Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Ba Trà

Xuân Vũ là một cây bút sáng tác có sức mạnh vũ bão nhất, có vốn liếng đi và sống phong phú nhất. Sách anh bán chạy thuộc hàng đầu, tạo cho anh một ngôi vị cao chót vót và lộng lẫy nguy nga, làm vẻ vang cho tập đoàn các cây bút gốc Nam Kỳ từ trong nước, trước năm 1975 và các cây bút gốc Nam Kỳ ở bốn phương trời hải ngoại. Chưa hết đâu. Xuân Vũ còn moi móc tài liệu trong các xó xỉnh của lịch sử cận đại để viết quyển tiểu thuyết nửa sống thực nửa giả tưởng về cuộc đời một danh kỹ sắc nước hương trời chói rạng Hòn Ngọc Viễn Đông và lan ra khắp ba miền Nam Bắc Trung. Đó là cô Trần Ngọc Trà mà thời nhân gọi là cô Ba Trà, còn giới ăn chơi gọi cô là Yvette Trà và báo giới gọi là Huê Khôi Nam Kỳ, là Ngôi Sao Sài Gòn. Cô Ba Trà khi chui vào tác phẩm truyện dài của Xuân Vũ có một cuộc đời như sau: Má cô xuất thân từ một gia đình khiêm tốn và thanh bạch. Cha cô xuất thân gia đình khá giả, có lễ giáo. Nhưng cha cô hay ghen. Tình cờ ông ta bắt được thư rơi cho biết má cô ngoại tình với một kẻ khác mới sanh ra cô. Thế là vì ghen tương, ông ta thổ huyêt, rồi hành hạ vợ. Má cô không chịu nổi sự rẻ rúng và sự trừng phạt của chồng nên đưa cô về tá túc ở quê ngoại cô. Nhưng ông bà ngoại không chứa mẹ con cô. Túng thế, má cô gá duyên với ông Khách trú xấu xí, làm nghề mở tiệm hút thuộc phiện lậu. Vì thù hận người chồng cũ nên má cô ghét bỏ cô, đày xắc và hành hạ cô rồi bán cô cho người Chà-và để lấy 400 đồng qua trung gian mụ tú bà mà tác giả gọi là dì Hảo. Khi tên Ấn kiều về nước, dì Hảo dàn cảnh để gả cô cho con trai một nghiệp chủ Hoa kiều giàu sụ nhờ nghề buôn cá phơi khô. Nhưng người Tàu vốn ưa lấy vợ còn trinh, cho nên cậu con ông nghiệp chủ kia dù có mê say nhan sắc cô Ba Trà, nhưng vẫn bị sự mất trinh của cô trước khi về làm vợ hắn ám ảnh hoài hoài nên hắn đâm ra khinh khi cô và cặp xách với nhiều cô gái đẹp khác. Cô Ba Trà bỏ trốn và về tá túc nhà dì Hảo. Dì lập mưu lập kế để đưa cô vào nghề mãi dâm. Dì gạt gẫm cô để cô bị lính kiểm tục băt giam, rồi tống cô đi khám bịnh phong tình (đi lục xì) tại nhà thương Bạc Hà tức là bịnh viện bài trừ bệnh hoa liễu. Đó là cách rúng ép cô ký giấy giao kèo hành nghề mãi dâm, để biến cô thành con điếm có môn bài ( une fille publique cartée). Thời may, cô đuợc ông bác sĩ bệnh viện đứng tuổi cứu giúp cô thoát khói lưới bẫy của mụ đàn bà bất lương kia. Rồi cô trở thành tình nhân ông ta. Trong cuộc thi sắc đẹp tại Sài Gòn, ông ta có đưa cô đến xem. Ai ngờ cô gái dự thi trúng giải hoa hậu tên Lê thị Liễu lại xin nhường chức nữ hoàng các mỹ nhân cho cô. Ban giám khảo không biết tính sao vì lời đề nghị cô Liễu sái nguyên tắc. Rồi theo lời quan Biện Lý Thành Phố (người Pháp), họ chỉ bằng lòng tặng cho cô Ba Trà cái danh hiệu Ngôi Sao Sài Gòn. Tên tuổi cô bắt đầu lừng lẫy từ đó. Ông bác sĩ nhân từ kia lại muốn cô Ba được kết hôn với kẻ xứng lứa vừa đôi nên bằng lòng nhường cô lại cho người con trai ông giám đốc Đông Dương Ngân Hàng thuộc chi nhánh ở tỉnh Cần Thơ. Nhưng anh ta có vợ nên khi công việc bí mật đổ bể, hắn phải hủy hôn với cô. Cô lại được một họa sĩ nghèo say mê, chọn cô làm tình nhân kiêm người mẫu.Thế rồi tranh có vẽ chân dung cô đưọc trưng bày tai Đại Lục Lữ Quán do cựu danh kỹ Tư Hồng Mao cai quản. Cô Tư này còn gọi là Tư Ăng-lê vì theo lời đồn chồng của cô ta là người Anh-cát-lợi. Những bức tranh này bị cô Tư Hồng Mao làm trành làm tréo sang đoạt, rồi lại được Bạch Công Tử mua hết. Bạch Công Tử tên là Lê Công Phước mà thời nhân gọi là Phước Georges. Cậu vốn là con quan Đốc Phủ Sứ Lê Công Sủng ở Mỹ Tho vốn là đại điền chủ. Quan Đốc Phủ Sủng ngoài những bât động sản to tát khác, còn là chủ nhân Cù Lao Rồng, thuộc hạng tiền rừng bạc biển. Trong dịp tiếp đón quan Thống Đốc Nam Kỳ tại Đại Lục Lữ Quán có đại điền chủ Trần Trinh Trạch, đại thương gia Quách Đàm (người Tàu), thì cô Ba Trà xuất hiện ký tên tặng tranh cho quan Thống Đốc. Từ đó, tên tuổi cô Ba Trà vang lừng khắp Đông Dương. Cô được chuyền từ tay Bạch Công Tử rồi sang tay Hắc Công Tử và tay Sáu Ngọ... Hắc Công Tử tên là Trần Trinh Qui, con ông Hội Đồng Quản Hạt Trần Trinh Trạch. Ông Trạch là chủ nhân 20.000 mẫu ruộng lúa và 2.000 mẫu ruộng muối ở Bạc Liêu. Còn Sáu Ngọ là vua các sòng bạc ở Sài Gòn và ở các thành phố vùng phụ cận Sài Gòn có thể tặng nhiều lần cho cô Ba rất nhiều tiền, mỗi lần gồm cả bao to đựng giấy bạc. Ông ta còn tặng cho cô kim cương thuộc loại hảo hạng nữa . Cô Ba còn được ông Hoàng Ngự Đệ bên nước Xiêm La đề nghị cưới cô làm vợ, nhưng cô không ưng. Trong thời gian làm việc ở Đại Lục Lữ Quán, có cô danh kỹ Tư Nhị từ Nam Vang xuống xin làm em kết nghĩa với cô Ba. Lại thêm cô Quế Anh vừa đẹp vừa có học thức, cô đầm rặc Danielle vốn là em chồng cô Tư Hồng Mao cũng nhập bọn đàn em cô Ba. Chính Tư Nhị dạy cô Ba dùng ngãi nghệ để rù quến khách tìm hoa. Thế rồi trong chuyến theo Bạch Công Tử ra viếng Hà Nội, cô Ba gặp cô Đốc Sao nổi tiếng là nữ hoàng sắc đẹp trong giới hát ả đào ở khu phố Khâm Thiên. Nhưng trước đó không lâu, cô Đốc Sao giải nghệ để kết hôn với nhà báo Hoàng Tích Chù. Tuy ông ta không giàu có gì, nhưng có thể xây dựng cho đương sự một đời sống lứa đôi hạnh phúc, một cuộc hoàn lương vững vàng. Gặp cô Ba Trà, cô Đốc Sao khuyên cô nên tìm cách xa lánh cuộc đời bán dạng thuyền quyên để sau này tránh khỏi thảm cảnh bị khách tìm hoa bỏ rơi khi hương phai phấn lợt. Rồi cô Ba Trà gặp tên thầu khoán giàu sụ cưới cô làm "vợ hờ", xây cất cho cô một chốn ăn chơi đồ sộ và huy hoắc tên Nguyệt Tiên Cung. Nơi đây, cô tuyển lựa các giai nhân mỹ nữ để tiếp khách thuộc hạng tiền giàu nức vách đổ tường. Nhưng thét rồi cô đâm ra chán ngán cuọc sống dật lạc. Bỗng cô sực nhớ lời khuyên cô Đốc Sao nên cô tìm một người chồng công chức bậc trung, lương tháng 120 đồng. Chàng rất thành thật và chất phác. Đó là thầy Cò-mi họ Vương, người đã yêu cô từ khi chàng hãy còn là học sinh trường Pétrus Ký và đã từng chiêm ngưỡng hình cô chưng tại tiệm Saigon Photo. Thế là cô Bà Trà vì muốn che đậy cái dĩ không đẹp của cha mẹ mình và cái thân thế điếm nhục của mình nên tạo ra cuộc đám cưới có cha giả mẹ giả, mà bà mẹ không ai khác là dì Hảo. Dì này sau khi để cô Ba Trà vuột khỏi tay mình, bị chồng bội bạc, chịu cảnh nghèo vô gia cư, vô định sở nên túng thế đến Nguyệt Tiên Cung tìm cô Ba và được cô dung thứ, nuôi duỡng tử tế. Về sống với Vương ít lâu, cô Ba Trà mời mẹ và hai em chàng lên ở chung. Cô tìm được hạnh phúc trong cảnh làm vợ hiền, dâu thảo, và chị dâu tử tế... Nhưng ông cậu vợ phát giác được tung tích của cô Ba Trà và tung tích cha mẹ giả của cô nên ông ta xuối mẹ của Vương tìm cách cắt đứt duyên chồng vợ chồng của cô. Thế là cô ra đi, rồi trở về Nguyệt Tiên Cung với niềm tuyệt vọng. Cô dùng độc dược để quyên sinh. Đoạn cuối, cô được tỉnh dậy, nhưng tác giả không cho độc giả biết cô có đưộc cứu sống hay không? Hay là có phải đó là phút hồi dương ngắn ngủi để rồi sau đó cô khép mắt thả hồn vào giấc ngủ thiên thu? Tác giả để mặc cho độc giả đoán già đoán non ra sao cũng được Thật ra, trong tiểu sử của cô Ba Trà, thì cô được cứu sống để rồi rước khách, để rồi thua bạc nhiêu lần, rồi tự vận mấy phen nữa. Rồi có một lần, cô ăn bạc to. Lần này cô xuất tiền ra tìm một người chồng trẻ hơn cô rất nhiều tuổi, chẳng những đẹp trai mà lại có học thức, có tư cách. Anh ta tuổi Thìn, nên cụ Vương Hồng Sển trong cuốn "Sài Gòn Tả Pín Lù" gọi là Thìn để giấu tên thật của đuơng sự. Nhưng cuộc sống lứa đôi của cặp vợ già chồng trẻ không bền. Sau đó, Thìn qua Pháp du học. Còn cô Ba Trà gá duyên với ông Trưởng Tòa Trương Văn Tỷ cũng thuộc hạng Vương Khải, Thạch Sùng. Cô tiếp tục đánh bạc cho tới khi nhan sắc