dựng lên, ngã vật xuống đất. Mấy giọt chất lỏng ấm dính bắn vào mặt Ximauti. Chúng đã bắn chết Muracami ! Chỉ vừa mới nhận thức ra điều đó, Ximauti đã trông thấy nòng súng trường quay sang chĩa vào anh. Ánh thép lạnh lấp lánh. Và bộ mặt lầm lì của người đang ngắm bắn. Ximauti vụt nhảy tránh sang một bên và bỏ chạy, người cúi rạp xuống sát đất. Ở một nơi nào đó, dường như xa lắm, vang lên tiếng nổ khô khốc, giống như tiếng roi quất mạnh. Và có một cái gì đó đánh vào thắt lưng anh. Ximauti cảm thấy hơi lạnh của thần chết làm cứng đờ cả người mình. Anh không thể bước đi thêm bước nào nữa. Một cơn đau co giật lan truyền khắp thân thể. Quằn quại vì đau đớn khủng khiếp, anh đổ vật xuống mặt đất. Tất cả nhòa đi trước mắt. Thấp thoáng bóng tên lái xe nhảy vội vào cabin. Tiếng động cơ rú lên. Chiếc ô tô vận tải rời chỗ. Cần phải báo động !  Ý nghĩ đó khoan sâu vào ý thức đã bắt đầu tắt của viên cảnh sát. Nhưng thân thể anh không còn tuân lệnh nữa. Phải hết sức vất vả, đau đớn, anh mới trở mình nằm úp lại được. Ximauti đưa mắt nhìn theo cỗ xe đang chìm dần trong màn sương mù, cố đoán ra hướng đi của nó. Chiếc ô tô vận tải vòng qua xe kiểm tra của cảnh sát, đi chệch sang phía phải của vạch tâm đường. Vừa lúc đó, một chiếc xe tải khác đi ngược chiều phóng tới. Một ngọn lửa khổng lồ lao vụt lên trời, xé tan màn sương dày đặc. Khối hàng chở trên chiếc ô tô vận tải thứ nhất đã bốc nổ. - Cháy !  - Ximauti thì thào, anh không còn nghe thấy những tiếng nổ nữa. "Chúng mang gì thế nhỉ ?” - Ximauti vật vã cố sức hiểu, nhưng một màn đen đã trùm lên đôi mắt anh. Bằng sự cố gắng cuối cùng của ý chí, Ximauti ngẩng đầu lên nhìn. Ý thức của anh đang run rẩy trên điểm cuối cùng của sự sống. Và anh bỗng cảm thấy như có một trận mưa vũ khí đang rơi xuống quãng đường nhựa - đó là những thứ chở trong thùng xe bị bắn lên không: súng cacbin, súng máy M.1, súng phóng lựu M79. - Một sự điên rồ thế nào ấy !  - Ximauti rên rỉ. Sương mù trên quốc lô số Bốn lại bắt đầu trở nên dày đặc.  ... Mời các bạn đón đọc Tháng Tám Không Vua của tác giả Kiutzo Kobayasi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trậm Điểu
Tay tỷ phú lừa đảo Charles Merick đang ngồi tù. Hắn lấp lửng công khai bí mật về một tài sản vẫn còn đang được giấu đâu đó. Điều này đã kích thích lòng tham của một bầy “cá mập” bủa vây chờ ngày hắn được ra tù và cả những nạn nhân của trò lừa đảo tài chính của hắn. Thẩm phán Hammond Birk, người đã cứu vớt cuộc đời Gibson Vaughn khi anh còn là một thanh niên gặp rắc rối trong cuộc sống cũng là một trong số những nạn nhân đó. Để trả món nợ ân tình, Gibson quyết định sẽ cướp lấy số tiền của Merrick. Đối đầu với những đối thủ sừng sỏ, khát máu, Gibson sẽ làm gì? Những đồng tiền chưa bao giờ lên tiếng, nhưng âm thanh leng keng đến chói tai của chúng khiến người ta phải điên loạn mà nổ súng, giết người không ghê tay, mọi giá trị đạo đức hay pháp luật đều trở nên vô nghĩa khi đồng tiền lên ngôi. Trậm Điểu là những cuộc đào tẩu và âm mưu đen tối kinh hoàng. *** "Chiến đấu cho ra trò, nhưng đừng bao giờ để họ chọn sân đấu." ________________ Nếu như Sợi dây thừng nghiệt ngã là câu chuyện móc nối quá khứ để mở ra hiện thực thì Trậm Điểu là chính là kết quả của hiện thực mà Gibson đã lún chân vào. Trậm Điểu là một cuộc chơi khác, nơi mà những câu chuyện ở quá khứ vẫn bám lấy anh, vẫn tác động lên cảm xúc và trực giác của Gibson nhưng lại ít ám ảnh hơn trong Sợi dây thừng nghiệt ngã. Lần này anh đòi hỏi bị thách đấu ở một phương diện khác, khi mà kẻ anh thách đấu lại có một vị trí đặc biệt: gã ở tù bị săn đón nhiều nhất. Cuộc đấu trí lần này là cái giá của hiện thực mà Gibson buộc phải chấp nhận. Nó cuốn người đọc không ở việc tìm ra bí ẩn hay những quá khứ đen tối mà là ở quá trình tranh đấu giữa hai bên, đã vậy kẻ còn lại không khác gì vô hình. Có một điều thú vị tớ nhận thấy là trong câu chuyện này, để nói rõ ai trắng ai đen trong truyện này rất khó, mà việc đó cũng không phải quan trọng. Chỉ riêng những tình tiết nảy sinh và diễn ra liên hồi cũng đủ để cuốn sách này là một cuốn trinh thám xuất sắc. Phần sau là hồi gay cấn nhất. Có hành động, có twist. Cái twist truyện không nhảy cái đùng một phát xuống dòng, nó chỉ thả nhẹ ở một tình tiết thôi, không hề gây sốc ngay lập tức nhưng lại đủ sức lật câu chuyện sang hướng mới. Đọc mà thực tâm cảm khái tác giả viết tốt quá, mọi thứ đều rất chặt chẽ và logic. Đoạn cuối cũng là một cú lật ngoạn mục, một cú nhử mà tới