Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Bóng Đen

Cám ơn Page Duyên Sách đã gửi đến DTV eBook cuốn sách này. Nơi "Bán sách cũ và nhận tìm các tựa sách hơi hơi hiếm :-)" Các bạn muốn tìm mua sách cũ, có thể qua page Duyên Sách để nhờ Admin kiếm giúp. JONATHAN KELLERMAN SỰ HẤP DẪN CỦA TIỂU THUYẾT TRINH THÁM PHÂN TÍCH HÀNH VI   Một trong những tác giả có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác giả tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, nhưng kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ trụy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý -giáo dục trẻ em.   Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgis chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ở ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường với đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ; bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hằng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngưng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà   *** JONATHAN KELLERMAN Là nhà văn hàng đầu của Mỹ về hành vi phân tích, ông sinh năm 1949 tại New York, khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi. Đến nay đã có tới hơn 11 triệu bản tiểu thuyết của ông được in và bán trên khắp thế giới với những tác phẩm nổi tiếng như: Ba bóng đen (When the bough breaks), Thử máu, Vượt qua rào cản, Bom hẹn giờ, Thám tử tư, Tình yêu dối trá, Ba nhát đâm bí ẩn (The Clinic), Vũ điệu quỷ... Hiện ông sống cùng vợ - Faye Kellerman – nhà văn chuyên viết tiểu thuyết – và bốn người con tại Los Angeles.  *** Trời đang hửng sáng, hứa hẹn một ngày tươi đẹp. Cầu Chúa hôm nay không phải nghe đến hai từ “án mạng”. Hai ngày qua, dòng Thái Bình Dương đã liên tục chảy miết, đẩy những thứ rác rưởi tới Pasadena. Nhà tôi nằm nép mình dưới chân đồi phía Bắc Bel Air, đỉnh một đường mòn cương ngựa chạy ngoằn ngoèo quanh Beverly Glen, nơi sự giàu có và những điều đáng sợ nhất cùng chung sống. Đó là khu vực của những chiếc xe Porsches và những kẻ vô lại, hệ thống thoát nước tồi tàn và những dòng lạch đơn độc. Nhà tôi rộng 74 mét vuông, xung quanh có những cây gỗ tím vỏ màu bạc, những viên đá cuội đã bị nắng mưa bào nhẵn và kính màu. Ở ngoại ô, đây chỉ như một cái lều nhỏ; còn ở đây dưới những quả đồi, đó là một nơi ẩn náu dân đã. Xung quanh có nhiều thùng, vũng và mô đất nhấp nhô, nhiều chỗ tạo cho người ta sự bất ngờ khi mục kích. Ngôi nhà trước kia của một nghệ sỹ do ông tự thiết kế. Sau đó ông bị phá sản phải đem bán tất cả những tác phẩm nghệ thuật của mình cho các nhà trưng bày nghệ thuật ở La Cienega. Vào những ngày đẹp trời - giống như hôm nay - từ nơi này có thể nhìn thấy được đại dương, một mảnh đại dương màu xanh biếc e dè trộm nhìn Palisades. Tôi ngủ một mình, cửa sổ mở toang, không có trộm cắp và những kẻ phá hoại. Mãi 10 giờ mới tỉnh giấc, trần như nhộng. Chăn mền đã bị xô xuống nền nhà giữa những giấc mơ, tỉnh dậy tôi chẳng