héo úa, phải bỏ nhà ông Tỷ và mai danh ở tích ở nơi cùng thôn tuyệt tái bí mật nào đó. Cho nên từ đó về sau, kẻ quen biết coi cô như bóng chim tăm cá, không tìm gặp được dấu tích của cô. *** CÔ BA TRÀ Xuân Vũ dtv-ebook.com Đôi Lời Tác Giả - Một buổi sáng anh Hứa Hoành đem đến cho tôi một bịch tọ Tôi tưởng là trà vì hai đứa thường uống trà để đàm đạo. Nhưng hôm nay cái bịch hơi to hơn thường ngày. Thì ra trong đó có trà và "TRÀ". Anh bảo:Tôi đem cho ông tài liệu Cô Ba Trà để ông viết tiểu thuyệt Khi anh về rồi, tôi dở ra xem. Chu choa mẹc ơi, lớp sách, lớp giấy đánh máy, lớp báo cắt. Có những tấm hình cũ và những ghi chú viết tay nữa. Cô Bà Trà ! Đó là một nhân vật. Nhiều nhà văn nhà báo tiền bối đã viết thành báo thành sách rồi. Bây giờ tới tôi nữa ư? Tôi bỏ ra mấy ngày trời để đọc chữ và xem hình. Ham quá. Nhưng viết ra thì khó thật. Anh Hứa Hoành đã từng gòp ý kiến rất hay, từng cho tôi cốt chuyện để viết vài ba cuốn tiểu thuyết. Và lần này nữa. Tôi kêu phone nói với anh : " Ông hại tôi rồi! " " Sao vậy? " " Viết sao nổi mà viết! " " Cố gắng đi chớ . Nếu dễ thì ai cần nhà Văn. Tôi còn nhiều tài liệu nữa . Tôi sẽ mang lên cho ông. " " Cô Ba Trà Huê Khôi Nam kỳ " của anh đang đăng báo mà anh còn bắt tôi viết tiểu thuyết để làm chi ? Hồ Trường An đã viết rồi, ảnh nói với tôi cô Mộc Cẩn (Hoa Dâm Bụt) trong truyện " Danh Kỷ " chính là Cô Ba . Anh ấy cũng khuyến khích tôi nên viết Cô Ba Trà. Thiệt vô cùng " nguy hiểm! " . Dù chối từ than thở thế nào Hứa Hoành cũng đôn đốc “ thừa thắng xông lên ! " Trước tấm chân tình của đồng nghiệp tôi đành phải liều mình xem sao. Cô Ba Trà là nhân vật có tên, tuổi hình dáng thật trong sinh hoạt Sài gòn vào thời kỳ 1920-1936 . Nhiều vị vào lứa tuổi thất thập cổ lai đều có gặp, có biết hoặc có quen với Cô Bạ Nói rõ ra, Cô Ba là một nhân vật lịch sử chớ không phải là nhân vật tiểu thuyết như các nhân vật hoàn toàn do các nhà văn tạo ra. Viết tiểu thuyết mà có sẵn nhân vật lịch sử có cái dễ mà cũng có cái khó. Dễ là nhân vật đã có tên tuổi, cá tính, hoạt động . Thí dụ như các nhân vật Quan Công, Trương Phi, Lưu Bị của La Quán Trung trong truyện Tam Quốc . Ở trong văn học của nước nhà có những Tiểu Thuyết lich sử Gia Long Tẩu Quốc, Gia Long Phục Quốc (của nhà văn nào tôi không còn nhớ tên). Tả Quân Lê Văn Duyệt của Ngô Tất Tố, Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất, Bánh Xe Khứ Quốc của Phan Trần Chức, v.v.. Những tiểu thuyết này đã đem lại cho người đời những hiểu biết về lịch sử cụ thể hơn là chính sử sách chép . Những nhân vật như Lê Văn Duyệt, Phan Đình Phùng, Cao Thắng sống lại như những con người thực. Ai không từng nghe danh Chúa Nguyễn Ánh, nhưng nếu không có bộ tiểu thuyết Gia Long Tẩu Quốc thì không được biết những huyền thoại Sấu Ba Kè ở Vĩnh Long, vụ van vái nước mặn trở thành nước ngọt cho quân sĩ uống ở Phú Quốc. Mấy ai biết việc Phan Đình Phùng ở khe núi Vụ Quang, việc Cao Thắng chế tạo được cây súng hoa? mai đã bắn bị thương lính Pháp …nếu không đọc Đào Trinh Nhất. Những hình tượng nhân vật lịch sử được khắc hoa. rõ nét nhất với ngòi bút của nhà viết tiểu thuyết – mà những sử gia – vì qui định của nghề nghiệp không thể làm nhu nhà viết tiểu thuyết . Một ví dụ khác nữa là tiểu thuyết " Tình cuối " (Last love) mô tả mối tình cuối cùng của Nã Phá Luân với cô gái của người giữ ngục ở Ile d Elbe trong lịch sử nước Pháp không thấy ghi chép. Ấy, vậy mà nó đã xảy ra trên thực tế đến mức nào đó để nhà văn nắm lấy tư liệu rồi viết nên tiểu thuyết, hoặc nó không hề xảy ra mà nhà tiểu thuyết vì lý do nào đó, đã tạo nên như thật một mối tình không có xảy ra. Nhưng dù sao cũng phải mô tả hình dạng, cá tính của Napoléon nhu người đời đã biết qua những bài lịch sử. Ông là một người rất đa tình, nhưng không thể là một người cao 1.70m mà là một ngưòoi tầm thước trung bình, có thói quen thọc tay phải vào áo gi-lê khi ngồi họp với các tướng v.v.. Muốn tạc lại Napoléon, nhà tiểu thuyết không thể viết trái ngược lại hoặc bỏ qua hình dáng, và cá tính của ông như người Pháp đã từng biết. Cô Ba Trà sinh năm 1906, cách đây gần 100 năm. Sắc đẹp của cô được các nhà văn nhà báo tiền bối mô tả như " Ngôi sao Sài Gòn " (Étoile de Saigon) hoặc " Huê Khôi Nam Kỳ ". Người tình của Cô Ba cũng là những nhân vật có thật như các đại điền chủ, đại công tử Cậu Tư Phước Georges biệt hiệu Bạch Công Tử con trai của quan Đốc Phủ Sứ Lê Công Sủng chủ nhân Cù Lao Rồng ở Mỹ Tho; cậu Ba Qui biệt hiệu Hắc Công Tử con trai của đại điền chủ Trần Trinh Bạch ở Bạc Liêu mà Thống Đốc Nam Kỳ gọi bằng Papa (Bố). Bên cạnh hai công tử kể trên còn có công tử Bích chủ nhà băng Đông Pháp (chi nhánh Cần Thơ) một người dám cho Cô Ba 70 000 đồng trong lúc lúa 2 cắc 1 gia. . Các đại trí thức như quan toà Trần Văn Tỷ, Thầy Kiện Dương Văn Giáo, Bác sĩ Lê Quang Trinh, Nguyễn Văn Áng, vua Cờ Bạc chủ các sòng bạc Sài Gòn : Sáu Ngọ v.v.. Đó cũng là những nhân vật lịch sử nhu Cô Ba đã tạo nên những giai thoại được người đời truyền tụng cho đến ngày nay. Sở dĩ tôi nói vòng vo Tam Quốc như vậy là để xin thưa lại một điều này : Viết về Cô Ba Trà DỄ mà KHÓ. Dễ là vì cốt tượng mỹ nhân đã có sẵn, chỉ cần tu bổ sơn phết lại là thành bức tượng. Nhưng làm sao cho bức tượng hoạt động, nói năng như người thật hoặc trở thành người thật ? Cũng không khó. Cái khó là mỹ nhân đó phải là Cô Ba Trà mà không được ai khác. Đọc sách xong, độc giả phải nghĩ đó là Cô Bà chứ không ai khác thì mới được . Người viết tiểu thuyết về Cô Ba- nói nôm na, giống như kẻ chèo đò giữa hai bờ sông, một bên là SỰ THẬT, một bên là BỊA ĐẶT (nói theo văn học là sáng tạo, hư cấu). Phải chèo cách nào cho người ngồi trên xuồng thấy cây cỏ bờ bên này lẫn đồng ruộng bờ bên kia. Muốn làm cho khách hài lòng kẻ chèo đò không được đụng bờ bên này hoặc chạm bờ bên kia sẽ bể mũi xuồng, mà phải luôn luôn chèo ở giữa dòng. Ngoài ra còn một điều khó nữa là : Sắc đẹp của Cô Ba đã trở thành niềm mơ ước của tất cả người Sài Gòn, Lục Tỉnh. Nhưng kẻ viết này không được ngắm dung nhan Cô khi Cô còn sanh tiền cũng không được xem ảnh Cô khi Cô qua đời. Ỏ ngoại quốc khó bề tìm ra một bức ảnh của Cộ Anh Hứa Hoành và tôi nữa có tìm gặp được những người cháu của Cậu Tư Bạch Công Tử nhưng đó là những người vượt biển nên không giữ được những hình ảnh lưu niệm của Cậu Tư chụp chung với Cô Bạ Thật vô cùng đáng tiếc. Chỉ có một tấm mờ mờ không thể nhận ra người trong ảnh . Cô Ba đẹp lắm, đẹp đổ quán xiêu đình nhưng cô giống Điêu Thuyền, Dương Qúi Phi, giống Cô Ba con thầy Thông Chánh (in hình nổi trên bánh Xà Bông Cô Ba) hay giống ai? Cho nên khó mà tả cho ra nét đẹp của Cô Bạ Vậy xin cứ xem Cô Ba là một mỹ nhân : Làn thu thủy nét Xuân Sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một…. (như Nguyễn Du tả nàng Kiều vậy) Tôi đọc gần một ngàn trang sách, báo, chữ in lớp cũ lớp mới, trên 200 trang đánh máy bản thảo của anh Hứa Hoành, xem những tấm ảnh về Sài gòn thì thấy bản thảo của anh Hứa Hoành có một đặc điểm mà các sách báo khác không có. Đó là tình hình chính trị đất nưóoc lúc bấy giòo có đám tang cụ Phan Châu Trinh, có Nguễn An Ninh bán báo Tiếng Chuông Rè (Cloche fêlée) có biểu tình đòi tự do, có những tờ báo tranh đấu v.v.. Đặc biệt hơn nữa có những giai thoại giữa các Thống Đốc, Công sứ Pháp và Cô Ba, có chuyến đi của Cô Ba ra Hà Nội. Cuộc đời của Cô Ba quả là một cuộc đời bảy nổi ba chìm lên voi xuống vịnh . Trong quãng thời gian 20 năm làm một người đàn bà đẹp, Cô đã có không biết bao nhiêu mối tình mà chính Cô cũng không nhớ hết, cuộc sống như thực như mơ, khi nghèo mạt rệp, khi lại cầm tiền vảy như trấu. Có lúc không xu teng dính túi, có khi cầm 150 ngàn đồng trong taỵ Còn người yêu thì từ các công