giờ tớ nghĩ lại vẫn cay, cuốn sách tiếp theo đâu. Chào thân ái từ tinh cầu nóng chảy! *** Review // Không spoil ~ TRẬM ĐIỂU ~ Tác giả: Matthew FitzSimmons. Dịch giả: Trần Trọng Hải Minh Thể loại: Trinh thám phương Tây. Mức độ ưa thích: 9.5/10 ————————- Sau vụ việc với phó tổng thống Benjamin Lombard trong quyển “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, tưởng rằng có thể yên ổn sống tiếp nhưng rốt cuộc chàng thám tử Gibson Vaughn lại bị “nhờ vả” tham gia cuộc điều tra xoay quanh Charles Merrick – tù nhân kinh tế sắp mãn hạn tám năm tại nhà tù Niobe. Tuy ban đầu không muốn nhưng rồi Gibson Vaughn vẫn dấn thân vào vì một lý do khá cảm tính. Cuộc điều tra đòi hỏi khả năng tin tặc của anh, sự bền bỉ linh hoạt, lòng dũng cảm và cả bản tính hài hước gợi đòn. Mọi chuyện diễn biến càng lúc càng tệ khi Gibson phải đối mặt với nhiều phen nguy hiểm tính mạng và thậm chí bị bắt bởi CIA. Sau khi đọc “Sợi dây thừng nghiệt ngã”, Biển có ấn tượng tốt với truyện trinh thám của Matthew FitzSimmons nên rất hào hứng đọc tiếp Trậm Điểu. Đúng như mong đợi, Trậm Điểu có cốt truyện thật sự hấp dẫn ly kỳ. Tác giả không cố tình viết giựt gân kiểu như “bỗng một bóng đen xuất hiện bên cạnh tôi” nhưng câu chuyện vẫn cuốn hút ngay từ những trang đầu tiên, nhiều đoạn khiến Biển căng thẳng do quá hòa mình vào câu chuyện. Giọng văn rành rọt phân minh, tuy thường xuyên có những câu dài như cả đoạn nhưng đọc vẫn dễ hiểu. Những câu văn dài cũng cho thấy kỹ năng dịch thuật thượng thừa và nỗ lực của dịch giả. Biển không hiểu rõ những đoạn về kinh tế hay âm mưu chính trị trong truyện, nhưng điều đó không ngăn cản Biển thưởng thức chất trinh thám của Trậm Điểu. Nửa sau quyển sách sẽ khiến độc giả muốn đọc một mạch để nhanh biết kết cuộc. Tuy không có nhiều đoạn triết lý nhưng Matthew FitxSimmons đã khéo léo lồng ghép tâm lý nhân vật vào các đoạn văn, khiến người đọc cảm nhận và thấu hiểu được cách suy nghĩ, hành xử của các nhân vật trong truyện. “Thêm nữa, đàn ông ở tuổi anh ta có xu hướng không coi trọng phụ nữ ở tuổi cô và cô nhận ra rằng bị đánh giá thấp là điều hữu ích”. Trậm Điểu cũng có đề cập một chút đến khả năng mà tội phạm được chấp nhận hòa nhập với XH sau khi mãn hạn tù. Tuy biết phải khoan dung với đồng loại nhưng hầu hết người dân thường – những người không có tiền án tiền sự – sẽ rất khó cảm thấy an toàn và tin cậy để sống chung / làm việc chung với những người đã từng phạm tội. “Một người phạm tội hình sự như ông phải ghi rõ lịch sử phạm tội khi xin việc. Và bởi vì việc phân biệt đối xử đối với tội phạm hình sự đã bị kết án không phải là bất hợp pháp, có ít người chịu tuyển dụng họ. Kẻ tội phạm còn lại lựa chọn gì ngoài việc tiếp tục cuộc đời tội ác?” [Đoạn tiếp theo đây Biển không nghĩ là spoil, nhưng bạn nào sợ spoil thì xin đừng đọc ^_^]. Nhân vật chính Gibson Vaughn không được xây dựng hình tượng siêu anh hùng như Jack Reacher, đọc Trậm Điểu mà nhiều lần Biển tức tối nôn nóng khi thấy anh bị đánh, bị ép phải quy phục trước cường quyền. (Người có thể coi là nữ chính trong truyện này) là Lea Regan, một phụ nữ dũng cảm nhưng không kém phần cố chấp. Trong Trậm Điểu, số phận của cô bị bỏ ngỏ khiến Biển khá lo lắng. Cũng muốn nói một chút về kết cuộc của truyện, Biển không biết tiếng Anh nên không biết cách tìm hiểu xem loạt truyện “Điệp vụ Gibson Vaughn” có bao nhiêu cuốn, nhưng sau phần kết của Trậm Điểu thì Biển đoán tác giả phải viết tiếp ít nhất là một quyển khác, vì nếu số phận của Gibson Vaughn kết thúc như trong Trậm Điểu thì đúng là tác giả muốn khiến độc giả tức chết. Ngay khi nhìn thấy thông tin phát hành và bìa của cuốn Trậm Điểu thì Biển liên tưởng đến loài chim trẩm từng đọc được trong tác phẩm Trâm của tác giả Châu Văn Văn. Trong quyển “Trâm – Tình lang hờ” có đoạn Lý Thư Bạch nói như sau: “Trên đời làm gì có chim trẩm, chỉ là người chết vì trúng loại độc này, toàn thân đến cả thịt da lông tóc đều sẽ chứa chất độc, chim trúng độc chết thì đến lông vũ cũng có độc. Chỉ cần lấy tóc người hoặc hoặc lông chim trúng độc cũng đủ tái chế thành kịch độc, nên mới có truyền thuyết chấm lông chim trẩm vào rượu là thành rượu độc”. Còn trong Trậm Điểu, có phần chú thích của dịch giả rằng “trậm điểu” là loài chim độc trong truyền thuyết TQ. Sách “Sơn Hải Kinh” mô tả Trậm Điểu là loài chim bụng màu tía, cổ dài, mỏ màu hồng điều. Nó cực độc vì chuyên ăn rắn lục. Con trống gọi là Hồi Dương, con mái gọi là Âm Uân. Bìa sách thoạt nhìn hơi