nhớ gì. Trong cảm giác lười lười ngấy ngấy, tôi chống khuỷu tay kéo chăn mền lên giường và nhìn những lớp ánh nắng màu nâu nhạt chui xuyên qua khe hở của căn nhà. Cuối cùng, tôi đã bị kéo khỏi giường bởi sự xâm nhập của một con ruồi bay quanh nhà tìm kiếm bữa sáng, nó cứ nhằm đầu tôi tấn công. Tôi cố lê bước vào nhà tắm, xả nước vào bồn, rồi đi xuống bếp kiếm cái gì đó để cho vào bụng. Con ruồi vẫn cứ bám chặt lấy tôi. Tôi pha một tách cà phê, xắt một lát hành tươi làm bữa điểm tâm. Con ruồi cũng xông vào xí phần. 10 giờ 20 sáng thứ Hai đẹp trời, chẳng biết đi đâu và làm gì. Có lẽ đã nửa năm từ cái ngày lấy quyết định nghỉ hưu non, tôi vẫn còn ngạc nhiên về sự thoải mái khi đang từ một anh chàng lúc nào cũng đầu tắt mặt tối trong công việc trở thành một anh chàng buông tuồng thế này. Tôi trở lại nhà tắm, đặt mông lên rìa bồn, mồm tóp tép nhai và vẽ ra một kế hoạch mơ hồ cho ngày hôm nay: thong thả tắm xong, đọc báo buổi sáng và có lẽ sẽ đi bách bộ về phía hẻm núi rồi quay lại, tráng qua người và tới thăm... Tiếng chuông cửa kéo tôi ra khỏi sự mơ màng. Tôi cuốn khăn tắm quanh eo và đi tới cửa kịp lúc nhìn thấy Milo bước vào. - Cửa không khoá - Anh giải thích rồi đóng rầm cánh cửa lại. Ném tờ Times lên ghế bành, anh gióng mắt nhìn tôi; tôi đang thắt chặt thêm chiếc khăn tắm. . - Chàng trai của trời đất, tôi chúc anh một buổi sáng tốt lành!  Tôi khoát tay mời anh vào trong. - Này anh bạn, anh nên khoá cửa. Anh không biết chứ, ở Sở cảnh sát, tôi còn cả đống hồ sơ về chuyện xảy ra với các người không đóng cửa khi ngủ nghỉ đấy. - Chào Milo, tôi cũng chúc anh một buổi sáng tốt lành. Tôi sải bước vào bếp và rót hai tách cà phê. Milo bước theo tôi giống như một cái bóng ì ạch rồi mở tủ lạnh lấy một dĩa pizza mà chính tôi cũng không nhớ mình đã để đó từ lúc nào. Anh lại theo tôi ra ngoài phòng khách, sà xuống chiếc ghế bành bọc da đã cũ - một món đồ cổ mang từ văn phòng của tôi ở Wilshire về. Tôi tắt nước trong nhà tắm và ngồi đối diện với anh trên chiếc ghế dài đệm bọc da lạc đà. Milo là một tay lực lưỡng - cao 1 mét 85 - khi ngồi hay nằm, chân tay anh xoãi lòng thòng, tư thế của những kẻ có dáng người kềnh càng. Sáng nay, anh trông chẳng khác gì một con búp bê rách, đổ bẹp xuống ghế - một con búp bê có cái mặt bành bạnh và khôi hài, gần giống mặt của một cậu bé con nếu không có những hút trứng cá nham nhở khắp nơi và đôi mắt mệt mỏi. Đôi mắt màu xanh có sức hút kinh ngạc bao quanh bởi những quầng đỏ, bộ lông mày mầu đen thẫm, tóc dày cộm kiểu Kennedy. Mũi to, sống mũi cao, cặp môi đầy đặn, cong như môi trẻ con. Tóc mai anh có lẽ đã 5 năm chưa cạo nên trễ dài xuống tận má. Như thường lệ, anh mặc bộ Brooks Brothers: áo vét ga- ba-đin màu ô liu, cúc không cài, ca-ra-vát sọc vàng xanh, đuôi đỏ sẫm. Toàn bộ trang phục của anh tạo ra một cảm giác kỳ dị. Anh không thèm để ý đến tôi mà chúi mũi vào đĩa pizza. - Tôi mừng vì anh đã dùng đĩa pizza đó cho bữa sáng của mình.  