Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bước Chân Theo Dấu Mặt Trời (Phương Thu Thuỷ)

Bước chân theo dấu mặt trời được viết bởi một người phụ nữ đã từ bỏ công việc ổn định, rời xa ngôi nhà êm ấm để trở thành kẻ lữ hành cô độc đến những miền đất lạ với tấm vé máy bay một chiều.

Người phụ nữ ấy luôn mang trong mình câu hỏi: Tôi sinh ra bởi điều gì? Tôi đang đi về đâu?... Để rồi vào một buổi chiều trên đỉnh núi Linh Thứu, lúc mặt trời rực rỡ xuống sau dãy núi, người phụ nữ ấy đã bắt đầu tìm được điều mình đang khao khát, ráng chiều đỏ thắm dần lấp đầy khoảng trống vô hình trong cô.

Người phụ nữ ấy hành hương đến Ấn Độ, nơi có một vị Phật đã thành đạo, nơi đã một thời mang trong mình nền văn minh huy hoàng của loài người nay trở thành nơi nghèo nàn, và nguy hiểm nhất thế giới. Trong chuyến độc hành của mình, người phụ nữ yếu đuối đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc: vui - buồn - hạnh phúc - sợ hãi. Những người lạ nơi xứ người đã khiến người lữ khách không còn đơn độc mà mang cô cảm giác thân thuộc, ấm áp tình người.

Những người chúng ta đã gặp trong đời, mỗi sự việc xảy đến đều ý nghĩa và dạy cho chúng ta một bài học về cuộc sống. Những gì chúng ta trải qua đều là nhân - quả và chỉ có cách bình tĩnh chiêm nghiệm mới giúp ta an yên giữa cuộc đời này.

Bước chân theo dấu mặt trời sẽ dẫn độc giả bước vào không gian văn hóa đậm chất Ấn Độ với những công trình kiến trúc kỳ vĩ, tinh xảo, các loại hình nghệ thuật truyền thống đầy tinh tế, nền ẩm thực đa dạng thậm chí cả những tập tục man rợ như tục điểu táng của người Tây Tạng. Tìm mua: Bước Chân Theo Dấu Mặt Trời TiKi Lazada Shopee

Bạn sẽ nhận ra rằng: “Con người ở đâu cũng giống nhau. Dù màu da, ngôn ngữ, quan niệm, niềm tin tôn giáo khác nhau nhưng mọi vấn đề, rắc rối, đau khổ đều giống nhau bởi đều xuất phát từ tâm.”

***

Năm 2013, sau một lần cùng mẹ du lịch Ấn Độ, Thu Thủy bị vùng đất giàu bản sắc văn hóa và tâm linh này thu hút. Không lâu sau, chị quyết định tu học Phật giáo Ấn Độ ngay tại Việt Nam. Đến một ngày, chị quyết định một mình trở lại đất nước này để thực hiện giấc mơ khám phá cuộc sống và con người nơi đây.

Trước khi bắt đầu hành trình, Thu Thủy có cuộc sống bình yên. Vốn hòa nhã, nhẹ nhàng và hiểu chuyện, chị may mắn lấy được người mình yêu là tình đầu thời đại học. Sau khi tốt nghiệp, chị có một công việc ổn định suốt 10 năm và hưởng cuộc sống ấm êm bên người thân, bạn bè. Thế nhưng, cô gái trẻ không thỏa mãn mà luôn cảm thấy từ sâu trong mình có một khoảng trống khó giải thích.

Biết ý định của chị, đồng nghiệp phản ứng, can ngăn. Chị kể mọi người đều khuyên Ấn Độ là vùng đất không an toàn cho phụ nữ. “Cứ hai mươi phút lại có một vụ cưỡng hiếp”, “Qua bên đó tiếng Anh không tốt thì làm sao?” - nhiều người nói với chị. Trên Internet, nhiều tin tức tiêu cực về Ấn Độ như hiếp dâm, giết người, bạo động và kém vệ sinh. Nhưng trong cô gái trẻ luôn vững niềm tin trở lại nơi đây. Chị may mắn được chồng ủng hộ.

Thu Thủy chọn vùng đất Ladakh, bởi pháp hội Kalachakra do ngài Dalai Lama chủ trì được tổ chức tại đây, nơi được gọi là Thiên đường ẩn giấu (The hidden paradise).

Cuốn sách kể lại chi tiết hành trình của Thu Thủy từ khi đặt chân đến Ấn Độ. Sau khi máy bay hạ cánh ở Mumbai, chị được vợ chồng người bạn Sachin đón tiếp và có một đêm ngon giấc tại căn hộ của họ ở Pune. Sau đó, chị một mình lên đường.