tử, anh sinh viên đến ông hoàng xứ lạ Cô chia cho mỗi ngưòi một mảnh tình gặm chơi đỡ buồn, nhưng chớ có mong lấy Cô làm của riêng hoặc làm người yêu vĩnh viễn. Lập gia đình vài ba lần, nhưng rồi vỡ tan. Bao giờ cũng vậy, khi viết một quyển tiểu thuyết, người viết muốn nêu ra những ý tưởng của mình qua câu chuyện . Vậy viết " Cô Ba Trà " tôi muốn nói vấn đề gì ? - Trong con người, tiền và tình cái nào mạnh hơn ? - Con người sống, nhất thiết phải yêu ? - Yêu tất cả là chẳng yêu ai cả. Khi yêu, chỉ một ? - Tình chỉ đẹp khi có nhiều tiền? Tan vỡ khi hết tiền ? - Cứ sống theo sự thèm khát, bản năng bất cần suy tính. Thế mới là yêu ? - Sống làm vợ khắp người ta thú vị hơn nâng khăn sửa túi cho một người v.v.. Tất cả những “ ý tưởng ” đó đều tìm thấy trong cuộc đời của Cô Ba mà sau kh iđọc xong tất cả những tài liệu về Cô, tôi thật tình không biết " cái nào " là chính . Đời Cô Ba là một tấm gương chăng ? Gương gì ? Để cho ai soi ? Cô không lúc nào vắng người yêu. Cô vẫy tay một cái là có hàng lô chạy tới xin " yết kiến nữ hoàng " đông cho đến nỗi phải lấy số chờ đợi . Cô đi chơi một lúc với ba đại công tử. Chính cô cũng không biết mình yêu ai, hoặc không yêu ai cả . Đang hôn người này, người kia đến, bỏ ngưòoi này đi với người kia. Có tình, có tiền cũng chưa thoa? mãn. Cô đánh bài, khi ăn bạc vạn, khi thua phọc túi . Cô thản nhiên như không. Chẳng những công tử Việt mê cô mà quan cao cấp, nhà tư bản ngoại quốc cũng mê cô, cung phụng cô " muốn gì được nấy ". Tôi viết quyển tiểu thuyết này vì tôi ham viết vậy thôi, chớ chẳng có triết lý, ý tưởng, chủ đề gì cả. Như anh thợ săn thấy rừng có nhiều thú thì vác súng xông vô, như gã đầu bếp thấy miếng thịt ngon thì ngứa tay muốn xào nấu, như chàng phó may gặp lụa đẹp thì cắt áo cắt quần. Nhưng anh thợ săn có bắn được thú, gã đầu bếp có nấu được món ngon, chàng phó may có tạo được áo đẹp hay không thì không chắc! Huống chi trước tôi có những bậc tiền bối đã xông vào khu rừng ấy, đã làm nên những mâm cỗ, đã cắt tấm lụa đẹp kia rồi. Và đã được đón nhận nhiệt liệt. Nay lại đến tôi. Gẫm phận mình gối rơm mà dám chồm lên cao, cũng hổ thẹn và run tay lắm. Lâu nay tôi vẫn nghĩ viết văn là một sự phiêu lưu, phiêu lưu hơn tất cả mọi sự phiêu lưu trên đời. Vì, mấy ai đoán trước được kết quả của quyển sách mình ra sao khi nó chưa được đưa ra thử thách. Lắm khi sự dự đoán hoàn toàn trái nghịch. Nhưng thôi, hễ thích thì cứ viết. Xin " liều mình " cho mỹ nhân . Một lý do khác khiến tôi " liều mình " là vì Cô Ba được mệnh danh là Trà Hoa Nữ Việt Nam. Theo tôi đó là một cách giả định. Chứ Cô Ba về mọi mặt chẳng giống Trà Hoa Nữ của Pháp (La Dame aux Came lias của Ạ Dumas fils) một chút nào. Nếu Cô Ba giống Trà Hoa Nữ thì tôi đã không dám nghĩ tới việc viết về Cô. Trước khi đi vào lòng con " Kinh Lấp " của một địa danh có một thời được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông để tìm lại cánh hoa đã nằm yên dưới những cát bụi của thời gian, của thiên nhiên và của cuộc thế, tôi xin thắp nén hương lòng van vái hương hồn Cô Ba, Cậu Tu, Cậu Ba cùng các bậc công tử cùng thời với cô phò hộ cho kẻ hậu sinh đừng bỏ cuộc trong chuyến phiêu lưu mới này. Và xin các bậc lão thành và đồng nghiệp cho một lời chỉ giáo. (Một kẻ hậu sinh xứ Nam Kỳ) Xuân Vũ Mời các bạn đón đọc Cô Ba Trà của tác giả Xuân Vũ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giamilia Truyện Núi Đồi và Thảo Nguyên - Tchinguiz Aitmatov
Giamilia - Truyện Núi Đồi Và Thảo Nguyên là những câu chuyện về con người, núi đồi thảo nguyên của đất nước Kyrgystan. Những con người nơi làng mạc mộc mạc, giản dị, tâm hồn, tình cảm trong sáng, những mối tình xúc động tâm can quyện với những núi đồi thảo nguyên bát ngát vẽ nên những bức tranh tổng hòa đặc sắc, bức tranh của tâm hồn. Giamilia - Truyện Núi Đồi Và Thảo Nguyên gồm 4 truyện: Giamilia, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mắt lạc đà, Người thầy đầu tiên. Với giọng văn mượt mà, những trang viết đẹp như thơ, tập sách là sự lồng ghép những người nông dân chân chất, những núi đồi, thảo nguyên thành những câu truyện giàu càm xúc và có sức thu hút đến cùng cực đối với người đọc. Truyện Giamilia, một bức tranh tràn đầy cảm xúc của tình yêu đích thực và sự tự do. Ở một xứ xở mà mọi người xem “hạnh phúc của người đàn bà là sinh con đẻ cái, trong nhà dư dật”; Nhưng Giamilia - cô con dâu của một gia đình bề thế trong làng thì hoàn toàn khác biệt. Giamilia có tâm hồn mơ mộng, và sâu thẩm trong tâm hồn đó là khát vọng một tình yêu đích thực, yêu và được yêu. Đaniyar, đằng sau một anh thương binh lầm lì, lẻ loi, ít nói, kín đáo là một tâm hồn đang yêu say đắm, yêu đất nước, yêu cuộc sống. Và chỉ khi anh cất cao tiếng hát, tất cả những tình yêu đó mới được bộc lộ. Họ đến với nhau vì sự đồng điệu của hai tâm hồn, vì sự tự do của tình yêu, bỏ qua tất cả chuẩn mực, lề lối của làng, ràng buộc của thân phận. “Em yêu anh từ lâu lắm rồi. Ngay cả khi chưa biết anh, em đã yêu anh và chờ đợi anh, thế rồi anh đã tới, như thể anh biết em vẫn chờ anh”. *** Chyngyz Torekulovich Aytmatov (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông.  Sáng tác của Chingiz Aitmatov xuất hiện tại nước ta khá sớm. Cuối thập niên năm mươi thế kỷ 20, truyện Jamilya nổi tiếng của ông đã được dịch giả Nguyễn Văn Sỹ chuyển ngữ từ tiếng Pháp in trên tạp chí Văn Nghệ. Jamilya kể chuyện một phụ nữ Kyrgyz đã tự do đi theo tiếng gọi tình yêu, bất chấp những ràng buộc của lễ giáo và thứ đạo đức khô cằn, xơ cứng. Nhà thơ Pháp Louis Aragon đọc truyện xong đã khen đó là “truyện tình hay nhất thế giới”. Đến năm 1964, truyện đó cùng một số truyện khác trong tập sách được giải thưởng Lenin 1963 đã được dịch lại và dịch tiếp, và xuất bản thành tác phẩm Núi đồi và thảo nguyên. Đó là vào thời kỳ “hửng ấm” ở Liên Xô, khi những tác phẩm văn học nghệ thuật mang tính nhân văn, nhân đạo được đánh giá cao và phổ biến, cùng thời với các bộ phim như Đàn sếu bay qua, Bài ca người lính. Tác phẩm Núi đồi và thảo nguyên thổi một luồng gió mới lạ vào văn học Việt Nam giữa thế kỷ trước. Nhưng nó cũng đã phải hứng chịu những sự phê phán gay gắt xuất phát từ những quan niệm hẹp hòi, máy móc.   Phải hơn 20 năm sau, khi công cuộc cải tổ diễn ra ở Liên Xô, và ở Việt Nam sắp sửa diễn ra công cuộc đổi mới, Aitmatov mới xuất hiện trở lại cùng với nhiều tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học Xô Viết báo trước một xu thế biến chuyển của lịch sử. Một loạt tác phẩm của Aitmatov được dịch và xuất bản liên tiếp: Jamilya, Con tàu trắng, Vĩnh biệt Gunsary, Con chó khoang chạy quanh bờ biển, Sếu đầu mùa, Và một ngày dài hơn thế kỷ, Đoạn đầu đài... Và có một tình yêu, lòng say mê của độc giả Việt Nam dành cho nhà văn Kyrgyzstan đã biết từ núi đồi quê hương mình nói lên những vấn đề chung của nhân loại, của con người.   Những ai đã đọc qua văn Aitmatov sẽ không thể nào quên được hình bóng “người thầy đầu tiên” với những rung động sâu sắc, và cả lòng ân hận thấm thía. Bộ phim dựng theo truyện này đã gây thành công lớn. Xuyên suốt toàn bộ sáng tác của Aitmatov là lòng yêu thương con người, tôn trọng nhân phẩm con người, là sự phấn đấu cho con người được sống trong một xã hội nhân ái và hài hòa với tự nhiên. Văn chương với ông phải giữ được sự trong trẻo của tâm hồn. Nhà văn Nga Viktor Yerofeyev nói: “Mặc dù tràn ngập các phần thưởng, huân huy chương và sự vinh danh của nhà nước, nhưng ông vẫn giữ được sự trung thực và liêm khiết. Ông là điển hình của giới trí thức Nga ở thời kỳ khó khăn, trì trệ, khi văn học khó có hy vọng giữ được sự trong trắng của mình”.   Mời các bạn đón đọc Giamilia Truyện Núi Đồi và Thảo Nguyên của tác giả Tchinguiz Aitmatov.