Tới khi chẳng còn gì trên đĩa, anh mới mở miệng hỏi. - Tình hình anh dạo này thế nào? - Tốt. Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, chắc là có chuyện gì hả, Milo? - Cứ phải có chuyện gì mới đến chắc? - Anh phủi những mẩu pizza rơi trên vạt áo xuống thảm trải nền - Thế bạn hè không thể đến với nhau được hay sao? - Anh lén lén lút lút vào nhà tôi vôi vẻ mặt hình sự chắc chắn không phải là đến chơi suông rồi!   Mời các bạn đón đọc Ba Bóng Đen của tác giả Jonathan Kellerman & Đặng Thị Huệ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chúa Đã Khước Từ - Richard E. Kim
Chúa đã khước từ mở đầu như một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Mười bốn mục sư bị bắt khi quân Bắc Hàn chuẩn bị tiến vào Nam Hàn năm 1950. Mười hai người đã chết, một kẻ hóa điên, và mục sư Shin câm lặng. Sự thật nào đang bị che giấu? Sự câm lặng kia là tuẫn giáo hay hèn hạ? Câu hỏi ấy không được trả lời ngay. Mục sư Shin hiện lên vừa như Judas “kẻ phản Chúa” nhận lời sỉ vả của giáo dân, vừa như Chris một mình bị đóng đinh vào thánh giá giữa nhân quần đang say máu chém giết. Ông là ai, hỡi người tu sĩ không thần linh, gánh vác trách nhiệm về “sự thật”, về “niềm tin” khi mà Chúa đã bỏ loài người. Sự thành công vang dội của Chúa đã khước từ nằm ở chỗ nó gợi nhớ đến vô số ẩn dụ lớn về tầm vóc con người trong mối quan hệ với đức tin thiêng liêng: liệu có thể chết cho một đức tin mỏng manh như ảo ảnh; liệu chỉ cái chết mới có thể phục sinh lại những điều tốt đẹp đã mất; liệu cứu rỗi có tồn tại và nếu có, nó có tới từ các thánh thần hay không; liệu có thể có hy vọng nào cho loài người – những kẻ không còn đức tin đang lao vào những cuộc “thánh chiến” ý thức hệ. Những câu hỏi ấy vang lên khi trong lòng phương Tây đang khủng hoảng niềm tin vào những truyền thống Ki-tô và phương Đông đang rên xiết trong những cuộc tranh chấp quyền lực. Một hiện thực đau đớn đến độ cá nhân tuyệt vọng mong cúi đầu chờ sự ban phước của Chúa trời rồi nhận lại câm lặng hư không. Trong cơn phi lý cùng cực ấy, kẻ vác thánh giá chỉ có thể là cá nhân lẻ loi, như mục sư Shin, chọn im lặng để lộn trái lại hiện thức không còn lối thoát. Tư tưởng ấy, đúng như lời đề tặng đầu sách, có ảnh hưởng lớn lao từ nhà hiện sinh chủ nghĩa Camus với tiểu thuyết Dịch hạch, khi mà chúng ta không thể trốn tránh và chiến thắng sự phi lý tồn tại hiển nhiên khắp nơi, cái làm nên nhân tính là việc cá nhân đối mặt với sự phi lý ra sao. Chúa đã khước từ loài người, loài người đã khước từ lẫn nhau, chỉ còn cá nhân và cây thánh giá riêng anh ta phải vác mà thôi. *** Richard E. Kim (1932 - 2009), là một tiểu thuyết gia, nhà phê bình và giáo sư văn học nổi tiếng, xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên "The Martyred" (Chúa Đã Khước Từ) năm 1964 và được hoan nghênh rộng rãi. Tác phẩm được đề cử giải National Book Award năm 1965 và đã được dịch ra 14 thứ tiếng. Mời các bạn đón đọc Chúa Đã Khước Từ của tác giả Richard E. Kim.
