Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mọi Cái Tên - Jose Saramago

“Là một nhà văn lớn của thời đại, dấn thân vào con đường sáng tạo từ ngày trẻ, nhưng phải tới ngoài lục thập mới được xã hội nhìn nhận ít nhiều đúng tầm cỡ (Giải Nobel Văn học 1998). José Saramago đã có lúc phải cay đắng thở than: ‘Lên sao Hỏa còn dễ hơn gõ được vào trái tim những người đồng thời…’ Cách đây sáu năm, ngày 18-6-2010, ông đã qua đời trên đảo Lanzarote, thọ 87 tuổi.” José Saramago sinh năm 1922, trong một gia đình nông dân nghèo ở cách thủ đô Bồ Đào Nha hơn trăm cây số. Cha ông từng là lính pháo binh trong chiến tranh thế giới thứ nhất và sau khi giải ngũ, đã trở lại với công việc đồng áng. Tuy nhiên, khi nhà văn tương lai lên ba tuổi, người cha đã quyết định tìm kế sinh nhai ở Lisbon. Và thủ đô cũng là nơi mà Saramago sẽ sống từ đó đến gần hết cuộc đời mình. Saramago đã phải trải qua một tuổi thơ vất vả, thậm chí còn không được học hết trung học. Những công việc đầu tiên khi ở tuổi trưởng thành là làm thợ nguội sửa chữa ô tô, kỹ thuật viên vẽ thiết kế, nhân viên y tế, nhân viên bảo hiểm xã hội… Nhưng dù vất vả thế nào thì chàng thanh niên Saramago cũng rất hiếu học, rất chăm chỉ đọc sách và tự nghiên cứu các ngoại ngữ. Năm 22 tuổi, nhà văn tương lai đã lấy vợ là một nữ họa sĩ. Tới những năm 80 của thế kỷ trước, Saramago đã li dị người vợ đầu và cưới một nữ nhà báo làm vợ… Tác phẩm đầu tay của Saramago “Mảnh đất tội lỗi” được xuất bản năm 1947 nhưng từ thời điểm đó, ông đã ngừng xuất hiện cho tới năm 1966 mới cho in tiếp tập sách mới là “Chùm thơ có thể”… Theo các nhà phê bình văn học, tài năng ở Saramago nảy nở… hơi bị muộn. Ông từng làm phóng viên, từng viết nhiều về chính trị, nhưng chỉ từ năm 1976, ở tuổi 54, ông mới được sống hoàn toàn nhờ lao động văn học. Thành công vang dội đầu tiên tới với Saramago là vào năm 1980 với tiểu thuyết “Đứng lên từ cát bụi”, tác phẩm được dư luận chung đánh giá là cuốn tiểu thuyết vĩ đại đầu tiên của ông. Hai năm sau, tên tuổi của ông càng được tôn vinh với tiểu thuyết mới “Hồi ức về tu viện”. Cuốn sách này ngay sau khi ra đời đã được dịch ra vài thứ tiếng nước ngoài và mở cửa cho Saramago đi tới cùng thế giới. Trong những năm 80 của thế kỷ trước, Saramago hoàn toàn tập trung sức lực cho sáng tác văn học và đã liên tiếp cho ra đời các tập tiểu thuyết có ấn tượng như “Năm Ricardo Reis qua đời” (1984), “Chiếc bè đá” (1986), “Lịch sử cuộc phong tỏa Lisbon” (1989)… Năm 1991, Saramago cho xuất bản tiểu thuyết “Phúc âm theo Jesus Christ” mang đậm cách nhìn tả khuynh vào lịch sử nhà thờ. Cuốn sách này đã gây nên nhiều chuyện ầm ĩ nhưng vẫn được xuất bản tới hơn 20 lần tại Bồ Đào Nha và đã được dịch ra 25 thứ tiếng khác trên thế giới. Chính quyền Bồ Đào Nha dưới sức ép của Nhà thờ đã cắt xén bản thảo “Phúc âm theo Jesus Christ” nên Saramago đã rời bỏ đất nước sang cư trú tại quần đảo Canarias của Tây Ban Nha. Trong nhiều cuốn sách của mình, Saramago đã lựa chọn những cốt truyện lạ, thậm chí mang tính dị thường. Thí dụ như trong cuốn “Chiếc bè đá”, câu chuyện diễn ra trên bán đảo Iberia bị tách lìa khỏi lục địa châu Âu và buộc phải trôi lênh đênh trên biển. Trong tiểu thuyết “Mù lòa” (1995), cư dân của một quốc gia đã phải gánh chịu bệnh dịch bí hiểm làm hỏng mắt, dần dà khiến cho xã hội bị tan rã. Trong tiểu thuyết “Những gián đoạn trong cái chết”, cư dân ở một quốc gia khác đã phải gánh chịu một tai họa khác – không ai bị chết cả nên đất nước phải