khó hiểu nhưng rất hợp với tựa đề Trậm Điểu. Chất giấy trong sách rất đẹp, vốn là một mọt sách giấy nhưng khi đọc sách Biển ít khi quá “tôn sùng nâng niu” sách, thậm chí còn hay gấp góc để đánh dấu những đoạn hay, nhưng đối với Trậm Điểu, sách đẹp đến nỗi Biển đọc kiểu 45 độ và chịu khó ghi chép lại tất cả chứ không nỡ gấp góc. Chữ in to rõ dễ đọc, còn vài lỗi chính tả và lỗi đánh máy không đáng kể. Số điểm 9.5/10 là Biển chấm cho toàn bộ các yếu tố từ ngoại hình đến nội dung, thiếu 0.5 là vì phần kết khiến Biển bứt rứt lo lắng! Cũng như các loạt truyện về Jack Reacher của Lee Child hay loạt truyện của David Baldacci, series về Gibson Vaughn của Matthew FitzSimmons chắc chắn là những quyển sách không thể bỏ qua đối với các mọt trinh thám. (Sea, 25-8-2019) Bookmark tự vẽ, lấy ý tưởng từ Internet. Camellia Phoenix *** Những ngọn đèn tỏa ra luồng ánh sáng huỳnh quang sâu thẳm. Khắp nơi quanh gã, Merrick nghe thấy âm thanh của những người đang bị ép phải thức giấc. Những tiếng cót két của lò xo nệm cũ kỹ. Những cuộc trò chuyện, đã ngưng lại vào tối hôm trước khi đèn tắt, lại tiếp nối như thể mới chỉ vài giây trôi qua. Những câu chuyện dễ nối lại vì chúng vẫn là những cuộc đối thoại tầm thường giống như buổi sáng hôm trước và trước đó nữa, kéo dài lê thê suốt tám năm trời mà Merrick lúc nào cũng thức giấc cùng với chúng. Nhà tù chỉ quanh quẩn bàn luận với mấy chủ đề - cuộc đời trước khi vào tù, cuộc sống trong tù và lời hứa hẹn về một cuộc đời tốt đẹp hơn sau đó. Kẻ thù và bạn hữu, đàn bà, người thăm nuôi, nhà ăn và đồ ăn dở tệ. Chẳng bao lâu đã hết chuyện và từ đó trở đi chỉ còn những biến thể của một chủ đề. Tù nhân đến rồi đi, nhưng những cuộc đối thoại đó vẫn cứ tiếp diễn mãi. Được truyền miệng cho nhiều thế hệ phạm nhân còn chưa tới, như thể những cuộc đối thoại ấy mới là những khách trú đích thực duy nhất của nhà tù, còn tù nhân đơn giản chỉ là tiếng nói chuyển tiếp những gì đã được nói ra từ rất lâu trước đó. Hay đó là điều mà Charles Merrick sẽ hạnh phúc khi tưởng tượng về việc gã vĩnh viễn bỏ lại nhà tù liên bang Niobe sau lưng trong 142 ngày nữa. Merrick tung chân khỏi giường và xỏ thẳng vào đôi tông để chân gã không bao giờ phải chạm vào mặt sàn của nơi đáng ghê tởm này. Chỉ trong bốn động tác nhanh gọn, thuần thục, gã đã dọn xong giường của mình. Chiếc chăn lông thô đến nỗi chó cũng không thèm đắp. Con Morgan thì chắc chắn là không rồi - con chó Tây Ban Nha dòng King Charles của gã, nó đã qua đời khi gã ở trong này. Gã nhớ con vật đó: con vật trung thành duy nhất mà gã từng biết. Mấy tay lính gác đi qua khu nhà giam, bắt đầu lượt điểm danh lúc bảy giờ sáng. Bọn chúng còn hai lượt điểm danh vào lúc ba và năm giờ sáng nữa. Đó là phần khó khăn nhất với gã khi ở trong tù - giấc ngủ của gã cứ bị cắt ngang bởi những tiếng rầm rì vô nghĩa cùng tiếng bấm từ chiếc máy đếm nhỏ chỉ vì ý nghĩ nực cười rằng bọn chúng đang đếm thầm trong đầu. Những kẻ với trình độ tốt nghiệp phổ thông thậm chí còn không đủ tiêu chuẩn làm việc trong phòng văn thư của Merrick Capital. “Sẵn sàng cho ngày trọng đại chưa, Lọ Lem?” Những tay lính gác đã dọa dẫm gã nhiều tuần liền. Kể từ khi giám đốc nhà tù chấp thuận cuộc phỏng vấn, Merrick không còn nghĩ được chuyện gì khác. Gã đã không có khách thăm nào ngoại trừ các luật sư của gã từ nhiều năm rồi, nên xin hãy tha thứ cho sự phấn khích về cuộc phỏng vấn của gã. Đám lính gác cùng lũ tù nhân đều không ngừng mỉa mai gã như những đứa trẻ ghen tức, nhưng gã hiện đang có tâm trạng quá tốt để mà bận lòng về chuyện đó. Ngay khi các lính gác ra hiệu là mọi việc đã sẵn sàng, Merrick lao nhanh về phía phòng tắm. Gã hẳn đã chạy nếu được phép. Bình thường, gã không bao giờ vội vã đi đâu; sau mỗi góc quanh vẫn là nhà tù, vậy thì việc gì phải vội? Nhưng hôm nay gã muốn là người đứng đầu hàng, gã không muốn đang tắm lại hết nước nóng. Tắm xong, Merrick cạo râu cẩn thận và chải mái tóc vàng dày của gã cho đúng nếp. Nó đã ngả bạc hơn so với hồi gã mới đến nhà tù liên bang Niobe, nhưng gã vẫn còn mái tóc đó và thế là đủ. Nếu có gì khác, thì hôm nay gã thấy mình khá hơn. Cường độ làm việc kinh khủng ở Merrick Capital đã tổn hại đến sức khỏe và vùng bụng của gã. Phải vào tù gã mới phát hiện ra tình yêu với việc tập thể dục. Đẩy tạ như một tù nhân đích thực. Chiếc dao cạo rẻ tiền làm gã bị xước ở dưới tai, gã đắp vào đó một miếng giấy vệ sinh. Gã nhớ da diết chiếc bệ đá cẩm thạch cũ với những đồ dùng vệ sinh đắt tiền được