Đoạn Đầu Đài - Tchinguiz Aitmatov
Tiểu thuyết gia Kyrgyz - người khiến cả thế giới biết đến đất nước Trung Á nhỏ bé, lắm núi nhiều đồi của mình qua những tác phẩm về cuộc sống thường nhật dưới thời Xô viết. Aitmatov bắt đầu nổi tiếng từ năm 1958 với cuốn tiểu thuyết Jamilya. Lấy bối cảnh Thế chiến II, tác phẩm là câu chuyện về một phụ nữ trẻ người Kyrgyz dám bỏ chồng để chạy theo một cựu quân nhân. Jamilya từng làm dấy lên những cuộc tranh luận tại cộng đồng Hồi giáo cũng như ở các nước tồn tại nam quyền về việc liệu một phụ nữ có nên bỏ chồng vì một người đàn ông khác. Tuy nhiên, nhà thơ Pháp nổi tiếng Louis Aragon ca ngợi, Jamilya là “thiên tình sử hay nhất mọi thời đại”. Trong những sáng tác khác, Aitmatov miêu tả cuộc sống con người dưới thời Xô viết. Ông đặc biệt chú trọng đến những thân phận từng bước bị biến thành nô lệ, bị nô dịch hóa. Aitmatov là nhà văn quyết liệt bảo vệ sự tồn tại và phát triển độc lập của nền văn hóa và ngôn ngữ ở những quốc gia không nói tiếng Nga trong khối Xô viết. Trong cuốn Một ngày dài hơn thế kỷ, nhà văn xây dựng một nhân vật giết chết mẹ mình vì không còn nhớ ra bà. Nhiều sáng tác của Aitmatov đã được dựng thành phim. Trong đó Người thầy đầu tiên - bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của ông, dưới bàn tay của đạo diễn Nga nổi tiếng Andrei Konchalovski - đã trở thành một tác phẩm điện ảnh lay động lòng người tại nhiều quốc gia trên thế giới. Sau năm 1991, tiểu thuyết của Aitmatov được dịch và phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Nhà văn có thêm hàng triệu độc giả, đặc biệt là tại Đức. Là một trong số hiếm hoi những người Kyrgyz có danh tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia 5 triệu dân của mình, Aitmatov là nhân vật có ảnh hưởng đặc biệt trong đời sống chính trị Kyrgyzstan. Sự ủng hộ của nhà văn dành cho Askar Akayev đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Akayev trở thành Tổng thống Kyrgyzstan nhiệm kỳ 1990-2005. Chingiz Torekulovich Aitmatov sinh ngày 12/12/1928 tại làng Sheker, vùng tây bắc Kyrgyzstan. Năm 1935, gia đình ông chuyển đến Matxcơva, Nga. 3 năm sau, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Trong văn nghiệp của mình, Aitmatov từng đoạt giải thưởng Lênin (1963) và 3 giải thưởng Nhà nước (1968, 1977, 1983). Tuy đoạt rất nhiều giải thưởng và những vinh quang văn học nhưng trước sau, Aitmatov, theo đánh giá của nhà văn Nga Viktor Yerofeyev, vẫn là một con người “trung thực, khiêm nhường và liêm khiết”. *** Khi Chinghiz 10 tuổi, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Tiểu thuyết Đoạn đầu đài là tác phẩm lớn cuối cùng, cũng là tác phẩm tổng kết kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật của Aitmatov. Đoạn đầu đài chứa đựng những nét đặc biệt trong tư duy sáng tạo của nhà văn. Nổi bật lên trong tác phẩm là kiểu tư duy huyền thoại, kiểu cốt truyện huyền thoại tạo nên tính chất đa nghĩa, mơ hồ cho tác phẩm. Thực ra, cốt truyện huyền thoại, kiểu tư duy huyền thoại, sự đậm đặc yếu tố huyền thoại đã thể hiện ngay trong những tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của ông trước đó như ở Cánh đồng mẹ, Con chó khoang chạy ven bờ biển, Vĩnh biệt Gunxarư, Và một ngày dài hơn thế kỉ. Tuy nhiên, ở Đoạn đầu đài, có sự hội tụ, tập trung cao không chỉ của tài năng và kinh nghiệm sáng tạo, mà còn của tư tưởng, trí tuệ của nhà văn. Vấn đề huyền thoại, do đó, cũng được kết tinh lại trong cuốn tiểu thuyết này. *** Sau một ngày ấm áp ngắn ngủi, nhẹ nhàng như hơi thở trẻ em, thời tiết trên những sườn núi quay về phía mặt trời chẳng mấy chốc đã thay đổi lúc nào không biết. Gió bắt đầu nổi lên từ các tảng băng trôi và bóng tối sớm sủa, dày đặc, thấm sâu vào khắp nơi, đã bắt đầu len lỏi vào các khe hẻm, đem theo màu xám lạnh lẽo của đêm tuyết sắp đến. Tuyết thật nhiều khắp xung quanh, trên suốt dãy núi vùng ven hồ Ixức-Cun, ngọn núi nào cũng phủ đầy những tuyết. Mới hai ngày trước đây, một trận bão tuyết đã tràn qua những nơi này chẳng khác gì một đám cháy bỗng bùng lên dữ dội do sự đỏng đảnh của những lực lượng thiên nhiên muốn gì làm nấy. Quang cảnh diễn ra thật khủng khiếp. Núi non biến mất, bầu trời biến mất, toàn bộ thế giới nhìn thấy được trước đây cũng biến mất trong cảnh bão tuyết mù mịt. Sau đó mọi vật lặng đi và trời trở nên quang đãng. Từ khi ấy, cùng với trận bão tuyết đã dịu đi, những ngọn núi bị các khối tuyết khổng lồ làm tê liệt, đứng sừng sững trong không khí tĩnh mịch lạnh cóng, tê buốt và tách khỏi mọi vật trên đời. Chỉ có tiếng ầm ầm của chiếc máy bay lên thẳng cỡ lớn là vang lên diết dóng mỗi lúc một to, mỗi lúc một mạnh. Vào giờ phút hoàng hôn ấy, chiếc máy bay lên thẳng này bay lần theo lũng sâu Udun-Sát về phía đèo Ala-Mônguy phủ kín băng, bị những đám mây xoắn ốc che mờ mờ như khói tỏa trên chốn trời cao lộng gió. Tiếng ầm ầm mỗi phút một vang to hơn cứ lớn lên, cứ tiến lại gần, và cuối cùng thì vang lên đầy đắc thắng. Nó đã hoàn toàn chế ngự được khoảng không và vang động mãnh liệt, đầy uy lực, bên trên những dãy núi, những đỉnh cao, những khối băng cao tít mà không một thứ gì với tới nổi, ngoài âm thanh và ánh sáng. Được tăng cường thêm bởi vô số tiếng vọng nối tiếp nhau giữa các núi đó và các khe hẻm, tiếng ầm ầm trên đầu ấy cứ tràn đến mãi với một sức mạnh ghê gớm, dữ dội, hình như chỉ một chút nữa thôi là sẽ xảy ra một cái gì đó khủng khiếp như lúc động đất. Vào một thời điểm kịch liệt nào đó quả có xảy ra như vậy thật. Tại một sườn dốc đá dựng đứng phơi mình ra trước gió và nằm trên hướng bay của chiếc máy bay lên thẳng kia, một khối đá không lớn lắm bị sóng âm thanh mãnh liệt làm lung lay, trượt đi và bỗng dừng sững lại như dòng máu đang chảy chợt đông lại bởi những câu phù chú. Nhưng nền đất không chắc chắn chỉ cần cái hích đó thôi là đủ. Một vài tảng đá nặng trịch rời khỏi triền dốc, lăn xuống dưới, mỗi lúc một chạy tứ tung, cuốn theo sỏi đá, làm bụi bay mù lên, và khi đến chân dốc thì băng như đạn pháo qua những bụi craxnôtan và hoàng liên gai, đã xuyên thẳng các đống tuyết, lan đến tận hang sói của một gia đình sói xám nằm ở đây, dưới chân núi đá, trong khe hẻm ẩn sau các bụi cây rậm rạp, cạnh một con suối nhỏ ấm áp nay đã đóng băng tới một nửa. Con sói cái Acbara nhảy phắt sang bên để tránh sỏi đá lăn từ trên xuống và tuyết rơi lả tả, rồi lùi vào bóng tối của khe, co mình lại như lò xo, dựng bờm lên và nhìn phía trước bằng cặp mắt sáng quắc, đỏ rực một cách man rợ trong bóng tối mờ mờ, sẵn sàng giao chiến vào bất kì lúc nào. Nhưng nỗi lo sợ của nó là thừa. Ngoài kia, ngoài thảo nguyên lồ lộ thì đáng sợ thật, khi chẳng biết trốn đâu cho thoát chiếc máy bay lên thẳng cứ bám riết lấy mà săn đuổi, mà theo sát gót, với tiếng cánh quạt rú rít làm inh tai nhức óc, với những loạt đạt tiểu liên làm kinh hoàng; khi trên khắp thế giới không có một cách gì tránh nổi chiếc máy bay lên thẳng; khi không có một khe hẻm nào có thể giấu đi chiếc đầu sói hoảng loạn – mặt đất đâu có chịu nứt ra để tạo nơi trú ẩn cho những kẻ bị săn đuổi. Còn trong núi thì khác. Ở đây bao giờ cũng có thể chạy trốn, bao giờ cũng tìm được chỗ ẩn náu để chờ cho mối đe dọa qua đi. Ở đây, chiếc máy bay lên thẳng không đáng sợ, núi non mới đáng sợ cho máy bay lên thẳng. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi là phi lý, nhất là nỗi sợ hãi đã quen thuộc, đã nếm trải. Khi chiếc máy bay lên thẳng lại gần, con sói kêu lên ăng ẳng, thu tròn lại, rụt đầu vào, vậy mà thần kinh của nó vẫn không chịu nổi, vẫn như bị đứt phựt. Nó rú lên dữ dội, bị nỗi sợ hãi bất lực, mù quáng xâm chiếm lấy, nó quằn quại bò sát bụng ra cửa hang, răng lập cập va vào nhau đầy giận dữ và tuyệt vọng, sẵn sàng giao chiến ngay tại đây, dường như hy vọng là sẽ tống cổ được con quái vật bằng sắt đang bay ầm ầm bên trên khe hẻm, con quái vật mà khi xuất hiện đã làm sỏi đá cũng phải lăn rào rào từ trên xuống như khi động đất.. Nghe thấy tiếng gào rú kinh hoàng của Acbara, con sói đực là Tastrainar thò đầu vào hang. Tastrainar nghĩa là ‘máy nghiền đá’, biệt danh đó là do những người chăn cừu địa phương đặt cho nó vì nó có đôi hàm cực khỏe. Từ khi vợ nó trở nên nặng nề, nó phần lớn không ở trong hang mà ở một nơi hẻo lánh giữa các bụi cây. Nhưng nay nó bò vào chỗ sói vợ nằm và gừ gừ dịu dàng như muốn lấy thân mình che chở cho vợ khỏi cơn nguy hiểm. Nép vào sói chồng mỗi lúc một sát hơn, con sói cái vẫn tiếp tục kêu ăng ẳng, ai oán kêu gọi hoặc là ông Trời bất công, hoặc là một kẻ nào đó không biết là ai, hoặc là số phận bất hạnh của mình. Toàn thân nó còn run rẩy một hồi lâu nữa. Nó không thể tự chủ lại được ngay cả khi chiếc máy bay lên thẳng đã biến mất sau băng hà Ala-Mônguy đồ sộ và tiếng ầm ầm đã tắt hẳn sau các đám mây dày. Và trong không khí lặng lẽ đột nhiên tràn ngập vùng núi non này, một không khí vắng lặng tựa như sụp đổ của cảnh tịch mịch trong vũ trụ, con sói cái bỗng cảm thấy rõ hơn trong bụng nó. Hiện tượng tương tự cũng đã xả ra trong thời kì đầu cuộc đời săn bắt của Acbara, khi nó nhảy xổ ra giết chết một con thỏ cái lớn. Trong bụng con thỏ cái này, nó cũng cảm thấy những cựa quậy như vậy của những sinh vật