đối mặt với nạn nhân mãn, các cơ sở mai táng và tổ chức lễ tang bị ăn không ngồi rồi và thế là xuất hiện một tổ chức bất hợp pháp tìm cách sát hại những người già cả… Mỗi một cốt truyện như thế đã được Saramago sử dụng như phương tiện để bày tỏ một hay một vài ý tưởng, nay đã tạo dựng thành di sản tinh thần đích thực của nhà văn. Để tiếp cận với những ý tưởng ấy, độc giả bắt buộc phải vượt qua được những cửa ải của thứ ngôn ngữ nặng nề của nhà văn vì Saramago hay sử dụng các cú pháp đã được phức tạp hóa và bất chấp các quy tắc ngữ pháp hay chính tả và vì thế, đã khiến cho không ít nhà phê bình văn học nhìn ra trong phong cách sáng tác này của ông những dư âm của vô thức… Một trong những thủ pháp điển hình khác của Saramago là nhà văn còn hay tạo nên một hiện thực khác. Thủ pháp này đã được thể hiện rõ nhất trong tiểu thuyết “Năm Ricardo Reis qua đời” (1984) mà trong đó nhà văn đã làm sống lại “cái tôi thứ hai” của thi sĩ Bồ Đào nha Fernando Pessoa hay trong “Lịch sử cuộc phong tỏa Lisbon” (1989) với nhân vật chính là người hiệu đính cuốn sách sử về thành phố và đã thêm một từ “không” vào đó khiến cho ý nghĩa cuốn sách trở nên hoàn toàn sai khác… Những quan điểm chính trị và tôn giáo của José Saramago đã mang lại cho ông danh tiếng không kém gì những tác phẩm của ông. Ông gia nhập đảng Cộng sản Bồ Đào Nha năm 47 tuổi và đã giữ nguyên danh hiệu đảng viên cộng sản cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Năm 1975, sau cuộc “cách mạng hoa cẩm chướng”, chính thẻ đảng Cộng sản đã trở thành nguyên do khiến ông bị loại khỏi vị trí Phó Tổng biên tập báo “Diario de Noticias”. Về sau ông đã đánh giá sự việc này là chuyện may mắn nhất của đời ông: “Khi đó, tôi đã dừng bước và suy ngẫm. Khi đó tôi lại tái sinh như một nhà văn”… Saramago là người nhất quán phê phán mô hình hiện đại của xã hội tư bản chủ nghĩa ở phương Tây. Ông nói: “Con người là một sinh vật duy lý nhưng lại hành xử một cách phi lý. Nếu sự thật ngược lại thế thì trên thế giới đã không xảy ra nạn đói…” Những tuyên ngôn dễ quá mù ra mưa của ông đã khiến Saramago trở thành mục tiêu phê phán cả từ phía những chế độ chính trị mà ông dị ứng lẫn từ phía các đồng nghiệp trí thức. Một trong những vụ việc gây tai tiếng nhất trong các hoạt động xã hội của Saramago là chuyến thăm của ông tới khu tự trị Palestine năm 2002. Ở Ramalla, ông đã so sánh thành phố đang bị phong tỏa này với các trại tập trung của bè lũ phát xít Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai… “Sống trong âm vọng của nạn diệt chủng Do Thái Holocaust, người Israel cứ tưởng rằng họ làm gì cũng được vì họ đã phải trải qua một thảm kịch như thế. Quan điểm này theo tôi là rất đạo đức giả. Những khốn khổ của cha ông họ đã không làm họ sáng mắt thêm điều gì cả” – Saramago đã tuyên bố như thế sau một năm tới thăm Ramalla. Sau sự kiện này, ông đã bị buộc tội là một kẻ theo chủ nghĩa bài Do Thái và thật đáng tiếc là một bộ phận của xã hội phương Tây đã nghĩ ông quả thực là như vậy. Khi tin tức về việc ông qua đời lan đi trên thế giới, trên một số phương tiện thông tin đại chúng đã xuất hiện những dòng tít: “Người được nhận giải thưởng Nobel và người bài Do Thái đã mất”, “Đã qua đời một nhà văn Bồ Đào Nha, người từng so sánh Israel với nước Đức Quốc xã”… Có thể đối với một số người, Saramago là một nhà văn “khẩu xà”, nhưng đó là một trí thức “tâm Phật”. Tuy nhiên, theo đánh giá của một ông chủ nhà xuất bản có tiếng ở Bồ Đào Nha, Jorge De Avezado, đối