đặt lên. Gã nâng niu cả một lọ nước hoa bản mẫu ưa thích của mình - thứ đã khiến gã tốn bao nhiêu là công sức và mưu mẹo. Gã đã phải hy sinh cả một tháng lương thực của mình để đưa lậu nó vào đây dành cho hôm nay. Gã mở nắp và ngay lập tức biết rằng nó hoàn toàn xứng đáng. Một giọt vào gáy và ba, không, bốn giọt nơi cổ tay trái, cần xịt thêm để che đậy mùi hôi hám của nơi này. Gã chà xát hai cổ tay với nhau và tự ngưỡng mộ mình trong gương. Một lính gác đi ngang qua ngửi thấy mùi và dừng lại. “Mùi quái gì thế, thằng tù?” “Chanel’s Pour Monsieur,” Merrick nói. “Pour Monsieur?” Tay lính gác nói, nhại gã bằng thứ giọng Pháp tệ hại. “Chà, mày có mùi như trong phòng phá thai ấy. Nhanh lên, Lọ Lem, không thì lỡ bữa tiệc đấy.” Merrick mặc bộ áo liền quần tẻ nhạt của nhà tù và cố gắng làm cho nó thẳng thớm lại trong gương, không mấy tác dụng. Gã đã yêu cầu được mặc bộ vét ở tòa cho buổi phỏng vấn để rồi bị cười nhạo trong văn phòng giám đốc trại giam. Có lẽ đằng nào thì bộ đồ đó cũng không vừa với gã nữa, vì gã đã gọn gàng hơn nhiều so với khi tới đây. Gã sẽ cần những bộ vét mới, bắt đầu là mười lăm hay hai mươi bộ và hy vọng rằng tay thợ may quen của gã ở Savile Row chưa về hưu. Người ta không thể tùy tiện thay đổi thợ may được. Lúc ăn sáng, Merrick ngồi một mình và chọn đại món được tạm gọi là trứng bác. Gã không thích ý tưởng bước vào một cuộc phỏng vấn mà chưa được chuẩn bị, nhưng bên tạp chí đã bác bỏ yêu cầu gửi trước câu hỏi. Lúc còn là đối tác quản lý điều hành của Merrick Capital, gã có hai hay ba cuộc phỏng vấn mỗi tuần. Cánh nhà báo xếp hàng để gặp gã và nhóm quan hệ công chúng của gã xem trước câu hỏi, lên kịch bản cuộc gặp để phô bày thương hiệu Charles Merrick trong thứ ánh sáng lộng lẫy nhất có thể. Việc bước vào một cuộc phỏng vấn chưa được chuẩn bị trước sẽ là trải nghiệm mới, nhưng Finance là một tạp chí đàng hoàng, chuyên nghiệp ở đẳng cấp cao nhất. Họ chắc chắn sẽ cử tới một người giỏi. Gã không biết người phụ nữ Lydia Malkin này, nhưng cô ta sẽ chứng tỏ năng lực của mình. Gã đang cảm thấy muốn cởi mở và ý tưởng về cuộc trò chuyện hấp dẫn với gã. Trò chuyện thực sự. Đã lâu rồi không ai hỏi gã một câu khiến gã phải suy nghĩ. Khi đến giờ phỏng vấn, lính gác dẫn Merrick vào một trong những căn phòng tư vấn pháp lý chật hẹp. Căn phòng trơ trọi, không có gì ngoài một chiếc bàn dài và những chiếc ghế kim loại chẳng thoải mái chút nào. Gã từng ở trong phòng này, hay một căn phòng tương tự, không biết bao nhiêu lần. Một phụ nữ cỡ tuổi con gái gã đang ngồi ở bàn, khoảng chừng hai mươi lăm? Cô ta đang hí hoáy ghi chép trên một tập giấy ghi chú. Ngay cả khi gã chấm điểm rộng tay thì trông cô ta cũng không hấp dẫn lắm. Có lẽ là một phóng viên tập sự được cử tới cùng để có chút kinh nghiệm hiện trường. Được thôi, được thôi. Hai phụ nữ luôn tốt hơn là một. Cô ta đặt bút xuống và đứng lên chào gã. “Rất vui được gặp ông, ông Merrick.” “Bao lâu nữa cô ấy mới tới đây?” “Xin lỗi?” “Lydia Malkin. Bao lâu nữa cô ấy tới? Tôi không biết tay lính gác cho chúng ta bao nhiêu thời gian. Họ có thể… khó chịu,” gã nói như thể mô tả dịch vụ phòng ở một khách sạn. “Tôi chính là Lydia Malkin.” Cô đưa tay ra. Gã nhìn bàn tay và cảm thấy huyết áp tăng lên với suy nghĩ có người đã cử đứa nhóc tì này tới phỏng vấn gã. “Cô là phóng viên tờ Finance?” “Phải, là tôi.” “Cô bao nhiêu tuổi? Hai mươi hả? Cô học xong đại học chưa?” “Tôi hai mươi sáu. Tôi có bằng thạc sĩ báo chí của trường Northwestern.” “Thậm chí cô có biết tôi là ai không?” “Ông là Charles Merrick.” “Tốt cho cô. Nhưng tôi biết rất rõ là tờ Finance không cử một phóng viên hai mươi sáu tuổi đi thực hiện bài phỏng vấn trang bìa bao giờ.” Cô nhìn gã tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi lấy làm tiếc nếu có trục trặc trong khâu liên lạc. Đây không phải bài trang bìa.” “Cô nói sao cơ?” “Đây chỉ là một phần hồ sơ nhân vật nhỏ: ‘Giờ ông ấy ở đâu?’ Đại loại thế. Bởi ông sẽ sớm ra khỏi đây.” “Một phần hồ sơ nhân vật? Peter vẫn còn là tổng biên tập chứ?” “Peter Moynihan là tổng biên tập,” cô nói với giọng mệt mỏi làm Merrick phát bực. “Và anh ta nghĩ rằng sẽ là ý hay nếu viết… Cô nói sao nhỉ? Một ‘phần hồ sơ nhân vật nhỏ’ về tôi?” “Thực ra Peter không mặn mà lắm với ý tưởng đó. Lúc đầu là vậy.” “Lúc đầu.” “Tôi đã thuyết phục ông ấy.” “À, cảm ơn cô nhiều,” Merrick nói. “Vì đã nói hộ tôi.” “Có lẽ tôi nên ra về.” Gã nhìn cô thu dọn những tài liệu đã bày ra trên bàn. Ngày xưa, gã sẽ cười lớn khi tiễn một phóng viên ra khỏi văn phòng của gã nếu người đó thử một chiến thuật rõ ràng như thế. Gã cực kỳ muốn để cô ta rời nhà tù Niobe trong thất vọng và trắng tay, nhưng gã ngăn cô lại vì điều đó sẽ còn làm gã tổn thất hơn nhiều. “Tại sao họ không quan tâm?” Cô dừng lại và nhìn thẳng vào mắt, đánh giá gã một cách tự tin. Gã không quan tâm nhưng buộc phải mỉm cười. Dù không muốn thừa nhận, nhưng gã cần Lydia Malkin hơn là cô cần gã. “Ông muốn biết thật sao? Không ai quan tâm cả,” cô nói. “Rất nhiều người ghét cay ghét đắng thỏa thuận nhận tội của ông với Bộ Tư pháp. Tám năm tù cho những hậu quả mà Merrick Capital gây ra cho các nhà đầu tư của nó là điều thật lố bịch. Và tổng tài sản tịch thu không bõ bèn gì để đền bù cho các nạn nhân của ông - những cuộc đời đã bị hủy hoại.” Merrick bác bỏ ý kiến rằng thỏa thuận của Bộ Tư pháp với gã là hết sức độ lượng. Giá mà cô Lydia Malkin bé bỏng này biết được dù chỉ là một nửa câu chuyện. Món quà gã đã trao cho đất nước vĩ đại này để đổi lấy cái được gọi là sự khoan hồng. CIA lẽ ra phải tổ chức một cuộc diễu hành để vinh danh gã thay vì nhốt gã ở đây. “Đó là chưa nói tới thực tế là ông được đưa vào đây thay vì một nhà tù thực sự.” “Một nhà tù thực sự sao? Chà, thay vì ‘câu lạc bộ đồng quê’ này hả?” “Phải.” “Cô có biết là chúng tôi thực ra không có sân quần vợt không? Chúng tôi từng có, nhưng họ đã san phẳng nó rồi. Biết tại sao không? Vì ý tưởng cho rằng đây là một ‘câu lạc bộ đồng quê.’ Như thế là phân biệt đối xử.” “Phân biệt đối xử sao?” “Chính xác là thế. Tôi đã bị từ chối một hình thức tập thể dục chính đáng. Vì sao? Vì đó là một môn thể thao mà những người như tôi rất thích, như thế là phân biệt đối xử. Xong rồi để bọn họ chơi bóng rổ, một trò chơi bọn họ cũng thích thú như thế. Vậy thì công bằng ở đâu?” “Bọn họ?” Cô hỏi, tìm cách khiến gã mắc câu. Gã không mắc vào trò đó. “Vậy… Nếu chẳng ai bận tâm, thì tại sao cô lại ở đây?” “Để xem nhà tù có làm thay đổi một người được biết đến với tên gọi là Madoff Đệ nhị hay không.” “Madoff Đệ nhị?” “Người ta gọi ông thế. Ông chưa bao giờ nghe hả?” “Tất nhiên tôi nghe rồi. Tôi chỉ không tin nổi là cái tên đó lại hợp lý.” “Tại sao không?” “Vì Merrick Capital không phải là tài chính đa cấp, vậy đó. Đây là một sự sỉ nhục. Hoạt động kiểu Madoff là kiểu nghiệp dư. Ai cũng biết hắn ta làm gì. Rõ rành rành. Hãy lưu ý là không hề có công ty lớn nào ở Phố Wall đầu tư dù chỉ một xu với Madoff. Điều này chẳng phải hơi lạ lùng khi mà Madoff chỉ báo lỗ có bốn tháng trong hai mươi năm hoạt động sao? Điều đó như thể một cầu thủ bóng chày có tỉ lệ đánh trúng bóng .900 một mùa mà vẫn không được một đội lớn ký hợp đồng. Lý do duy nhất Madoff không bị bắt sớm hơn là vì SEC mắc kẹt với đám nhân viên bất tài, thiếu ngân sách. Họ đã điều tra hắn sáu lần. Sáu! Họ lẽ ra phải tóm hắn từ năm ’99 khi Harry Markopolos cảnh báo về hắn, nhưng SEC không bao giờ bận tâm xác nhận những cáo buộc về hắn với DTC. Vì vậy, phải, tôi khó chịu vì bị đánh đồng với gã cặn bã đó.” Cô bắt đầu bật máy ghi âm đặt ở giữa bàn. “Merrick Capital thì khác gì chứ?” “Merrick Capital là công trình nghệ thuật của chúng tôi. Các chiến lược đầu tư của chúng tôi hoàn toàn hợp pháp và lợi nhuận cho nhà đầu tư của chúng tôi là không có tiền lệ.” “Merrick Capital bắt đầu làm giả số liệu lợi nhuận từ năm 1998.” Gã có thể cảm thấy máu dồn lên tai. “Những khách hàng của tôi vẫn trở nên giàu có.” “Không phải vào năm 2008, năm đó thì không. Ông mất cả gia tài vì đặt cược vào mỏ niken ở Tây Úc.” “À phải, vụ sụp đổ lớn,” Merrick nói. “Giá mà người dân Mỹ biết cách trả tiền vay thế chấp đúng hạn.” “Ông bị bắt là lỗi của người dân Mỹ sao?” “Cô nói chuẩn đét đấy. Nếu vụ sụp đổ lớn không khiến giá niken lao dốc, thì vụ cá cược của tôi, như cô gọi nó, đã có lãi.” “À, đó chắc chắn là góc nhìn có một không hai,” cô nói, nghiêng người về phía trước. “Nhưng đó vẫn là một vụ được ăn cả ngã về không. Ông ít ra phải thừa nhận điều đó. Các kinh tế gia gọi đó là một trong những màn đánh cược vô trách nhiệm nhất trong ngành tài chính hiện đại, dù có hay không có cuộc khủng hoảng tài chính. Vậy mà giờ ông ngồi đây, tự tin về một kết quả khác. Làm sao ông biện minh được cho sự đoán chắc đó?” Trong thâm tâm Merrick biết, thậm chí là khi đó, rằng gã lẽ ra nên suy nghĩ cẩn trọng hơn. Thay vì thế, gã đã trả lời câu hỏi của cô. Mời bạn mượn đọc Trậm Điểu của tác giả Matthew Fitzsimmons & Trần Trọng Hải Minh (dịch).