Con Mắt Thần Osiris - R. Austin Freeman
Xác ướp suốt bấy nhiêu thế kỷ nằm lặng dưới cát bụi sa mạc, một khi đưa ra khỏi lăng mộ, linh hồn Pharaon liệu còn ngủ yên? Trở về từ chuyến lữ hành đến Ai Cập, nhà nghiên cứu John Bellingham nổi tiếng đột nhiên mất tích bí ẩn, để lại bản di chúc kì quặc cùng khối lượng tài sản kết xù. Một con người mà có thể biến mất tựa sương khói, không một ai xác định được phương hướng ông ta đi, không một ai chứng kiến thấy giây phút cuối cùng của ông ta như thế nào... Đương khi mọi chiều hướng điều tra đều đam vào ngõ cụt, thì các dấu vết còn sót lại dần được gắn kết với nhau bởi Tiến sĩ Thorndyke lừng danh, từ món đồ trang sức hình bọ hung bằng vàng, hay khu vườn cải xoong chôn những mẩu xương người rải rác, cho đến xác ướp Sobekhotep cổ xưa, rồi cả hình xăm Utchat kỳ lạ... tất thảy cùng dẫn đến chân tướng cuối cùng. Con mắt Thần Osiris đỏ tươi, mở to soi chiếu mọi tội ác trên thế gian này. Ở nơi ta, lòng người, suy cho cùng mới là thứ khó ngủ yên nhất. *** Richard Austin Freeman là một nhà văn người Anh về những câu chuyện trinh thám, chủ yếu là các nhà điều tra pháp y medico-TS Thorndyke. Ông tuyên bố đã phát minh ra câu chuyện trinh thám ngược. Freeman đã sử dụng một số kinh nghiệm ban đầu của mình như là một bác sĩ phẫu thuật thuộc địa trong tiểu thuyết của mình Mời các bạn đón đọc Con Mắt Thần Osiris của tác giả R. Austin Freeman.
Pháp y Tần Minh Tập 4: Kẻ Dọn Rác - Tần Minh
Sách nói Kẻ Dọn Rác “Kẻ dọn rác” là cuốn thứ tư trong Series “Bác sĩ pháp y Tần Minh”. Trong cuốn này, bác sĩ Tần Minh và nhóm giám định hiện trường của anh đã đọc được tín hiệu phạm tội của rất nhiều xác chết, gặp nhiều hiện trường quái dị và đẫm máu, nhưng bất luận là cuộc hành trình đến địa ngục hay du hồn bám theo xe hoặc bóc trần sự thật trong ngôi nhà cổ, vụ thảm sát trong núi sâu... thì họ vẫn luôn tìm ra dấu vết dù là nhỏ bé nhất trong mười hai hiện trường vụ án vừa kỳ quái lại vừa hoang đường, từ đó vạch trần ra chân tướng sự thật. Trong tập truyện này, một sát thủ thần bí đang âm thần xuất hiện trong thành phố, hắn lặng lẽ hành quyết những người lang thang cơ nhỡ, những kẻ dối trá. Sau khi gây án, hắn hoàn toàn không để lại dấu vết nào ngoại trừ chữ ký bằng máu “Kẻ dọn rác” như lời thách thức dành cho giới cảnh sát. Nhóm giám định hiện trường có thể tìm thấy tay sát thủ thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma kia nhờ vào những dấu vô cùng tinh vi không? Mỗi giây mỗi phút diễn ra trong hệ liệt “Bác sĩ pháp y Tần Minh” đều khiến từng tế bào thần kinh của bạn chịu kích thích đến cực độ. Mời các bạn đón đọc Pháp y Tần Minh Tập 4: Kẻ Dọn Rác của tác giả Tần Minh.