Tác giả mô tả khi đến Ladakh, bức tranh hùng vỹ chưa từng thấy hiện ra trước mắt chị. Ladakh là vùng đất Ấn ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa Tây Tạng. Từ cảnh vật, con người, những ngôi đền đều chứa đựng tinh thần Phật. Những bài giảng về lòng từ bi của Dalai Lama tiếp thêm niềm tin cho chị về cuộc sống. Chị được tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh thời luân (Kalachakra) từ một Lama trong vùng, chiêm ngưỡng biểu tượng Mandala cát.

Qua những ngày trải nghiệm, tác giả khẳng định Ấn Độ không như những gì chị biết khi ở quê nhà. Ở đây tình người diễn ra một cách lặng lẽ, tự nhiên, không ai đề phòng ai. Khi dự một đám tang, chị viết: “Ở đây không nghe một tiếng khóc nào, mọi người mỉm cười chào khiến tôi không có cảm giác ở trong một đám tang”. Những điều đó giúp tác giả cảm thấy bình yên cả khi một mình lang thang nơi đây.

Từ miền đất Phật Ladakh, Bodh Gaya đến những thành phố hiện đại New Dehli, Mumbai hay Dhamma Gigi, Igatpuri và Kolkata... tác giả nhận ra rằng lòng tốt luôn ngự trị trong thế giới con người, giúp chị dũng cảm đối mặt khó khăn suốt hành trình.

Qua cuốn sách, Thu Thủy gửi gắm thông điệp về tình bạn, tình cảm gia đình, lòng nhân ái cùng tín ngưỡng thiêng liêng dẫn lối con người tìm đến điều tốt đẹp của cuộc sống.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bước Chân Theo Dấu Mặt Trời PDF của tác giả Phương Thu Thuỷ nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