với Saramago, “đen luôn là đen, không thể nào nói khác đi được”. Saramago đã sáng lập Mặt trận Bảo vệ Văn hóa Quốc gia. Là một nhà văn vĩ đại, Saramago không hẳn đã được những người đồng bào đương thời của mình ưa chuộng nhất. Không ít người Bồ Đào Nha lại cho rằng khó chiều ông quá. Nhưng sách của ông ở Bồ Đào Nha thì ai cũng đọc và khi ông được trao giải Nobel văn chương năm 1998, thì rất nhiều người Bồ Đào Nha cảm thấy đó là một tin mừng. Khi hay tin nhà văn qua đời, Thủ tướng Bồ Đào Nha lúc đó là Jose Cocrates đã nói rằng, Bồ Đào Nha “đã bị mất một trong những nhà văn hóa chính yếu của mình mà sự ra đi của ông đã là một tổn thất lớn lao đối với đất nước”. Bản thân nhà văn lại coi thái độ không đồng nhất đối với mình từ phía độc giả là chuyện thường tình: “Tôi không phải là người xấu. Nếu tôi có thể làm hại gì đó thì chỉ bằng lời mà thôi”. Sinh thời, Saramago dù muộn màng nhưng cũng đã được vinh danh không ít. Và ông cũng coi chuyện này rất bình thường. Trong một bài trả lời phỏng vấn trước khi mất không lâu, ông đã nói: “Tôi không phải thiên tài. Tôi đơn giản chỉ làm tròn phận sự của mình thôi”. Trong một bài trả lời phỏng vấn khác trước khi qua đời ba năm, Saramago nói: “Tôi không có cớ gì để than thở cả. Trong cuộc đời có quá nhiều việc mà ta cứ tưởng là oách, nhưng thực ra chúng chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi đã nhận giải thưởng Nobel. Nhưng điều này thì cũng ích gì?” *** José Saramago gọi cuốn “Mọi Cái Tên” của ông là câu chuyện giản dị nhất trong mọi chuyện. Câu chuyện của một người đi tìm một người khác, vì cuộc sống chẳng có gì quan trọng hơn. “Mọi Cái Tên” có sự hiện diện của mọi người đã và sắp sinh ra trên đời này. Nhân vật duy nhất có tên cụ thể trong tác phẩm là Senhor José, một cái tên không đầy đủ. Senhor José là viên thư ký hạng bét trong Phòng Đăng ký Trung Ương, nơi giữ hồ sơ khai sinh, hôn thú và khai tử của mọi người. Người chết và người sống đều nằm trên những ngăn kệ trong Phòng Đăng ký, nơi có vị trưởng phòng được nhắc đến như chúa trời toàn trí toàn năng. Thú vui duy nhất trong cuộc sống công chức nhàm chán của Senhor José là làm bộ sưu tập chi tiết về cuộc đời của những người nổi tiếng. Một hôm tình cờ bắt gặp tờ khai sinh của một thiếu phụ vô danh, Senhor José quyết định đi tìm nàng. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa đối với Senhor José nếu anh không đi tìm người phụ nữ đó. Mọi cái tên dẫn người đọc vào cõi không gian vô tận, về nỗi cô đơn mênh mang cùng cực của cuộc sống, vì những sự kiện ngẫu nhiên sẽ thay đổi toàn bộ cuộc đời chúng ta. Câu văn của Saramago đủng đỉnh, thường có nét lừng khừng, rất đáng sốt ruột, nhưng dí dỏm. Trong cùng một câu viết, người đọc có thể thấy Saramago vừa đóng vai nhân vật trong truyện để mô tả sự kiện đang xảy ra, vừa là kẻ bàng quan chen lời bình phẩm của hắn vào giữa dòng, nhân vật và tác giả luôn luôn chuyển đổi vị trí. Ẩn giữa hai dòng chữ, Saramago để lộ nụ cười tinh quái của ông, và dường như trong khi đọc sách, những sự việc được mô tả mơ hồ giữa hai dòng chữ thường là những điều gây ấn tượng nhất. Saramago dễ chuyển từ một suy nghĩ nghiêm trang sang lời nói kề cà như đùa bỡn, từ những câu nói khoa trương sang một ý niệm súc tích, khiến người đọc phải dừng lại, rồi vội vàng đọc tiếp, hoặc quay ngược lại đoạn trước, để nắm bắt cái tinh tế và đôi khi ranh mãnh của tác giả. Đùa cợt hoặc mỉa mai, ông có thể đặt một quan sát thô kệch ngay trước một ý tưởng