Nghẹt Thở - Khi Dấu Yêu Về - Carol Ericson
Bám theo một nhiệm vụ tối mật, Ian đột ngột biến mất, ruồng rẫy Meg không lời từ giã. Ba năm sau, hai người tình cờ tái ngộ trong chuyến leo núi lên đỉnh Rocky. Thời gian xa cách không đủ làm phai nhạt sắc đẹp cũng như cơn tức giận của Meg. Niềm đam mê bỏ hoang nhiều ngày tháng bắt đầu quẫy động trở lại, Ian bỗng thấy mình nên giải thích để mong cầu sự bao dung của cô vợ cũ, nhưng anh chưa kịp phân trần câu nào thì hiểm nguy ập đến với cả đoàn leo núi. Lần lượt từng du khách bị tiêu diệt một cách bí ẩn. Mặc cho Meg phản đối, Ian cương quyết giữ nàng trong vòng tay bảo vệ của anh. Bướng bỉnh đấu cứng rắn, khiêu khích đấu mạnh mẽ... đều biến thành mồi châm cho ngọn lửa tình vẫn âm ỉ bấy nay dưới lớp tro mỏng chia ly. Ian háo hức chinh phục chiến lợi phẩm, không biết rằng chờ đợi mình phía trước còn có một bí mật quý giá và đầy thách thức khác, một bí mật Meg cố tình giấu giếm anh... *** Tiếng Ian vang lên từng chặp trong chiếc điện thoại ở văn phòng, Meg dúi nó ra sau bàn phím máy tính rồi dùng ngón tay cứng đờ bịt loa nhận đi. Cô phải để Ian biết đang có chuyện gì, nhưng cũng không được cho gã đang cầm súng kia thấy chiếc máy đang mở. Cô cũng bật loa ngoài cho điện thoại di động, nên giờ giọng nói căng thẳng của Eloise vang lên, “Meg, có cần tôi gọi cảnh sát không?” Gã đàn ông đưa tay ngang cổ làm dấu, thì thào, “Bảo con mụ già đó là thằng bé không sao đi”. Meg gật đầu, “Eloise à? Tôi xin lỗi. Tôi vừa nhận được điện thoại của bố Travis. Anh ấy đón cháu rồi. Anh ấy chưa biết mà”. Eloise thở dài vào máy, “Ôi trời ơi, Meg. Cô làm tôi thót tim. Nếu chồng cô còn ở đó, thì nhớ dặn dò anh ấy kỹ lưỡng nhé”. Meg ngắt cuộc gọi rồi đặt chiếc di động ra giữa bàn, “Tôi đã bảo chị ấy rồi. Giờ anh muốn gì từ tôi?” Cô không còn thấy Ian nói gì qua điện thoại nữa, nhưng hy vọng anh đã hiểu ý và nghe được tiếng cô. Gã đàn ông tiến thêm một bước, “Đơn giản thôi, Meg ạ. Tao muốn mày leo núi một chút, để tao lấy lại thứ của mình và tiếp tục lên đường”. “Anh bỏ khẩu súng đó ra khỏi mặt tôi được không?” ... Mời các bạn đón đọc Nghẹt Thở - Khi Dấu Yêu Về của tác giả Carol Ericson.
Chết Như Chơi - Agatha Christie
Chết Như Chơi (Murder is Easy) là tác phẩm tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie và được xuất bản lần đầu tiên ở Anh bởi Collins Crime Club vào ngày 5 tháng 6 năm 1939 và tại Hoa Kỳ bởi Dodd, Mead và Company vào tháng 9 cùng năm với tiêu đề Easy to Kill. Những vụ án mạng hàng loạt mà thủ phạm là nhân vật không ai ngờ đến. Một câu chuyện hồi hộp, kỳ bí, rùng rợn nhưng cũng đầy lãng mạn.  "...Waynflete cúi người xuống, nhếch mép cười, ánh mắt cuồng loạn... Lưỡi dao sáng quắc... Hai bên quần thảo, Bridget cố giật lấy con dao trên tay Wayflete..." *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Chết Như Chơi của tác giả Agatha Christie.
Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn
Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean - một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym - bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng, song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Anh dần phát hiện ra một đường dây buôn bán ma túy diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phương tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma túy đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhận ma túy. Một hệ thống chặt chẽ cho từng công đoạn buôn bán ma túy đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn ngụy trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. Bằng những tình tiết nhẹ nhàng và thấm đẫm chất nhân văn, Dorothy Sayers đã dựng nên một Wimsey với khả năng suy đoán sắc sảo, kinh nghiệm điều tra dày dạn, và lòng nhân ái; với các biện pháp nghiệp vụ, anh đã thâm nhập vào hang ổ bọn tội phạm. Chỉ trong một thời gian ngắn, đường dây buôn bán ma túy của bọn chúng dần dần bị phát lộ, vụ án đã được phá và để lại trong người đọc những tình cảm tốt đẹp... Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc! NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN *** Dorothy Leigh Sayers (1893 - 1957) được độc giả yêu mến gọi là Dorothy L. Sayers. The Nine Tailors kể về câu chuyện Lord Peter Wimsey giải quyết tội ác mà không phải ai cũng làm được. Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean – một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym – bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Thám tử Peter  dần phát hiện ra một đường dây buôn bán trao đổi, buôn bán ma tuý diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phường tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma tuý đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhân ma tuý. Một hệ thống chặt chẽ cho từng  công đoạn buôn bán ma tuý đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn nguỵ trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. *** - A này, - Hankin níu lấy cô Rossiter ngay trên lối đi và nói. - Cô có biết hôm nay chúng ta có một biên tập viên mới về không? - Thế là thế nào ạ? - Một anh chàng Bredon nào đó. Tôi cũng chẳng biết anh ta là ai nữa. Anh ta được ban giám đốc tuyển dụng, chính ông Pym dẫn vào. Các bạn sẽ phải quan tâm đến anh ta đấy. - Vâng, thưa ông Hankin. - Phải xếp cho anh ta ngồi làm việc ở phòng của Dean. - Vâng, thưa ông Hankin. - Chính anh chàng Ingleby là người chịu trách nhiệm phải cho anh ta biết mọi việc ở đây, hẳn là cô đã muốn điều này xảy ra và đẩy anh ta đến với tôi còn gì. - Vâng, thưa ông Hankin. - Bây giờ cô hãy bảo cô Smayle mang lại cho tôi hồ sơ của văn phòng Dairefield được không? - Vâng, thưa ông Hankin. Cô Rossiter ôm lấy cuốn vở ghi chép của mình và với tay kéo cánh cửa khép lại phía sau, rồi nhẹ nhàng bước dọc theo hành lang. Liếc nhìn qua những ô kính trên cánh cửa ra vào của phòng làm việc cạnh đó, cô nhận ra Ingleby đang ngả người trên chiếc ghế bành, hai chân gác trên bộ tản nhiệt của lò sưởi, vừa nói chuyện phiếm với một cô gái mặc bộ đồ xanh, ngồi chênh vênh trên một góc bàn làm việc. Cô Rossiter đẩy cho cửa hé ra và nói với vào: - Xin lỗi đã làm phiền hai vị, - Cô ta nói với vẻ tinh nghịch. - Nhưng ông Hankin cho gọi anh, anh Ingleby ạ! - Tôi đoán chắc lại có chút cà phê Scout gì đây. - Ingleby nghi ngờ đáp. - Không phải thế đâu. Ông ấy muốn gặp anh vì một biên tập viên mới. - Sao cơ? Đã có người thay Dean rồi sao? - Cô gái mặc bộ đồ xanh ngạc nhiên kêu lên. - Người ta vừa mới mai táng người giúp việc đáng thương của mình chẳng được bao lâu mà! - Ồ, cô em gái thân mến, đó là hành vi hiện đại đấy. - Ingleby nói. - Cuối cùng thì... Tôi sẽ cho anh chàng mới này biết mọi thứ. Tôi cứ tự hỏi là tại sao người ta lại cứ bắt tôi phải làm cái trò ngu ngốc này mãi chứ? Cô gái nhún vai: - Ồ, công việc của anh cũng chẳng phức tạp gì lắm đâu... Người mới xin vào đây chỉ cần biết hai điều, đó là sử dụng những chiếc chậu rửa tay đặt trong toa lét cạnh phòng làm việc của ban giám đốc và phải thật cẩn thận đừng để ngã mà vỡ mật trong chiếc cầu thang nhỏ bé kia thôi! - Cô Metayard, cô thật tệ... Miễn là cô đừng có xếp cho anh chàng mới về đó ngồi chung phòng với tôi đấy nhé... - Không phải lo, - Cô Rossiter nói chen ngang. - Bọn em sẽ xếp cho anh ta ngồi trong phòng của chàng Dean. - A, thế ra cô đã thấy anh ta rồi sao? Trông anh ta thế nào? - Em cũng chưa thấy anh ta mà, ông Hankin nói với em là bản thân ông ta cũng chưa biết mặt anh chàng mới này, chính ông Pym là người nhận anh ta về đây làm việc. - Tôi nghĩ là đã thấy anh ta lúc nãy rồi, - Cô Metayard nói - anh ta có mái tóc như con gái, đeo kính gọng đồi mồi, dáng vẻ điệu đà, là thứ người dành cho ảnh viện. Ingleby lại tiếp tục công việc của mình, còn hai cô gái rời chỗ đứng, đi về phía căn phòng các nhân viên đánh máy. Căn phòng này, cũng nhỏ và chật chội, là một thứ đại để như một thứ Phòng-Chờ hay Phòng-Đợi gì đó của hãng quảng cáo, nơi mà mọi người đều có thể lai vãng qua lại để bàn luận về mọi thứ trên đời vì bất kỳ một lý do nào đó. Vào lúc này, cuộc họp càng long trọng thì lại càng ồn ào hơn, vì giờ uống cà phê thường lệ đã đến