vô hình nào đó mà mắt không thấy được. Điều lạ lùng ấy khiến con sói cái non trẻ và hiếu kỳ vừa ngạc nhiên lại vừa tò mò. Nó kinh ngạc dỏng tai lên, ngờ vực nhìn con mồi đã chết. Và nó thấy kỳ lạ và khó hiểu đến nỗi thậm chí, nó định đùa nghịch với những sinh vật vô hình kia, hệt như mèo chơi trò vờn nghịch với con chuột đã dở sống dở chết. Giờ đây, chính nó cũng cảm thấy trong bụng mình một thứ gì đó nằng nặng và sống động hệt như thế. Đó là dấu hiệu của những sinh vật sẽ chào đời khoảng gần hai tuần nữa, nếu các hoàn cảnh trùng hợp một cách thuận lợi. Nhưng hiện nay thì những con vật non nớt chưa ra đời ấy vẫn gắn bó khăng khít với lòng mẹ, vẫn là một phần của cơ thể sói mẹ, và bởi vậy, trong tiềm thức mơ hồ đang hình thành của chúng, chúng cũng trải qua cơn kinh hoàng và tuyệt vọng như chính sói mẹ. Đó là sự tiếp xúc gián tiếp đầu tiên của chúng với thế giới bên ngoài, với hiện thực thù nghịch đang chờ đợi chúng. Do đó, chúng bắt đầu cựa quậy trong bụng mẹ để đáp lại những nỗi đau khổ của mẹ chúng. Chúng cũng cảm thấy khiếp sợ và sự khiếp sợ này là do máu mẹ truyền sang chúng. Trong cặp sói này thì Acbara quyết định mọi việc. Nó có quyền đề xướng các cuộc săn bắt, còn Tastrainar là kẻ thừa hành trung thành, tin cậy, thực thi không mệt mỏi và không điều kiện mọi ý muốn của sói vợ. Mối quan hệ đó không bao giờ bị vi phạm. Chỉ có một lần đã xảy ra một trường hợp bất ngờ, lạ lùng, khi sói đực biến mất tới tận rạng sáng và trở về với mùi lạ của một con sói cái khác, thứ mùi ghê tởm của thời kỳ động đực trơ trẽn luôn khêu gợi và vẫy gọi con đực từ một nơi cách xa hàng chục dặm. Thứ mùi đó khiến Acbara giận điên lên. Nó lập tức xua đuổi sói chồng đi và bất ngờ cắm phập răng nanh sâu vào vai sói chồng, buộc sói chồng phải đi khập khiễng mấy ngày liền để trừng phạt. Nó không cho sói chồng lại gần và dù con sói đực ngốc nghếch kia có tru lên thế nào chăng nữa cũng không một lần đáp lại, không một lần chịu dung hòa, dường như Tastrainar không còn là chồng nó nữa, không còn tồn tại đối với nó nữa. Nếu như Tastrainar lại dám mon men đến gần để mua chuộc và lấy lòng nó thì chắc hẳn nó sẽ đọ sức thật sự. Không phải ngẫu nhiên mà nó là cái đầu, còn Tastrainar chỉ là tay chân trong cặp sói xám từ nơi khác đến này. Cái ngày xáo động khủng khiếp với con sói cái Acbara đang tàn dần như vậy. Do bản năng không thể tiêu diệt nổi của tình mẹ, nó không lo lắng cho bản thân nó bao nhiêu mà chủ yếu là lo lắng cho đàn con sắp sửa ra đời tại hang này. Cũng chính vì đàn con tương lai ấy, hai vợ chồng nó đã mất công tìm kiếm và xây dựng ở đây, trong khe sâu dưới vòm ngọn núi đá um tùm cây cối và phủ đầy những cây đổ cùng sỏi đá tràn xuống, một tổ ấm của gia đình sói để có chỗ sinh nở và trú ẩn. Mới một năm trước đây, vùng này không hề hay biết gì về loại sói bờm xám. Một lần chúng có xuất hiện, nhưng chúng vẫn tiếp tục sống biệt lập. Lúc đầu, giống sói đến từ nơi khác đến này tránh va chạm với giống sói địa phương, chúng lang thang phần lớn là tại các khu vực trung lập của các lãnh địa do giống sói địa phương cai quản. Chúng sống vất vưởng, kiếm gì ăn nấy, và trong khi tìm mồi, chúng thậm chí lấn ra các cánh đồng, tới những vùng đất thấp có người ở, nhưng vẫn không chịu quan hệ với các bầy sói trong vùng. Tính cách quá độc lập của con sói cái mắt xanh Acbara không cho phép nó gia nhập các bầy khác để rơi vào tình trạng phụ thuộc. Hơn nữa, Acbara và Tastrainar lại từ những nơi khác đến đây. Đối với con mắt giàu kinh nghiệm thì ngay cả về vẻ ngoài chúng cũng khác với giống sói địa phương. Trước hết là lớp lông cổ rậm rạp khuôn chặt lấy hai vai tựa như chiếc áo choàng lộng lẫy màu xám bạc, chạy suốt từ dưới ngực cho đến u vai. Lớp lông này của chúng thì sáng màu, đặc trưng cho lũ sói vùng thảo nguyên. Cả về tầm vóc cũng vậy, giống sói Ăcgiala, tức là giống sói bờm xám, bao giờ cũng to lớn hơn giống sói bình thường ở cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun. Còn nếu như một người nào đó trông thấy con sói Acbara ở gần thì nhất định phải sửng sốt trước đôi mắt xanh trong veo của nó – một trường hợp hiếm hoi và có thể độc đáo duy nhất. Nó được những người chăn cừu địa phương đặt cho biệt danh là Acđalư, có nghĩa là ‘u vai trắng’, nhưng chẳng bao lâu sau, do những qui luật biến đổi của ngôn ngữ, nó biến thành Abarư rồi Acbara, có nghĩa là ‘vĩ đại’, tuy nhiên không một ai biết rằng trong việc đó có dấu hiệu của thiên mệnh. Giờ đây, sau khi Acbara đã yên tâm ít nhiều và sưởi ấm bên thân hình to lớn của Tastrainar, nó cảm thấy biết ơn sói chồng vì đã chia sẻ nỗi sợ hãi của nó và do đó đã khiến nó thấy tự tin trở lại, vì vậy nó không cưỡng lại những cử chỉ vuốt ve kiên nhẫn của sói chồng. Hơn nữa, để đáp lại những cử chỉ ấy, nó hai lần liếm vào môi sói chồng và trong khi cố chế ngự nỗi kinh hoàng vẫn còn thỉnh thoảng vẫn làm nó run bần bật, nó hướng mọi ý nghĩ vào bản thân. Nó lắng nghe lũ sói nhỏ trong thai động đậy một cách khó hiểu và lo ngại. Nó bằng lòng với những gì hiện có. Nó bằng lòng với cả hang sói, cả với mùa đông giá lạnh trong núi, cả với ban đêm rét cóng đang từ từ đến gần. Khi lắng nghe những biến chuyển xảy ra ngoai ý muốn trong phần bụng đã sống động của nó, con sói cái Acbara cảm thấy xúc động. Tim nó đập nhanh hơn và tràn dâng lên lòng dũng cảm, tràn dâng mối quyết tâm nhất định sẽ bảo vệ, sẽ che chở những sinh vật nhỏ nhoi mà nó đang ấp ủ trong bụng. Giờ đây, nó sẽ không do dự giao chiến với bất kỳ kẻ nào. Trong người nó, bản năng duy trì nòi giống – một bản năng vĩ đại của tự nhiên – bắt đầu lên tiếng. Và ngay lúc đó, một cảm giác thương mến trào lên trong lòng nó như một làn sóng ấm nóng, nó cảm thấy nhu cầu được vuốt ve, được sưởi ấm những đứa con tương lai, truyền cho chúng dòng sữa của mình y hệt như chúng đã nằm bên cạnh. Đó chính là mối tiên cảm hạnh phúc. Nó lim dim mắt, rên rỉ vì sung sướng, vì chờ đợi sữa dồn lên hai hàng vú phồng căng đến mức đỏ lên. Nó mệt mỏi và chậm rãi duỗi thẳng người ra trong chừng mực khuôn khổ hang cho phép. Cảm thấy đã yên tâm hẳn, nó lại định đến cạnh con sói chồng Tastrainar bờm xám của nó. Tastrainar lực lưỡng, bộ lông ấm áp, đàn hồi và rộng. Tuy luôn luôn cau có, Tastrainar cũng thấy được những gì mà con sói cái sắp làm mẹ này đang cảm thấy. Trực giác giúp nó hiểu được những gì đang diễn ra trong bụng sói vợ, và có lẽ nó cũng xúc động. Vểnh một bên tai, Tastrainar hơi ngửng cái đầu nặng nề và kềnh càng lên. Trong ánh mờ tối của đôi đồng tử lạnh lẽo giữa cặp mắt đen thẫm trũng sâu vào trong, có thoáng lướt qua một vết đen nào đó, một linh cảm dễ chịu mơ hồ nào đó. Nó dè dặt kêu gừ gừ, khịt khịt mũi và rên ư ử, biểu lộ tâm trạng hồ hởi của mình, tỏ ý sẵn sàng phục tùng không điều kiện con sói vợ mắt xanh và che chở cho vợ. Rồi nó bắt đầu ân cần và âu yếm đưa cái lưỡi to ẩm ướt và ấm áp liếm đầu sói vợ. Acbara yêu thích lưỡi sói chồng vào những lúc sói chồng vuốt ve âu yếm nó, người run lên vì nôn nóng, lưỡi nóng bừng vì máu hừng hực dồn lên, trở nên chắc nịch, lanh lẹn và mạnh mẽ như rắn. Vào những lúc ấy, nó hết sức thích thú tuy lúc đầu cố làm ra vẻ bình thản, thờ ơ. Nó cũng thích thú như vậy cả vào những giờ phút êm đềm hạnh phúc sau khi ăn uống no nê, khi lưỡi sói chồng vừa mềm mại vừa ẩm ướt vuốt ve nó. Người phán xét cao nhất là thời gian. Dần dần, hai con sói bờm xám từ nơi khác đến đã có thể tự bảo vệ mình. Trong vô số những cuộc giao chiến dữ dội, chúng đã giành được phần đất trên cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun và giờ đây chúng đã trở thành chủ nhân. Lũ sói địa phương không còn dám xâm phạm vào lãnh địa của chúng nữa. Có thể nói rằng, vậy là cuộc sống của những con sói bờm xám mới xuất hiện đã ổn định thành công trên đất Ixức-Cun. Nhưng trước đó là cả một giai đoạn lịch sử. Nếu như thú vật có thể nhớ lại quá khứ thì Acbara – một con sói rất sáng ý và cảm nhận tinh tế – sẽ lại nếm trải tất cả những gì mà đôi khi nó chợt nhớ lại, chua xót đến mức chảy nước mắt và rền rĩ vì đau đớn. Trong thế giới đã mất ấy, trong đồng cỏ Môiuncumư mênh mông xa xôi ấy, đã từng diễn ra một cuộc sống đầy những chuyến săn mồi rộng lớn với việc đuổi bắt liên miên những bầy sơn dương Môiuncumư bao la. Từ thời cổ đại, giống sơn dương Xaigắc đã sinh sống trên những vùng thảo nguyên lúc nào cũng rậm rạp loại cây muối đen chịu được tiết trời khô khốc ấy, và trong số những loài móng kép thì chúng thuộc loài lâu đời nhất, lâu đời như chính thời gian vậy. Những bầy súc vật mũi khoằm này chạy không biết mệt,. Lỗ mũi to tướng của chúng dồn không khí qua phổi với một mức độ mãnh liệt hệt như cá voi dồn những dòng nước đại dương qua bộ lược răng, và do đó chúng được trời phú cho khả năng chạy liên tục suốt từ sáng đến tối. Khi chúng bắt đầu chạy vì bị kẻ thù vĩnh viễn và lúc nào cũng bám riết lấy chúng là chó sói săn đuổi; khi một bầy này kinh hoàng khiến bầy bên cạnh, đôi khi cả bầy thứ ba thứ tư nữa, cũng kinh hoàng theo; khi cuộc chạy trốn đồng loạt này lôi cuốn cả những bầy lớn nhỏ khác gặp trên đường chạy; khi chúng lướt vun vút trên thảo nguyên Môiuncumư, qua các gò đồi, các bình nguyên