lãng mạn. *** Những tác phẩm khác Mảnh đất tội lỗi (Terra do Pecado, 1947), tiểu thuyết. Chùm thơ có thể (Os poemas possiveis, 1966), thơ. Đứng lên từ cát bụi (Risen from the ground, 1979), tiểu thuyết. Năm Ricardo Reis qua đời (O ano da morte de Ricardo Reis,1984), tiểu thuyết. Chiếc bè đá (A jangada de pedra, 1986), tiểu thuyết Cuộc đời thứ hai của Francis Assisi (A segunda vida de Francisco de Assis,1987), kịch. Phúc âm theo Jesus Christ (O evangelho segundo Jesus Cristo,1991), tiểu thuyết. Mù loà (Ensaio sobre a cegueira, 1995), tiểu thuyết. Mời các bạn đón đọc Mọi Cái Tên của tác giả Jose Saramago.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tin Tức Về Một Vụ Bắt Cóc
Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Như đã thoả thuận, vào hồi 9 giờ sáng ngày hôm sau Villamizar tới Medellin một đêm hoàn toàn không ngủ. Đó là một bữa tiệc hồi sinh. Đến 4 giờ sáng khi chỉ còn lại hai người ở trong phòng, Maruja và Villamizar đều hưng phấn trao đổi về những kỉ niệm xưa cho tới khi trời gần sáng. Tại trang trại La Loma khách luôn được đón tiếp bằng bữa tiệc thịnh soạn, nhưng bây giờ trong bữa tiệc có cả rượu sâm banh để chúc mừng Maruja được trả tự do. Tuy nhiên, đó là một cuộc nghỉ ngơi ngắn, vì khi đó Pablo Escobar rất vội, ẩn nấp tại một nơi nào đó trên thế giới, không chiếc lá chắn là những con tin. Sứ giả mới của ông là một người rất cao to, tóc vàng, râu dài màu hung hung, nói nhiều, người ra gọi ông ra với cái tên Mono. Ông nói, ông có toàn quyền để đàm phán về việc ra đầu thú của Escobar.   Theo sự sắp đặt của tổng thống César Gaviria, trong suốt quá trình thảo luận về mặt pháp lý với những luật sự của Escobar đều tiến hành thông qua bác sĩ Carlos Eduardo Meija với sự hiểu biết của Bộ trưởng Tư pháp. Để đầu thú về mặt thể xác, Meija hành động theo thoả thuận với Rafael Pardo, người thay mặt chính phủ, và phía bên kia do Jorge Luis Ochoa đại diện. Mono và chính Escobar từ trong bóng tối. Villamizar tiếp tục đóng vai trò trung gian giữa Escobar và chính phủ, cha Garcia Herreros là người bảo trợ tinh thần cho Escobar, cha luôn sẵn sàng cho những vấp váp khẩn cấp.   Sự hối thúc của Escobar để Villamizar có mặt tại Medellin ngay sau ngày Maruja được trả lại tự do làm cho mọi người nghĩ rằng việc ra đầu thú của Escobar sắp xảy ra đến nơi, nhưng liền sau đó hoá ra không phải, vì còn thiếu một số chi tiết về việc giải trí cho Escobar, trong thời gian bị giam. Sự quan tâm lớn nhất của tất cả, trước hết là Villamizar là không xảy ra chuyện gì trước khi Escobar ra đầu thú. Villamizar biết rằng Escobar hoặc những người sống sót của ông ra có thể phải trả giá bằng chính mạng sống của mình vì thiếu sự hoài nghi tối thiểu vào lời nói.   Sự băng giá để bị phá vỡ bởi chính Escobar khi ông gọi điện thoại tới trang trại La Lome, ông chào một cách thoải mái:   - Xin chào bác sĩ, Villamizar, ông vui lòng chứ? Villamizar chưa khi nào nhìn thấy Escobar mà cũng chưa khi nào nghe ông ta nói.   Ông cảm thấy cảm động và tuyệt đối tin tưởng vào tiếng nói hoàn toàn xa lạ.   “Tôi rất cảm ơn vì ông đã tới” – Escobar nói tiếp không đợi trả lời, với điều kiện sống của đời thường và giọng nói chói tai của những người chăn nuôi gia súc nơi thảo nguyên. “Ông là người giữ đúng lời hứa, chắc ông không làm tôi thất vọng”, ngay lập tức ông vào đề:   - Chúng ta bắt đầu thu xếp việc tôi ra đầu thú như thế nào? ... Mời các bạn đón đọc Tin Tức Về Một Vụ Bắt Cóc của tác giả Gabriel García Márquez.