và vì người ta đã chuẩn bị số lượng phiếu phát ra cho cuộc xổ số ngay trước lúc cuộc đua ngựa của Derby bắt đầu. Đó là một ngày lễ nhỏ hàng năm, qua đó tất cả mọi nhân viên của cơ quan đều được chia sẻ những cảm xúc dân tộc của mình bằng việc mua hàng hoá theo khả năng của mỗi người. Một nữ nhân viên đánh máy, cô Parton, đôi mắt nheo tít lại vì khói từ đầu điếu thuốc cô đang ngậm trên môi phả vào mặt, đang gõ liên hồi tên những con ngựa tham gia thi đấu, do một cô khác đọc. Willis cắt rời tên từng người góp tiền cá cược và xếp vào trong một chiếc mũ. Người đồng chí của cô, Garret, ngồi trên một chiếc giỏ bằng giấy úp ngược, đang buông lời nhạo báng một anh chàng to con, tóc đen, nằm ngả người trong chiếc ghế bành, chăm chú đọc một cuốn tiểu thuyết. Cuối cùng, một cặp đứng tựa vào hai thanh cái của cánh cửa ra vào, vừa hút thuốc lá, vừa tranh luận về cuộc đấu cuối cùng trên sân Wimbledon. - Chào các cô cậu bé bỏng tốt bụng. - Cô Rossiter vui vẻ nói. - Đây là cô Metayard, người sẽ tiến hành xổ số và... tôi cũng báo để các bạn biết là chúng ta sẽ có một biên tập viên mới... - Ngừng một lát, rồi cô nói tiếp. - Hãy nghe một chút đây, ai là người còn chưa đóng góp phần mình cho vòng hoa viếng anh Dean đáng thương đây? Này Garret, cậu sẽ trả công cho tôi chứ? - Tôi sẽ chẳng trả cho chị một đồng xu cạch nào trước ngày thứ bảy. - Anh chàng Garret nói cộc lốc. - Thế còn cà phê này thì sao đây? - Cô Willis hỏi. - Nào, Jones, hãy xem đây, nếu như người phụ việc đem danh mục đến, thì cô, cô em thân mến, cô hãy đánh dấu tên trong danh mục đó với tôi. Chúng ta hãy tiếp tục chọn những con ngựa đã được giao ước... - Hiệp đấu dự định đã bị tuyên bố bãi bỏ rồi, - Garret nói. - Bãi bỏ là thế nào?... thôi được, tôi đã cho ông ấy thắng trong cuộc thi của tờ Morning Star... Ai đã nói cho ông ấy vậy? - Tất cả đều đăng trên mặt báo sáng nay, có một sự cố trong đàn ngựa đua. - Chán không thể chịu được! - Cô Rossiter bật ra tiếng than vãn. - Mình lại vừa mất một cuộc thi hay. Và quay về phía chú bé phụ việc mang cà phê tới, cô ta nói: "Này, cậu có thấy chị dại dột không cơ chứ? Có chứ nhỉ? Đấy, đây mới là điều quan trọng này: bao nhiêu? Một si-ling ăn năm phải không nào? Này cô Parton, cô hãy nói xem, đồng ý cho chị vay một pen-ny đi. Còn bây giờ, ai có bút chì, hãy viết tên của nhân vật mới đó đi xem nào? - Tên anh ta là gì nhỉ? - Bredon. - Anh ta từ đâu đến? - Ông Hankin chẳng biết gì hết trọi; nhưng cô Metayard, người đã nhìn thấy anh ta lại khẳng định rằng trông anh ta giống như một nhân vật của ngành điện ảnh vậy. - Đó là một kẻ ngu ngốc đã giành mất những gì mà chỉ mới ngày hôm qua thôi vẫn còn là của Derby. Với địa vị của anh ta, thì ngày kia tôi mới đến nhận nhiệm vụ. A! Ingleby đến kia rồi, tin gì anh ta cũng biết tuốt, chắc hẳn anh ta đến nói cho chúng ta đây. Này Ingleby, uống cà phê chứ? Hẳn là cậu có nguồn tin về cái anh chàng có tên là Bredon chứ? - Tóc hoe vàng này, dáng dấp thì cao một mét bảy lăm, mũi dài ngoẵng này, chưa bao giờ làm công tác quảng cáo và đã qua đại học Oxford. - Ô là la!... - Cô Metayard kêu lên. Đúng lúc đó, cánh cửa bật mở và tất cả nghe thấy giọng nói khôi hài của ông Hankin, thủ trưởng của bộ phận. - Này, Ingleby, anh có để cho tôi nói một lát không đây? Ngay tức thì, như có một phép màu, hai người đứng tựa cửa và cô gái đang đọc văn bản cho cô Parton đang đánh máy kia, đều lẩn đâu mất tăm. Còn Willis vớ ngay lấy một tờ giấy và cắm mặt vào đó nghiên cứu với vẻ vô cùng chăm chú, say mê; điếu thuốc lá cô Parton đang hút dở, vụt biến mất. Chỉ còn mình Garret, không kịp tống khứ tách cà phê của mình đi đâu, liền ra vẻ dửng dưng, cô Metayard để tờ danh sách ngựa lên một chiếc ghế tựa và ngồi đè lên, còn cô Rossiter gõ liên hồi trên bàn phím chiếc máy chữ. Như vậy, chỉ còn mỗi mình lngleby là vẫn coi thường sự có mặt của sếp lớn. Anh này cậy có mưu cao, biến báo giỏi, lúc này quay ngay về phía tiếng nói vọng lại với nụ cười kiêu kỳ nở rạng trên môi, đáp lại tiếng của sếp và bước ra hành lang đón ông ta. Hankin đi cùng biên tập viên mới, ông ta nói: - Xin giới thiệu với các bạn đây là anh Bredon, - Ông ta nói, tỏ ra không có điều gì bất thường. - Anh Ingleby, tôi mong anh cho anh đây rõ mọi sự trong cơ quan ta. Tôi vừa cho mang đến phòng làm việc của anh toàn bộ các hồ sơ sản phẩm. Ông ta quay sang phía Bredon. - Anh hãy cố làm cho chúng tôi những chiếc cột quảng cáo thật rực rỡ. Đó là món quà có ý nghĩa nhất cho sự ra mắt đồng thời cho sự khởi đầu công việc của anh. Một khi anh có ý tưởng nào đó, hãy tới phòng làm việc của tôi, trình bày cho tôi rõ. - Hẳn là vậy rồi. - Bredon trả lời. Ông Hankin quay người, bước đi như đang nhảy một vũ điệu. - Còn bây giờ, - Ingleby bước vào phòng đánh máy vừa dắt theo biên tập viên mới, vừa nói: - Ngay bây giờ, tôi xin giới thiệu các bạn với anh Bredon. Trước hết, đây là cô Rossiter và cô Parton, hai thiên thần hộ mệnh của chúng ta. Chúng ta chỉ cần viết, còn các cô sẽ gõ thành văn bản và sửa lỗi chính tả, hai cô còn cấp phát cho chúng ta đồ dùng văn phòng phẩm và cả cà-phê nữa. Cô Parton có bộ tóc hoe vàng, còn cô Rossiter, có mái tóc đen. Mời các bạn đón đọc Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn của tác giả Dorothy L. Sayer.