Người Ruồi - Hans Olav Lahlum
Tác phẩm trinh thám viết theo lối cổ điển này được xem như là một hiện tượng trong vài năm trở lại đây tại Na Uy. Nhưng đằng sau lớp vỏ trinh thám mật thất kinh điển là một câu chuyện có chiều sâu với các nhân vật được khắc họa đa chiều. Một đêm cuối năm 1968, thi thể của một người anh hùng chiến tranh được tìm thấy trong căn hộ chung cư của ông sau một tiếng súng nổ. Sau khi khoanh vùng đối tượng tình nghi, cảnh sát xác định hung thủ chỉ có thể là một trong những người hàng xóm ở cùng chung cư với nạn nhân. Từ đây, quá khứ của từng người được bóc tách dần dần, và tất cả đều cho thấy có mối liên hệ ít nhiều phức tạp với người quá cố. Ai là hung thủ? Động cơ gây án là gì? Những câu hỏi thường thấy sau vụ án mạng thứ nhất còn chưa được giải đáp thì một cái chết thứ hai xảy ra, cũng trong cùng chung cư, khiến tất cả mọi người rúng động… Trong câu chuyện, chúng ta lần đầu được làm quen với hình mẫu một cặp đôi thám tử điều tra khá thú vị. Thanh tra cảnh sát Kohljorn Kristiansen (biệt danh K2) trẻ tuổi và đầy nhiệt huyết là một người có khả năng quan sát rất tốt, nhưng óc suy luận của anh lại không được nhạy bén bằng. May mắn thay, mỗi khi anh rơi vào bế tắc thì lại nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ Patricia Borchmann, một cô tiểu thư giàu có phải ngồi xe lăn sau một vụ tai nạn. Những gợi ý của Patricia giúp cho K2 giăi quyết được những khúc mắc của vụ án, nhưng ngược lại, việc phải gắn chặt với chiếc xe lăn khiến cô không thể trực tiếp đến quan sát hiện trường. Vì vậy, họ là một cặp đôi đầy thú vị, bổ khuyết cho nhau một cách hoàn hảo, dù không phải lúc nào cũng đồng tình với nhau. Một ưu điểm nữa của tác giả là khả năng tạo kịch tính. Đây là điều rất khó thực hiện với một câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất (góc nhìn của người phá án). Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo để cho những suy luận sai lầm của K2 liên tục đánh lừa bạn đọc, khiến cho chúng ta bị bất ngờ hết lần này đến lần khác. Cảnh ấn tượng nhất trong truyện là đoạn đọc di chúc của người quá cố. Có cảm giác như đó là một sân khấu kịch bất đắc dĩ với những người hàng xóm buộc phải đóng vai người tử tế, nhưng rốt cuộc bản chất của họ vẫn lộ ra. Từ những cái liếc mắt, tiếng thở dài, cho đến vị trí ngồi của họ, tất cả đều là những chi tiết cực đắt và được gài cắm rất khôn khéo, đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm khi bản chúc thư cuối cùng được công bố. Người ruồi là những con người không thể quên được quá khứ, nên dĩ nhiên tác phẩm này dành một dung lượng khá dài để ôn lại những ký ức vẫn còn nóng hổi về cuộc đại chiến thế giới thứ hai qua lời kể của những người hàng xóm. Đây là phần nội dung gây nhiều xúc động, đặc biệt là những tâm sự của vợ chồng người gác dan. Các bạn có thể thấy nó dài dòng không cần thiết, nhưng đừng hấp tấp bỏ qua nhé, nó chứa đựng một vài manh mối rất quan trọng của vụ án đấy. Tác giả khá tôn trọng luật công bằng của trinh thám suy luận cổ điển, nên bạn đọc có đầy đủ các dữ liệu để tìm ra hung thủ trước khi đọc những trang cuối. Vấn đề là bạn có đủ tinh ý hay không. Nói tóm lại, Người ruồi là một tác phẩm trinh thám lịch sử đáng đọc, đáng suy gẫm. Chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua những điểm còn chưa hoàn chỉnh của một tiểu thuyết đầu tay, và yên tâm về chất lượng của những cuốn tiếp theo trong series K2-Patricia này. *** Hans Olav Lahlum là một sử gia Na Uy, tác giả tội phạm, người chơi cờ vua và nhà tổ chức, và chính trị gia. Ông đã viết tiểu sử về Oscar Torp và Haakon Lie, và một cuốn sách lịch sử về tất cả các tổng thống của Hoa Kỳ.  