Tiểu Thư Victoria
Trong tác phẩm Tiểu thư Victoria, Hamsun miêu tả câu chuyện tình bi thảm của giới trẻ, ý thức của họ về mất mát và khao khát, với sự đồng cảm và chia sẻ. Đó là câu chuyện tình yêu lãng mạn, say đắm của Johannes - con trai một thợ xay bột mì nghèo và nàng Victoria xinh đẹp, con gái một chủ lâu đài. Nhưng số phận trớ trêu đã khiến họ không thể đến được với nhau. Những định kiến xã hội về tầng lớp, gia đình và những biến cố dữ dội xảy ra trong cuộc đời Victoria đã đem lại một câu chuyện buồn... Chuyện hấp dẫn người đọc với đầy đủ trạng thái của cảm giác, với hình ảnh sinh động và ngôn ngữ đầy sáng tạo. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Con trai người thợ xay bột mì vừa đi vừa suy nghĩ. Đó là một cậu bé có đôi vai rộng, khoảng mười bốn tuổi, da rám cháy vì gió và mặt trời, là một người có tài phịa ra đủ các chuyện. Lớn lên, cậu sẽ theo nghề làm diêm. Nghề này rất nguy hiểm, không thể đùa với nó được, vì hễ để lưu huỳnh dính vào các ngón tay, sau đó sẽ không một người nào đủ dũng cảm chìa tay cho anh bắt. Thế nhưng anh lại được bạn bè kính trọng vì thông thạo một nghề đáng sợ như vậy. Cậu vào rừng thăm các con chim của mình. Chim chóc ở đây đều là bạn cũ của cậu, cậu biết chỗ chúng làm tổ, hiểu ngôn ngữ chúng và biết bắt chước tiếng chúng để trả lời. Cậu thường cho chúng ăn các viên bột mì được xay ở chiếc cối xay nhà cậu. Những hàng cây mọc theo lối đi cũng là bạn cũ của cậu. Mùa xuân cậu lấy nhựa cây, còn mùa đông thì cậu chăm sóc chúng một cách tận tâm, rung tuyết khỏi cành để chúng khỏi gãy vì nặng. Thậm chí ở tít trên đỉnh núi, trong cái hang trước kia là nơi khai thác đá, không có hòn đá nào cậu không biết rõ. Cậu khắc chữ lên mặt các phiến đá rồi xếp lại theo thứ tự: tảng lớn chính giữa là ông linh mục, còn các tảng bé xung quanh là các con chiên ngoan đạo. Nói chung, cái hang đá bị bỏ quên này đã được chứng kiến đủ các trò chơi lạ lùng của cậu. Lúc này cậu đang rẽ sang bên và đi xuống bờ đập. Bánh xe của chiếc cối xay chạy bằng nước đang quay, tạo nên những tiếng ồn kinh khủng. Cậu thường đi dạo ở đây, vừa đi vừa nói chuyện thành tiếng với chính mình. Cậu có cảm giác như mỗi chiếc bong bóng nhỏ đều có cuộc sống riêng của mình, và có thể nói về một điều gì đấy, còn dòng nước tràn qua đập đổ xuống thì mỏng và thẳng đứng như những bó sợi trắng lấp lánh treo trên dây. Ở quãng sông phía dưới bờ đập có cá, và cậu đã nhiều lần tới câu ở đó. Lớn lên, cậu sẽ làm nghề thợ lặn. Chỉ làm nghề thợ lặn thôi, chứ không làm gì khác. Từ boong tàu, cậu sẽ nhảy ùm xuống biển để lạc vào một thế giới kì diệu, nơi các con sóng làm đung đưa các khu rừng hoang dã, còn tận dưới đáy là một lâu đài nguy nga bằng san hô, sẽ có một công chúa đứng bên cửa sổ lâu đài vẫy tay bảo cậu: "Mời chàng vào!"