và các bãi cát, chẳng khác gì cơn đại hồng thủy đổ sụp xuống trái đất… thì mặt đất tựa như chạy ngược về phía sau và kêu rào rào như khi mưa đá vào lúc mùa hè. Không khí lúc đó tràn ngập hơi thở quay cuồng của chuyển động, tràn ngập bụi đá và những tia lửa bắn tóe ra từ dưới móng, tràn ngập mùi mồ hôi của bầy súc vật – mùi đua tranh điên cuồng không phải giành lấy cái sống mà là giành lấy cái chết. Và lũ sói chạy tản ra, bám sát gót, cố xua bầy xaigắc vào những ổ mai phục, nơi nằm chờ chúng giữa những bụi cây muối đen là những con sói lão luyện, ranh năng nhọn hoắt, sẵn sàng từ chỗ mai phục nhảy phắt lên gáy con mồi đang lao vùn vụt, ngã lộn nhào cùng với nó, cắn đứt cổ làm máu phụt ra lênh láng rồi lại lao vào cuộc săn đuổi. Nhưng lũ Xaigắc không hiểu sao thường nhận ra những nơi sói mai phục và kịp né tránh những nơi ấy. Và cuộc săn đuối lại bắt đầu một vòng mới với tốc độ và mức dữ dội còn lớn hơn nữa. Tất cả những con thú ấy, cả những con bị săn đuổi và những con săn đuổi – một mắt xích của quá trình tồn tại nghiệt ngã – đều dốc hết sức vào cuộc chạy thi, khiến máu dường như sôi lên chẳng khác gì trong cơn hấp hối, để sống và để sống sót. Và có lẽ chỉ Chúa Trời mới có thể dừng cả hai bầy thú lại, bởi vì đây là chuyện sống chết của những con vật khao khát sống khỏe mạnh. Những con sói nào không chịu đựng nổi tốc độ điên cuồng như vậy và những con sói nào không phải sinh ra để ganh đua trong cuộc đấu tranh sinh tồn – trong cuộc chạy đua sinh tồn – đều ngã lăn ra và trút hơi thở cuối cùng trong lớp bụi bốc lên của cuộc săn đuổi đang cuốn xa dần như cơn bão. Nếu chúng còn sống chăng nữa thì chúng cũng phải bỏ đến những miền khác, nơi chúng tha hồ hoành hành giữa những bầy cừu hiền lành, hiền lành đến mức thậm chí không tìm cách chạy trốn nữa. Nhưng quả thật, những nơi ấy có mối nguy hiểm riêng. Mối nguy hiểm đáng sợ nhất trong số tất cả những mối nguy hiểm có thể xảy ra ở đấy: bên cạnh đàn cừu là những con người, những kẻ vừa là Chúa Trời vừa là nô lệ của bầy cừu, những kẻ muốn sống nhưng lại không cho loài khác sống, đặc biệt là những ai không phụ thuộc vào họ và thích được tự do. Con người! Con người! Họ thật ghê gớm như Chúa Trời vậy! Họ cũng săn bắt lũ xaigắc của đồng cỏ Môiuncumư mênh mông. Trước kia, họ xuất hiện trên mình ngựa, mặc quần áo da thú, trang bị bằng cung tên. Sau này họ xuất hiện với những khẩu súng nổ vang, vừa hò hét vừa phi ngựa hết nơi này đến nơi nọ, – còn lũ xaigắc thì chạy nườm nượp hết phía này đến phía khác – tha hồ mà lùng chúng trong những cánh rừng cây muối đen. Nhưng rồi, đến lúc những con-người-Chúa-Trời ấy bắt đầu tổ chức những cuộc săn lùng bằng xe ôtô nhằm làm cho chúng phải kiệt sức vì mệt mỏi, hệt như lũ sói vẫn làm, lũ xaigắc quỵ ngã và họ vừa ngồi trên xe vừa bắn giết. Tiếp đấy, họ sử dụng máy bay lên thẳng. Lúc đầu, họ từ trên trời quan sát các bầy xaigắc trên thảo nguyên rồi bao vây chúng trong những toạ độ đã định sẵn. Những tay xạ thủ dưới mặt đất thì phóng vun vút khắp những vùng đất bằng với tốc độ một trăm kilômet giờ hoặc hơn thế nữa để lũ xaigắc không kịp ẩn nấp. Máy bay lên thẳng thì từ trên cao hiệu chỉnh mục tiêu và hướng săn đuổi. Ôtô, máy bay lên thẳng, súng trường cao tốc… – và thế là cuộc sống ở đồng cỏ Môiuncumư bị lộn nhào hết lên. Con sói cái Acbara mắt xanh còn chưa thay lông và con sói chồng tương lai nó là Tastrainar mới nhỉnh hơn nó một chút, thì chúng đã đến lúc phải làm quen với những cuộc săn đuổi lớn. Lúc đầu, chúng không theo kịp, chúng xé xác những con sơn dương đã gục ngã và giết chết những con nào chưa chết hẳn. Nhưng dần dần, về sức lực và sức chịu đựng chúng đã trội hơn nhiều con sói từng trải, nhất là những con sói đang về già. Nếu như mọi việc đều diễn ra theo qui luật tự nhiên thì chỉ ít lâu nữa là chúng sẽ đứng đầu cả bầy sói. Nhưng tình hình lại ngoặt theo chiều hướng khác… Năm này không giống năm khác. Vào mùa xuân năm đó, các bầy xaigắc sinh đẻ đặc biệt nhiều, không ít con cái còn sinh đôi nữa, bởi vì mùa thu trước, trong thời gian săn đuổi, lớp cỏ khô đã hơi lên xanh lại sau một vài trận mưa tầm tã vào lúc tiết trời ấm áp. Thức ăn thừa thãi, do đó tỉ lệ sinh đẻ tăng lên. Trong thời gian sinh đẻ, lũ xaigắc ngay từ đầu xuân đã đi đến những vùng cát lớn không có tuyết ở mãi sâu trong đồng cỏ Môiuncumư, nơi chó sói không dễ dàng tới được. Mà săn đuổi lũ Xaigắc trên các cồn cát là một việc vô vọng. Trên các cồn cát thì chó sói không thể đuổi kịp lũ xaigắc được. Để bù lại, chó sói thường sống no đủ vào mùa thu và mùa đông. Khi việc di cư theo mùa của động vật khiến những vùng nửa sa mạc và thảo nguyên đầy ắp những bầy xaigắc đông vô kể, đó là lúc Chúa hậu đãi loài sói. Còn về mùa hè, đặc biệt vào thời tiết nóng nực, chó sói thường không ưa động chạm đến xaigắc bởi vì đã có đủ một loại con mồi khác, dễ săn đuổi hơn, là ngân thử. Vô số ngân thử lang thang khắp thảo nguyên để bù đắp lại những gì chúng đã trượt mất vào thời kỳ ngủ đông. Trong mùa hè, chúng phải kịp làm tất cả những gì mà các thú vật khác đã làm trong một năm trời. Chính vì thế mà chúng hối hả xục xạo khắp nơi, không thèm để ý đến nguy hiểm. Vậy tại sao lại không săn bắt kia chứ – bởi vì cái gì cũng có giờ phút của nó, mà về mùa đông thì không thể săn bắt kia mà, chúng không hề xuất hiện. Lại còn các loại thú nhỏ và chim chóc – đặc biệt là gà gô – dùng làm thức ăn cho sói vào những tháng hè. Nhưng việc kiếm ăn chủ yếu – những cuộc săn đuổi rộng lớn lũ xaigắc – là vào mùa thu và kéo dài từ mùa thu cho đến tận cuối đông. Lại một lần nữa là cái gì cũng có giờ phút của nó, trong đó thể hiện một sự hợp lý riêng, do thiên nhiên ban cho, của vòng quay cuộc đời trong đồng cỏ. Chỉ thiên tai và con người mới có thể phá vỡ quá trình tự lâu đời này của tình hình ở Môiuncumư.   Mời các bạn đón đọc Đoạn Đầu Đài của tác giả Tchinguiz Aitmatov,
Tình Yêu Ra Trận - Rafael Sabatini
Đây là cuốn "Love-At-Arms" (1907) của Rafael Sabatini. Cuốn này cũng được NXB Phụ Nữ / Nhã Nam phát hành với tên "Này chiến trận, này cuồng si" (dịch giả: Lê Đình Chi). Toàn bộ câu chuyện xảy ra vào thời Giáo hoàng Alexander VI (tức Roderigo Borgia, khoảng 1492 - 1503), một thời kỳ phát triển rực rỡ về văn học nghệ thuật của Italia, nhưng đây cũng là một thời kỳ loạn lạc nhiễu nhương khi Italia bị chia năm xẻ bảy liên tục rơi vào những cuộc nội chiến không dứt để tranh dành quyền bá chủ giữa các quốc gia nhỏ. Nổi bật lên trong những cuộc chiến không ngừng ấy là mưu toan thống nhất Italia không thành của gia đình Borgia - chủ yếu là Giáo hoàng và con trai, Cesare Borgia. Roderigo Borgia nổi tiếng là nhân vật ăn chơi phong lưu nhất Italy thời ấy với ít nhất 3 người con trai và 2 người con gái được chính thức thừa nhận, kết quả của vô số cuộc tình. Cesare Borgia mới 20 tuổi đã được phong Hồng y, để rồi sau đó cũng bỏ áo chùng sang một bên để trở thành công tước Valentinois, nỗi kinh hoàng của cả Italia. Tất cả bắt đầu bằng việc Gian Maria Sforza, công tước Babbiano, cầu hôn cháu gái công tước Urbino để tìm kiếm liên minh chống lại mối đe doạ từ Cesare Borgia. Mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, thế nhưng rắc rối bắt đầu khi cô dâu, không cam chịu biến mình thành vật hi sinh cho một liên minh chính trị, liều lĩnh bỏ trốn chỉ vài ngày trước khi hôn lễ được cử hành... Khi bị ép vào cuộc hôn nhân chính trị, nàng - một công nương yêu kiều, mơ mộng, vốn xa lạ với những đua tranh ngoài bức tường thành - bỗng liều lĩnh chống lệnh vua, đem quân cố thủ trong lâu đài, những muốn bảo vệ danh dự của mình. Khi trái tim mách bảo, chàng - một bá tước đam mê phiêu lưu, không màng quyền bính - đã sát cánh cùng nàng, dưới danh nghĩa kẻ đánh thuê hèn mọn, không màng hiểm nguy, âm thầm bảo vệ người trong mộng. Tình yêu và âm mưu, hận thù và đố kỵ, tất cả tưởng như đã rõ ràng khi chiếc cầu dưới cổng thành Roccaleone uy nghi hạ xuống... *** Rafael Sabatini (1875 - 1950) là nhà văn chuyên viết truyện thám hiểm - lãng mạn và thu được nhiều thành công lớn. Ông đã nhận được giải Book Prize. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông  là: Chim ó biển (1915), Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (1922)... Ông xuất hiện trên bầu trời văn học cùng thời với rất nhiều tên tuổi rực sáng khác như A. Dumas, W. Scott, và là một trong những tác giả được mến mộ nhất thời ấy, với dòng tiểu thuyết hiệp sĩ, lãng mạn. Một số tác phẩm nổi tiếng của Rafael Sabatini: - Này chiến trận, này cuồng si - Chim ó biển (The sea hawk, 1915), - Cuộc đời chìm nổi của thuyền trưởng Blood (Captain Blood, 1922); - Scaramouche (1921); - Bellarion the Fortunate (1926)...  *** Từ dưới thung lũng, tiếng chuông Angelus khẽ vẳng lại theo làn gió đêm. Trong ngôi lều của người chăn dê trên đồi có một nhóm sáu người, đầu trần, khẽ cúi xuống tuân theo tiếng chuông báo giờ cầu nguyện tối. Từ trên mái nhà bụi bặm dòng xuống một ngọn đèn bằng đồng ba bấc vừa cháy leo lét vừa bốc khói mờ mịt, toả ánh sáng tù mù cùng mùi khói khét nồng ra khắp căn lều tối tăm. Tuy vậy căn lều vẫn đủ sáng để có thể thấy cả toán người đều ăn vận với vẻ phong lưu quyền quý hoàn toàn tương phản với khung cảnh nghèo nàn xung quanh. Hồi chuông cuối cùng chìm dần trong tiếng gió thổi rì rào đều đều qua sườn đồi, cả sáu người cùng thành kính làm dấu thánh, từ tốn đội mũ rồi nhìn nhau với vẻ dò hỏi. Nhưng trước khi có người nói ra lời điều đang làm tất cả bận tâm, chợt có tiếng gõ nhẹ lên cánh cửa lều mối mọt. « Cuối cùng cũng tới rồi », ông lão Fabrizio da Lodi khẽ kêu lên nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, trong khi một người trẻ tuổi cao dong dỏng, ăn mặc bảnh bao sải bước về phía cửa và mở rộng cửa theo ánh mắt ra lệnh của Fabrizio. Bước qua ngưỡng cửa là một người đàn ông cao lớn, đội một chiếc mũ rộng vành không có ngù lông, chiếc áo choàng phủ kín người được chàng cởi ra khi bước vào để lộ bộ đồ xoàng xĩnh chàng đang mặc. Một chiếc áo da thắt chặt ở ngang hông bởi một chiếc thắt lưng kết bằng mạng sắt, bên trái đeo một thanh kiếm dài, trong khi từ sau hông phải của chàng lấp ló cán của một con dao găm. Chiếc quần bó màu đỏ được bỏ vào trong ống đôi ủng bằng da không thuộc, đôi ủng dài đến quá gối bó sát ống chân hoàn tất ở chàng vẻ ngoài thường thấy của một người lính đánh thuê đang lúc hết việc làm. Bất chấp vẻ ngoài của chàng, cả sáu người quý tộc có mặt trong khung cảnh lạ lùng này đều cung kính bỏ mũ ra một lần nữa, và đứng yên với vẻ chờ đợi chăm chú. Chàng dừng lại một chút để bỏ hẳn chiếc áo choàng, người trẻ tuổi đã mở cửa cho chàng vội vã bước tới giúp một cách thành thạo đến độ có thể tưởng nhầm anh ta được sinh ra để sắm vai hầu phòng. Sau đó chàng bỏ mũ, để lộ khuôn mặt trẻ trung đẹp trai, vừa quý phái vừa khoẻ khoắn tràn đầy sức sống và mái tóc dày đen nhánh được giữ trong một chiếc mạng đan bằng chỉ vàng - vật duy nhất cho biết chàng có địa vị cao sang hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Chàng nhanh nhẹn bước về phía toán người đang đứng cạnh chiếc bàn cục mịch trơn nhẫy, đôi mắt đen lướt nhanh qua tất cả những khuôn mặt đang đối diện với chàng. « Thưa các ngài, tôi có mặt. » Sau cùng chàng lên tiếng, « Con ngựa của tôi bị què cách Sant’ Angelo nửa dặm và tôi đã buộc phải đi bộ đoạn đường còn lại. » « Đức ông chắc đang mệt lắm », Fabrizio lên tiếng, với vẻ quan tâm săn đón luôn được dành cho những người có địa vị, « Hãy uống một cốc vang Puglia, thưa đức ông. Fanfulla, lại đây », ông gọi anh chàng quý tộc trẻ đã đóng vai hầu phòng. Nhưng người mới tới đã khoát tay cản lại. « Chuyện đó để sau. Thời giờ lúc này quý hơn các ngài tưởng đấy. Rất có thể, thưa các ngài, nếu không bị buộc phải đi bộ tới đây tôi đã chẳng bao giờ tới nơi được. » « Tại sao ? », một người bật hỏi, bộc lộ sự băn khoăn vừa nảy ra trong đầu đám quý tộc, thậm chí không ai dấu được vẻ lo lắng trên khuôn mặt. « Chẳng lẽ chúng ta bị phản bội ? » « Nếu các ngài đang trong tình thế phải đề phòng sự phản bội, thì có thể đúng là vậy, các bạn thân mến. Trong lúc tôi vừa đi khỏi chiếc cầu bắc qua Metauro và lần theo lối đi từ cầu lên, tôi nhìn thấy một đốm sáng nhỏ nhấp nháy đằng sau mấy bụi cây ven đường. Đốm sáng đó là ánh mặt trời phản chiếu trên mũ sắt của một gã đang rình rập đằng sau bụi cây. Tôi đi lại gần hơn theo con đường, mũ kéo thấp xuống vừa đủ để che bớt mặt mà vẫn không cản trở tầm nhìn. Đến khi đi ngang qua chỗ gã do thám đang ẩn nấp giữa đám lá đáng lẽ đã giấu kín tung tích gã nếu gã không bị ánh mặt trời phản chiếu trên mũ làm lộ, tôi chợt nhận ra khuôn mặt quỷ quyệt của Masuccio Torri. » Cả đám thính giả của chàng ồ lên, vẻ lo lắng càng lộ rõ, một vài người thậm chí tái mặt. « Hắn rình mò ai mới được chứ? Tôi tự hỏi, và câu trả lời là hắn đang đợi tôi. Nếu tôi đoán không sai, hắn còn biết rõ quãng đường tôi phải đi, và không hề nghĩ đến chuyện tôi lại đi bộ, cũng như việc tôi có thể tới đây dưới bộ cánh như thế này. Vậy là, nhờ sự tình cờ cũng như chiếc mũ và chiếc áo choàng mà tôi đã dùng che kín người, hắn đã để tôi đi qua không đoái hoài gì. » « Trước Đức Mẹ Đồng Trinh ! », Fabrizio kêu lên nóng nảy, « tôi xin thề là đức ông đã lầm. Ngoài sáu chúng tôi chẳng ai khác trên toàn đất Italy biết ngài tới đây. Và tôi có thể thề trên cây thánh giá rằng không ai trong chúng tôi đã hé môi để lộ ra ngoài. » Ông quay sang nhìn những người còn lại như muốn tìm kiếm sự đồng tình. Không hề chần chừ, tất cả đều lập tức xác nhận lời thề của ông quý tộc già với những lời thề không kém thiêng liêng cho tới khi người mới đến phải giơ tay ra dấu cần sự yên lặng để chấm dứt tràng thề thốt. « Cả tôi cũng không hé ra với ai, » chàng trấn an, « vì tôi tôn trọng ngài, Fabrizio. Thế nhưng … tại sao Masuccio lại nấp né như kẻ trộm trong bụi cây bên đường như thế ? », chàng tiếp tục, với một giọng hơi khác,« Thưa các ngài, tôi không biết các ngài hẹn tôi đến đây làm gì, nhưng nếu các ngài có ý mưu phản thì hãy dè chừng ! Công tước đã biết về âm mưu của các ngài, hoặc chí ít cũng nghi ngờ. Nếu tên do thám đó không phải được cử đi theo dõi tôi, thì không nghi ngờ gì nữa, gã có nhiệm vụ theo dõi và bẩm lại cho Công tước chủ của hắn tên những người có mặt tại đây. » Fabrizio nhún vai tỏ vẻ dửng dưng coi thường, một thái độ được Ferrabraccio đứng bên cạnh chia sẻ. « Cứ để ông ta biết », ông này dè bỉu với một nụ cười hằn học, « Ông ta sẽ biết khi đã quá muộn. » Người mới đến hơi ngả đầu ra sau, đôi mắt đen của chàng sáng lên nửa băn khoăn, nửa vỡ lẽ. Chàng thở dài. « Vậy là tôi đã đoán đúng », chàng nói lạnh lùng, «các ngài quả nhiên đang có ý phản nghịch. » « Thưa ngài Bá tước Aquilla », Fabrizio trả lời chàng, « chúng tôi phản bội một người để tận trung phục vụ một đất nước. » « Nước nào vậy ? » Bá tước Aquilla vặn lại khinh miệt. « Công quốc Babbiano. » « Các ngài phản bội Công tước để trung thành với công quốc ? », chàng hỏi, giọng càng có vẻ khinh bỉ. « Thưa các ngài, tôi thấy khó mà tiêu hoá được lý lẽ của các ngài. » Đám người dự mưu lặng lẽ trao đổi với nhau bằng những cái nhìn bàng hoàng. Họ đã không hề trông chờ một thái độ như vậy từ phía chàng bá tước, và nhìn nhau tự hỏi liệu có nên đi xa hơn không. Cuối cùng, khẽ thở dài, Fabrizio quay về phía Aquilla. « Thưa ngài bá tước », ông bắt đầu vói giọng nghiêm trang bình thản, « Tôi là một người già cả ; tên tuổi của tôi cũng như của gia đình tôi chưa hề có chút tỳ vết. Ngài không thể cho tôi là một kẻ tệ hại đến mức đã ngần này tuổi đầu còn cam tâm nhúng tay vào những chuyện có thể làm hoen ố bản thân hay danh dự gia đình. Làm một tên phản nghịch, thưa ngài, là một tội lỗi xấu xa. Hơn ai hết, không ai trong chúng tôi đáng bị kết án nặng nề như thế. Xin ngài hãy làm ơn lắng nghe tôi nói hết ; và sau khi đã biết tất cả, hãy phán xét chúng tôi. Không, chúng tôi trông đợi ở ngài nhiều hơn phán xét, thưa ngài bá tước. Chúng tôi mong ngài hãy dẫn dắt chúng tôi cứu quê hương chúng ta khỏi mối hoạ huỷ diệt đang đe doạ. Chúng tôi xin hứa sẽ không manh động khi chưa được ngài chấp thuận- sẽ chỉ làm theo sự chỉ huy của ngài. » Francesco del Falco, bá tước Aquilla, nhìn người quý tộc già, vẻ khinh miệt không còn nữa, thay vào đó là cái nhìn suy tư pha lẫn vẻ ngạc nhiên. Chàng khẽ gật đầu như để chấp nhận lời thỉnh cầu. « Xin ngài cứ nói, », chàng trả lời. Fabrizio vừa định nói tiếp thì vẫn lại là quý ngài Ferrabraccio chen ngang vào yêu cầu Aquilla thề trên danh dự hiệp sĩ sẽ không phản bội họ trong trường hợp chàng từ chối đề nghị của những người dự mưu. Sau khi chàng thề và mỗi người đều đã xoay xở tìm được cho mình một chỗ ngồi tàm tạm trong căn lều cũ nát, Fabrizio tiếp tục vai trò phát ngôn viên cho cả toán quý tộc dự mưu và tiết lộ lý do khiến ông mời bá tước đến dự cuộc hẹn của họ. Bằng vài câu ngắn gọn, ông tóm lược tính cách của Gian Maria Sforza, công tước tại vị của Babbiano, người đã được ông bác hùng mạnh Lodovico Sforza, công tước Milan, đặt lên ngai. Ông phàn nàn về sự xa hoa quá độ, về những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng và thói quen chểnh mảng chính sự của đức ông công tước, cũng như sự bê trễ của ngài trong việc hoàn thành những trách nhiệm mà cương vị cao quý của ngài đòi hỏi. Tất cả được Fabrizio nhắc đến bằng thái độ chừng mực và tế nhị, một sự thận trọng hoàn toàn không thừa vì Francesco del Falco là em họ công tước. « Đến lúc này, thưa ngài bá tước », ông tiếp tục, » ngài không thể không biết sự bất bình với công tước anh họ ngài đang lan rộng trong dân chúng. Năm ngoái đã xảy ra vụ mưu phản của Bacolino suýt nữa đã khiến chúng ta rơi vào tay Florence. Vụ bạo động bất thành, nhưng một cuộc nổi loạn tiếp theo rất có thể sẽ không thất bại. Sự mất lòng dân ngày càng trầm trọng của công tước có thể khiến nhiều người hơn hưởng ứng một khi bạo loạn lại nổ ra, và chúng ta sẽ không còn là một quốc gia độc lập nữa. Sự tồn vong của nước nhà đang bị đe doạ. Không chỉ bởi nội loạn, mà cả ngoại xâm nữa. Kẻ xâm lăng đó chính là Cesare Borgia. Quyền lực ghê gớm của hắn lan nhanh như dịch bệnh trên toàn cõi Italy mà hắn đang ngoạm dần từng mảng chẳng khác gì người ta nhâm nhi một chùm nho, hết quả này đến quả khác. Đôi mắt tham lam của hắn đã bắt đầu nhòm ngó chúng ta. Và chúng ta, hoàn toàn chưa chuẩn bị sẵn sàng, có gì trong