Khi viết quyển tiểu thuyết trinh thám lịch sử này tôi đã vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của một nhà sử học, và đã cố gắng hết sức chân thật trong ngữ cảnh liên quan đến các sự kiện vào năm 1968 và Thế chiến thứ Hai. Tuy nhiên, người viết quyển tiểu thuyết này dù sao cũng là nhà văn Hans Olav Lahlum, chứ không phải nhà sử học cùng tên vốn được biết đến nhiều hơn. Và tôi cũng sử dụng sự tự do nghệ thuật mà các tác giả vẫn thường xuyên sử dụng. Tên các địa điểm và những con phố là chính xác, nhưng hầu hết những tòa nhà được đề cập đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Do đó, độc giả đặc biệt quan tâm sẽ có thể tìm thấy cả hai con phố Krebs và Erling Skjalgsson, nhưng sẽ không có những số nhà hoặc tòa nhà được mô tả trong quyển tiểu thuyết này. Tương tự như vậy, không thể tìm thấy một đồn cảnh sát ở Salen với cùng địa hình xung quanh hoặc cùng một kiến trúc như đã được mô tả trong chương Chín. Một vài nhân vật phụ đã được lấy cảm hứng trực tiếp từ những nhân vật lịch sử. Còn lại, tất cả những nhân vật chính, bao gồm cả nạn nhân vụ án, ông Harald Olesen, hoàn toàn là sản phẩm tưởng tượng của tác giả và không dựa trên bất kỳ nhân vật lịch sử nào, dù là của năm 1968 hay trong Thế chiến thứ Hai. Và đối với một vài nhân vật phụ được lấy cảm hứng từ nhân vật lịch sử kia, phải nhấn mạnh rằng sự miêu tả văn chương không dựa trên bất kỳ liên quan nào với một cuộc điều tra hình sự. Vụ án Feldmann, vốn được đề cập ngắn gọn trong tiểu thuyết này, là một trường hợp pháp lý được bàn tán rộng rãi từ năm 1946 đến 1947, trong đó hai người cựu dẫn đường qua biên giới bị kết tội sát hại một cặp vợ chồng người Do Thái trong chiến tranh với lí do tự vệ. Việc này đã được sử dụng như cứ liệu lịch sử cho quyển tiểu thuyết này, nhưng không tương ứng với cốt truyện hay bất kỳ nhân vật nào. Tuy nhiên, một vài nhân vật được lấy cảm hứng hoàn toàn hoặc một phần từ những người mà tôi biết ngày hôm nay - kể cả bản thân tôi. Trưởng bộ phận tiểu thuyết của nhà xuất bản Cappelen Damm, Anne Tlotaker, đã là người cố vấn quan trọng nhất của tôi về cả nội dung và bút pháp của quyển tiểu thuyết này. Tôi cũng nhận được những phản hồi hữu ích từ nhà phụ trách xuất bản, Anders Heger và biên tập viên Marius Wulfsberg. Tôi cũng muốn gửi ngàn lời cảm ơn đến một nhóm những cố vấn cá nhân, những người đã đọc tất cả các phần của bản thảo và cho tôi những lời phê bình mang tính xây dựng về mặt nội dung và/hoặc ngôn ngữ. Nhóm này bao gồm em gái tôi Ida Lahlum, cùng những người bạn tốt của tôi: Ingrid Baukhol, Mina Finstad Berg, Ingrid Busterud, Anne Lise Fredlund, Kathrine Ncess Hald, Hilde Harbo, Kristin Hatledal, Bjarte Leer-Salvesen, Torstein Lerhol, Espen Lie, Ellisiv Reppen, Jane Iren Solbrekken-Nygard, Karen Thue, Arne Tjolsen và ICatrine Tjolsen. Ellisiv và Mina cũng xứng đáng được nhắc đến, đặc biệt do mối quan tâm liên tục của họ đến dự án này và sự giúp đỡ thiết thực của họ trong những lần sửa bản thảo cuối cùng. Chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết liệu quyển tiểu thuyết trinh thám đầu tay này của tôi cũng sẽ là quyển cuối cùng hay nó sẽ khởi đầu của một chuỗi những tiểu thuyết trinh thám lịch sử. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể hy vọng rằng Người Ruồi cũng sẽ hấp dẫn người đọc như nó đã từng lôi cuốn tác giả. Độc giả có bất kỳ bình luận hoặc câu hỏi nào cho tác giả chỉ cần gửi email đến địa chỉ [email protected] hoặc đăng chúng lên trang Facebook của tôi. Gjovik, 27 tháng 6 năm 2010 Hans Olav Lahlum Mời các bạn đón đọc Người Ruồi của tác giả Hans Olav Lahlum.