... Nhưng đúng lúc ấy cậu bỗng nghe có tiếng người. Đó là tiếng bố cậu đang gọi to: "Juhannes!". - Có người từ lâu đài tới tìm con. Họ cần người chở các cô cậu sang đảo. Juhannes vội rảo bước về phía lâu đài. Thế là cậu con trai của người thợ xay bỗng nhiên nhận được một ân huệ lớn. Trong thực tế, khu nhà của ông chủ trông chẳng khác gì một lâu đài nhỏ, một lâu đài đơn độc, huyền ảo giữa rừng xanh. Một dãy các cửa sổ hình bán nguyệt chạy dài theo tường và mái nhà dốc đứng của ngôi nhà gỗ được quét sơn trắng. Mỗi lần có khách, một ngọn cờ được cắm trên đỉnh chiếc tháp hình tròn. Khu nhà này được nhân dân trong vùng gọi là lâu đài, với một bên là bờ vịnh, bên kia là rừng rậm, còn thấp thoáng phía xa là những túp lều nông dân nhỏ bé. Juhannes gặp đám trẻ con nhà quyền quý ở bến và giúp chúng lên thuyền. Cậu biết chúng từ lâu - đó là con của ông chủ lâu đài và các bạn bè của họ từ thành phố tới. Mọi người đều đi giày cao cổ, và khi thuyền tới đảo, chỉ một mình Victôria - lúc ấy mới mười tuổi - đi đôi giày bé tí, nên chắc ai đó phải bế cô lên bờ. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Thư Victoria của tác giả Knut Hamsun.
Tiếng Nói Trong Nhà
Tiếng nói trong nhà được giải Nobel vǎn chương nǎm 1938. Jessica là con gái của bà bếp và người lái xe cho luật sư William Asher, ở Manchester, Vermont, Mỹ.  Khác với bố mẹ là những người quê mùa cục mịch, Jessica rất thanh mảnh, xinh đẹp. Lớn lên trong khu nhà của chủ nhân, Jessica được ông bà William thương mến, được gởi vào trọ học tại một Dòng Tu Nữ ở Canada. Cô hằng nuôi mộng được là con gái của chủ nhân.  Đến tuổi cập kê, Jessica bị mẹ ép gả cho Herbert, anh tài xế mới (thay thế cho bố cô đã từ trần). Bất mãn vì phải lấy một anh chàng thô lỗ, vô học, người ngợm như một con gấu, chỉ biết tình dục là trên hết, Jessica đã hoá điên.  Trong những lúc điên loạn, cô phát ngôn bừa bãi, và gieo vào lòng mọi người trong nhà mối nghi ngờ về mối quan hệ bất chính giữa cô và Edwin, cậu con trai thứ của ông William, cũng như giữa cô và ông chủ.  Phải chǎng đó là phản ứng qua mạnh của Jessica về một mộng mơ không được thoả mãn.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** N gôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biên thành phố Manchester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngay người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh.   Ngôi nhà của dòng họ Winter rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng tây. Nhờ mỏ vàng và thiết lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà.   Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thơi gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia. Ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, ba Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó.   Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thương tiếc rẻ vì trong mùa he chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manchester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Nói Trong Nhà của tác giả Pearl S. Buck.