PDF Sấm Truyền Ca (1670) - Lữ Y Đoan (Diễn kinh Cựu Ước bằng thơ Lục Bát)
Hằng sinh Thượng đế đại quyền,Tự không sáng tạo phán truyền hoằng khaiCàn khôn bỗng chúc phôi thaiHư hư hàn vũ, dày dày u minh.Đó là những câu mở đầu trong tác phẩm Sấm Truyền Ca, diễn ca lục bát 5 quyển đầu của Cựu ước, do cha Lữ Y Đoan, một trong những linh mục thế hệ đầu của Giáo phận Đàng Trong biên soạn.Cha Lữ Y  (Louis)  Đoan sinh năm 1613 tại Kẻ Chàm, Quảng Nam, soạn xong quyển Sấm Truyền Ca bằng chữ Nôm khi còn là Thầy Giảng năm 1670. thụ phong LM tại Quảng Ngãi năm 1676 và hai năm sau đó qua đời (1678).Tác phẩm Sấm Truyền Ca đã Việt hóa các nhân danh và địa danh trong Kinh thánh, trình bày nội dung các sách Ngũ Thư với phong cách hết sức Việt Nam. Giáo dân rất thích nhưng có lẽ các cha Tây ngại rằng nó không sát bản văn Kinh thánh nên không ủng hộ, tác phẩm chỉ được chép tay chứ không được in ra. Qua thời kỳ bắt đạo, quyển sách đã trôi dạt về phía nam.Năm 1820 bộ sách được chuyển sang chữ quốc ngữ do Phan Văn Cận (tại Cái Mơn, Bến Tre).Năm 1870, có người đào được tại Cái nhum (Chợ lách, Vĩnh long) một hầm vô chủ, có nhiều sách vở về đạo thánh,'trong đó có bộ Sấm Truyền Ca, giấy đã mục nhiều. Lúc đó có ông Nguyễn Vãn Thế chịu khó chép lại và truyền ra cho nhiều người biết.Năm 1885 cha Phaolồ Qui muốn giúp độc giả tiện đối chiếu với bản văn Kinh thánh nên đã ghi số thự tự vào các câu trong mỗi chương. Ngài cũng chuyển các tên người và tên đất cho sát bản Latinh nhưng chỉ làm được một phần.Có hai bản sao đã tồn tại tới giữa thế kỷ XX:Một bản do nhà báo Paulus Tạo (báo Nam Kỳ Địa Phận) chép theo Sưu tầm của Phêrô Trần Hớn Xuyên, trực tiếp chép theo bản của Simong Phan Văn Cận, hoàn tất ngày l7 tháng 5 năm 1910 và một số tài liệu về Sấm Truyền Ca, do linh mục Phao-lồ Qui Sưu tầm và sửa chữa, từ năm 1885. Paulus Tạo ghi năm tháng ông thực hiện việc biên khảo trên một trang nay đã rách, nên nay không rõ là năm nào.Khi nhà in Tân Định được thành lập, đã có đề nghị in bộ sách nhưng các cố Tây không chịu.Bản thứ hai ở báo Tông Đồ. Năm 1947 nhà báo Nguyễn Cang Thường mang về tòa soạn báo Tông Đồ một số văn liệu, trong đó có Sấm Truyền Ca. Năm 1952, nhà báo Tông-Đồ bị bão làm sập đổ, văn liệu hư hại hơn phân nửa. Bổn Sấm Truyền Ca hư hỏng hoàn toàn ba quyển sau, vì bị nước ngập và mối xông phá, chỉ còn hai quyển đầu là Genesia (Tạo Đoan Kinh) và Exodus (Lập Quốc Kinh). Quyển Lập Quốc Kinh bị mối tàn phá phân nửa, chỉ còn 21 chương. Năm 1956 nhà báo Thaddoeus Nguyễn Văn Nhạn chép những phần còn lại của tập Sấm Truyền Ca và chép xong ngày 20 tháng 12 năm 1956. Trong bản chép tay của ông Nhạn, tên đất và tên người chép theo bản của linh mục Lữ-y Đoan và ghi chú theo bản sửa chữa của linh mục Phao-lồ Qui.1993 Giáo sư Nguyễn Văn Trung và một số trí thức Công giáo đã thực hiện quyển sách “Về các tác giả Công giáo thế kỷ XVII-XIX”, do Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Tp HCM ấn hành. Quyển sách đã giới thiệu tác phẩm Sấm Truyền Ca đến công chúng.Giáo sư Trung và các cộng sự viên đã có công nghiên cứu đối chiếu, thực hiện bản văn hiệu đính mang tính khoa học và năm 2000 Tập san Y Sỹ ở Montreal đã xuất bản tập 1: Tạo Đoan Kinh.Dù quyển sách được in ở Canada mới cách đây 20 năm, hiện nay ở Việt Nam tìm không đâu có. May thay cuối cùng, chúng ta may mắn tìm được một bản photocopy ở Thư viện Học viện Đa Minh, Gò Vấp và một ấn bản ở Thư viện Mân Côi Bùi Chu.Được Đức Giám mục Giáo phận khuyến khích, chúng con đang chuẩn bị để in lại quyển sách kịp phát hành vào Mùa Vọng năm nay, nhằm mừng kỷ niệm 350 năm việc biên soạn tác phẩm, để tạ ơn Chúa và để đẩy mạnh công việc truyền giáo cho giới trí thức.
PDF Trần Nhân Tông - Đức vua sáng tỏ một dòng Thiền - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.Trong lịch sử Việt Nam, thời Trần được xem là thời kỳ hưng thịnh nhất cả về mặt quân sự và văn hoá với nhiều thành tựu. Là vị hoàng đế thứ 3 của nhà Trần, Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua nổi tiếng anh minh, có vai trò lãnh đạo quan trọng hai lần chống quân Nguyên Mông bảo vệ bờ cõi Đại Việt trước vó ngựa nổi tiếng vô địch của người Mông Cổ. Sau 15 năm trị vì, ông nhường ngôi lui vào ở ẩn và chuyên tâm  nghiên cứu Phật giáo. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng. Ông để lại một di sản Thiền tông mà dến bây giờ vẫn còn phát triển, trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam.Ấn phẩm Trần Nhân Tông - Đức Vua Sáng Tổ Một Dòng Thiền do cư sĩ Nguyên Giác biên soạn, là một tuyển tập về cuộc đời của Ngài gồm các bài phú, thơ, tham vấn.Xin trích dẫn lời của cư sĩ Nguyên Giác cho cuốn sách này: "Nguyện xin những lời này khích lệ cho những vị muốn học Thiền tông, giúp những vị đang tu tập, và trở thành một trận mưa hoa để ca ngợi những vị đã vào được pháp môn không cửa vào này. Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát.”MUA SÁCH (TIKI)
PDF Bách Gia Chư Tử - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc.Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.
PDF THẦN, NGƯỜI VÀ ĐẤT VIỆT! - TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Chuyên khảo Thần, người và đất Việt trình bày sự hình thành và biến chuyển của các hệ thống thần linh của người Việt từ cổ đại tới cận đại, từ hệ thống các nhiên thần (các thần cây, đá; các thần sông nước) đến các nhân thần sơ khai, tiếp đó là các hệ thần mới, nảy sinh do tiến trình hình thành thể chế quân chủ tập quyền, đồng thời do sự giao lưu với tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc phương Bắc và phương Nam trong tiến trình lịch sử của cộng đồng Việt.Không chỉ là một công trình quan trọng nghiên cứu cách thức suy nghĩ và ứng xử của người Việt trong đời sống tâm linh, ‘Thần, người và đất Việt’ còn là một bức tranh đa sắc về các hệ thống thần linh Việt; mỗi trang trong sách như một mảng màu miêu tả những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử và tín ngưỡng. Từng gương mặt nhiên thần rũ bỏ vàng son tô vẽ, trở lại nét nguyên sơ trong sự vọng tưởng về văn hóa bản địa linh thiêng. Hiểu rằng thẳm sâu trong tâm thức người Việt luôn có một quan niệm về sự tồn tại thế giới siêu nhiên, ‘Thần, người và đất Việt’ đã không dừng lại ở những khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai, mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết tập thần linh mới.