Tầng Đầu Địa Ngục
Bản dịch khác: Vòng Đầu Tác giả: Aleksandr Solzhenitsyn NXB Ngàn Khơi, 1971 Dịch giả: Vũ Minh Thiều Nguyên tác: В круге первом (1968) Tác phẩm Tầng đầu địa ngục do Nhà xuất bản Đất Mới chúng tôi gửi tới tay bạn đọc được dịch theo bản Anh văn The First Circle do Nhà Bantam Books ấn hành. Quyển này dày 674 trang và gồm 87 chương. Như các bạn đã thấy, tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện. Với mục đích làm cho cốt truyện được đúc kết hơn, có liên lạc hơn, chúng tôi đã lược bỏ một số trang khi dịch The First Circle sang Tầng đầu địa ngục. Việc lược bỏ của chúng tôi chỉ làm cho tác phẩm thêm trong sáng, chặt chẽ, cốt truyện vẫn còn nguyên, những nhân vật chính vẫn có đủ mặt. Giá trị văn chương của The First Circle, qua bản dịch của chúng tôi, theo chúng tôi nghĩ, chỉ có tăng chứ không giảm. Chúng tôi mong bạn đọc nhận xét, so sánh, nhận biết sự cố gắng của chúng tôi và đồng ý với chúng tôi rằng khi chuyển ngữ một tác phẩm tiểu thuyết ngoại ngữ sang tiếng Việt, đôi khi việc lược bỏ vài đoạn không liên hệ đến cốt truyện là việc làm cần thiết và hợp lý. Trân trọng cám ơn bạn đọc. Nhà xuất bản Đất Mới. *** Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.   Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post [2], Time [3]. NewYork Times [4] *** Đôi kim đồng hồ chỉ bốn giờ năm phút. Trong ánh sáng hấp hối của một ngày tháng Chạp, mặt đồng của chiếc đồng hồ đặt trên giá trông như có màu đen. Hai cánh cửa kiếng của khung cửa sổ cao nhìn xuống dãy phố đông đảo, nhộn nhịp bên dưới, nơi những người gác cửa đang dồn những mảnh tuyết nâu lại thành từng đống, tuyết tuy mới rơi nhưng đã ướt và dơ bẩn, những cây cào gỗ đẩy tuyết ngay dưới chân những người qua đường. Innokenty Volodin, cố vấn Quốc gia đệ nhị, nhìn ngây xuống cảnh đó nhưng không ghi nhận gì hết, chàng đứng dựa vài vào thành cửa sổ, miệng khẽ huýt gió một điệu nhạc mệt mỏi. Những ngón tay chàng lật mở từng từ giấy trắng bóng, in sặc sỡ nhiều màu của một tập san ngoại quốc. Nhưng mắt chàng cũng không nhìn thấy những hình ảnh in trên những trang báo đó. Cố vấn Quốc gia đệ nhị hạng Innokenty Volodin, chức vụ này của chàng trong ngành ngoại giao tương đương với cấp Trung tá trong quân đội, là một thanh niên cao và mảnh mai. Không bận đồng phục và bận bộ y phục may bằng một thứ hàng len dệt, trông chàng có vẻ là một công tử hào hoa hơn là một viên chức trung cấp trong Bộ Ngoại giao. Bây giờ đã đến lúc chàng phải bật đèn trong văn phòng nếu chàng muốn ở lại làm việc ngoài giờ, nhưng chàng không bật đèn, hoặc rời văn phòng để về nhà. Chàng cũng không để lộ vẻ gì là sửa soạn ra về. Bốn giờ chiều không có nghĩa là giờ làm việc trong ngày đã hết, bốn giờ chiều chỉ có nghĩa là ánh sáng của một ngày đã tắt, hoặc mờ đi, vào giờ nay tất cả mọi người đều về nhà ăn bữa tối để rồi bắt đầu từ mười giờ đêm, cả ngàn khung cửa sổ của sáu mươi nhăm cơ quan chính phủ ở Mạc Tư Khoa lại sáng đèn. Chỉ có một người, một người mà thôi, sống ở giữa khoảng một tá tường thành ở Mạc Tư Khoa, không ngủ được ban đêm, và người này đã làm cho tất cả những viên chức chính phủ lớn nhỏ ở Mạc Tư Khoa cũng phải thức với y cho tới ba, bốn giờ sáng. Vì đã biết rõ thói quen thức đêm của Vị Chúa Tể, đêm nào cũng vậy, khoảng ba mươi ông Tổng trưởng ngồi như những chú học trò được gọi đến tên. Để cho khỏi buồn ngủ, những ông Tổng trưởng này hành hạ những ông phụ tá, những ông phụ tá hành hạ những ông trưởng phòng và những nhân viên phụ trách lưu trữ hồ sơ vất vả leo lên những bậc thang mở những ô kéo tìm những tấm phiếu lý lịch hồ sơ, trong hành lang có những viên thư ký hấp tấp đi lại và trong văn phòng có những viên thư ký hồi hộp làm gãy những ngọn viết chì. ... Mời các bạn đón đọc Tầng Đầu Địa Ngục của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.