tay để đương đầu với sức mạnh áp đảo của công tước Valentinois ? Tất cả ngài công tước của chúng ta đều biết, vì chúng tôi đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần với đức ngài, cũng như chúng tôi đã chỉ ra cho công tước lối thoát. Thế nhưng xem ra với mối nguy hiểm đang đe doạ mình, ngài công tước cũng phớt lờ như ngài đã luôn dửng dưng với sự cứu rỗi của bản thân. Công tước dành toàn bộ tâm trí cho tiệc tùng, khiêu vũ, săn bắn và đủ trò tiêu khiển phóng túng khác, và nếu chúng tôi có đánh bạo ngỏ lời can ngăn thì nguyền rủa và đe doạ là câu trả lời duy nhất chúng tôi nhận được. » Da Lodi ngừng lại, dường như nhận ra ông bắt đầu không kiềm chế nổi sự phẫn nộ trong lời nói. Nhưng các chiến hữu của ông một cách vô thức, tiếp tục lầm rầm khẳng định một cách phẫn nộ ngay cả khi nhà quý tộc già đã ngừng lời. Francesco nhíu mày thở dài. « Hỡi ôi, tôi cũng hoàn toàn ý thức được mối nguy hiểm các ngài nói tới. Nhưng… các ngài muốn trông đợi gì ở tôi ? Tại sao lại kể với tôi nỗi lo của các ngài ? Tôi không phải là chính khách. » « Chúng ta không cần đến chính khách ở đây. Babbiano cần một người lính ; một người có thể tổ chức một đội quân để chống lại cuộc xâm lược sắp tới…hay đúng hơn đã bắt đầu. Tóm lại, thưa ngài bá tước, chúng tôi cần một người lính như ngài. Trên toàn cõi Italy, còn có ai, cho dù là phụ nữ, trẻ con, là không biết đến danh tiếng của bá tước Aquilla ? Những kỳ công anh hùng của ngài trong cuộc chiến giữa Pisa và Florence, những chiến thắng oanh liệt và tài thao lược của ngài dưới màu cờ của Venice, tất cả đã trở thành đề tài cho những bản anh hùng ca. » « Ngài Fabrizio ! » Francesco kêu khẽ, tìm cách hãm lại tràng ca tụng nhiệt tình của người đối thoại, gò má rám nắng của chàng hơi đỏ lên. Nhưng Da Lodi vẫn tiếp tục không để ý : « Và ngài, bá tước, một người đã thể hiện mình can đảm như thế khi làm tư lệnh lính đánh thuê cho nước ngoài, chẳng lẽ lại là người chần chừ khi đem tài thao lược và sự can trường của bản thân ra chống lại kẻ thù của chính quê hương mình ? Không bao giờ. Chúng tôi biết tâm hồn yêu nước của Francesco del Falco, và hy vọng vào điều đó. » « Và các ngài đã không lầm », chàng trả lời chắc nịch, « Khi cần thiết các ngài sẽ thấy tôi luôn sẵn sàng. Nhưng cho đến lúc đó, về tất cả sự chuẩn bị cần thiết … tại sao các ngài không nói với công tước như đã nói với tôi ? » Một nụ cười buồn khẽ thoảng qua khuôn mặt cao quý của da Lodi, trong khi Ferrabraccio, vẫn với vẻ bộc trực đến lỗ mãng, bật cười mỉa mai rồi trả lời : « Liệu chúng tôi có thể nói với ông ta », ông đáp, « về thao lược, về lòng can đảm, về trận mạc được không ? Làm thế thì cũng ngược đời như đi nhắc nhở Roderigo Borgia làm tròn bổn phận của đấng chăn chiên, cũng vô ích như đi phun nước hoa lên một đống phân vậy. Những gì nói được với Gian Maria chúng tôi đã nói cả, và cho dù năn nỉ khuyên nhủ với ông ta cũng vô ích hệt như với ngài, chúng tôi cũng đã chỉ ra cho ông ta một cách khác để cứu nguy Babbiano và tránh cuộc tấn công của Cesare Borgia. » « A ! Và cách đó là gì ? » chàng bá tước hỏi lại, cái nhìn hướng về Fabrizio. « Một cuộc hôn nhân với gia đình công tước Urbino, » Lodi trả lời, « Guiđobaldo có hai cô cháu gái. Chúng tôi đã đánh tiếng với ông ta, và ông ta cũng sẵn sàng chấp nhận cuộc hôn nhân mà chúng tôi đề nghị. Trở thành thông gia với gia đình Montefeltro, chúng ta sẽ không chỉ nhận được sự giúp đỡ từ Guidobaldo, mà cả từ Bologna, Perugia, Camerio, cũng như một số nước nhỏ khác hiện đã là liên minh với Urbino. Như thế chúng ta có thể đối đầu với Cesare Borgia bằng một liên minh đủ mạnh để khiến y không bao giờ dám đặt chân lên lãnh thổ của chúng ta. » « Tôi cũng đã nghe nói về chuyện này, » Francesco nói, « nếu thành công đó sẽ là một bước đi khôn ngoan. Đáng tiếc là cuộc thương lượng đã không đi đến đâu. » « Thế nhưng tại sao nó lại không đi đến đâu ? Quỷ tha ma bắt, tại sao ? », Ferrabraccio nóng nảy gầm lên, nắm tay hộ pháp đấm mạnh xuống chiếc bàn như muốn đập vụn nó ra từng mảnh, « Tại vì Gian Maria không có hứng lấy vợ ! Cô bé chúng tôi làm mối cho ông ta xinh xắn như một nàng tiên vậy, ấy thế mà ngay cả đi xem mặt ông ta cũng không màng. Bởi vì ở Babbiano có một cô ả … » « Thưa ngài bá tước, » Fabrizio vội vàng cắt ngang, sợ rằng ông bạn sẽ đi quá xa, « mọi chuyện đúng như Ferrabraccio đã nói. Đức ông công tước không muốn cưới vợ. Và chính chuyện này đã khiến chúng tôi quyết định hẹn gặp ngài ở đây tối nay. Công tước sẽ chẳng làm gì để cứu công quốc, và chúng tôi chỉ còn biết trông cậy vào ngài. Dân chúng đứng về phía chúng tôi ; trên đường phố Babbiano mọi người nói công khai rằng ngài là công tước mà họ muốn để trị vì và bảo vệ họ. Thể theo ý nguyện thiêng liêng của nhân dân, » ông quý tộc già đứng dậy, kết thúc với giọng run rẩy vì xúc động, « và nói lên tiếng nói của nhân dân, mà chúng tôi chỉ là đại diện, chúng tôi xin trao cho ngài vương miện công tước của Babbiano. Hãy trở về cùng chúng tôi đêm nay, thưa chúa công, và sáng mai, chỉ cần hai mươi tay thương hộ tống, chúng ta sẽ tiến vào Babbiano để suy tôn ngài làm công tước. Ngài cũng không phải lo đến sự chống trả nào, cho dù nhỏ nhất. Ở Babbiano chỉ còn một người còn trung thành với Gian Maria – chính là gã Masuccio mà ngài nói đã trông thấy tối nay. Mà cũng chỉ vì Gian Maria đã trả tiền để mua sự trung thành của gã và năm chục tên lính đánh thuê Thuỵ Sĩ . Hãy hành động, thưa đức ông ! Hãy để lý trí của ngài nói với ngài xem một người trung thực có cần đắn đo hay không trước khi phế bỏ một ông hoàng mà ngai vàng chỉ được che chở bởi sự bảo vệ thuê mướn từ năm mươi tay lính đánh thuê nước ngoài. » Tiếp theo bài diễn thuyết đầy ấn tượng là một khoảng yên lặng. Da Lodi vẫn đứng, những người khác đều ngồi, ánh mắt khẩn khoản hướng về chàng bá tước, chăm chú chờ đợi lắng nghe câu trả lời. Họ im lặng như vậy một lúc lâu, trong khi Aquilla bất động như một bức tượng. Chàng ngồi lặng thinh, tay nắm chặt thành ghế, đầu khẽ cúi dần về phía trước đến khi cằm chạm ngực, vầng trán cao nhíu lại, tối sầm. Trong khi mọi người chờ đợi câu trả lời của chàng, một trận chiến âm thầm bùng lên dữ dội trong chàng. Quyền lực chàng không hề trông đợi chợt đến quá bất ngờ ngay trong tầm tay, và sẽ là của chàng, chỉ cần chàng dang rộng vòng tay ra đón nhận, đã làm chàng choáng váng, đôi mắt hoa lên trong khoảnh khắc. Nhanh như một tia chớp chàng thấy mình trở thành công tước Babbiano. Trôi qua vùn vụt trước mắt chàng là hình ảnh của một sự nghiệp hiển hách khiến tên tuổi của chàng và tiếng tăm của Babbiano lan rộng khắp Italy. Từ một công quốc vô danh, lòng ái quốc và tài thao lược của chàng sẽ nâng Babbiano lên ngang hàng những quyền lực lớn nhất Italy – ngang hàng với Florence, Venice hay Milan. Chàng nhìn thấy lãnh thổ công quốc không ngừng mở rộng, các nước láng giềng trở thành chư hầu dưới sức mạnh của chàng. Chàng nhìn thấy mình chiếm lấy từng dặm đất Romagna từ tay Borgia, săn lùng gã như chàng vẫn săn lợn rừng ở vùng đầm lầy Commachio, hoặc buộc gã phải bỏ chạy về Vatican nấp sau vạt áo chùng của cha gã - mảnh đất cuối cùng chàng cho phép gã được đặt chân lên trên trái đất. Chàng mơ màng về một Babbiano hùng mạnh, được tất cả các nước cộng hoà cầu cạnh tìm kiếm sự liên minh để chống lại mối đe doạ từ Pháp và Tây Ban Nha. Chàng nhìn thấy tất cả lướt qua trước mắt, và sự cám dỗ như xiết chặt tâm hồn thượng võ của chàng trong vòng đai sắt. Thế rồi một bức tranh hoàn toàn khác hiện ra trước mắt chàng. Trong những lúc thời bình chàng sẽ làm gì ? Trong cung điện chàng luôn cảm thấy buồn chán vô vị. Chàng được sinh ra để sống cuộc đời phóng khoáng của một người lính chứ không phải cho không khí tù hãm của cung đình. Để đánh đổi lấy quyền lực chàng sẽ phải hy sinh gì ? Tự do vô giá của chàng. Để trở thành chủ nhân của người khác trong một số việc, để làm nô lệ cho họ trong nhiều việc hơn thế. Trên danh nghĩa là người trị vì, trên thực tế là kẻ bị cai quản đủ đường. Cho tới khi chàng không còn làm hài lòng các chủ nhân thực sự của chàng nữa. Đến lúc đó, cũng vào một buổi hội họp ban đêm như tối hôm nay, người ta sẽ lại âm mưu để thay thế chàng bằng người khác như chàng đang được mời mọc thay thế Gian Maria. Cuối cùng, chàng nghĩ tới người mà chàng đang được thúc giục cướp lấy cơ nghiệp. Đó là anh họ chàng, con trai người chị gái của cha chàng, một người trong huyết quản đang chảy cùng dòng máu với chàng. Sau hồi lâu, chàng ngẩng đầu lên nhìn những khuôn mặt lo lắng nửa tối nửa sáng dưới ánh đèn tù mù. Một nụ cười lạnh lùng thoáng qua giây lát trên cặp môi cương nghị của chàng. « Tôi chân thành cảm ơn vinh dự lớn lao các ngài đã dành cho tôi »,chàng trả lời chậm rãi, « một vinh hạnh mà tôi e mình hoàn toàn không xứng đáng. » Tất cả đồng thanh lên tiếng phản đối. « Hay ít nhất, đó là một vinh dự tôi không thể chấp nhận. » Tiếp theo là một khoảnh khắc im lặng, khuôn mặt đám quý tộc dự mưu đang hăng hái nhiệt tình bỗng chốc ỉu xìu bất bình. « Nhưng tại sao, thưa ngài ? », ông lão Fabrizio kêu lên, đưa tay về phía chàng, giọng nghẹn ngào. « Tại sao kia chứ, thề có Đức Mẹ Thánh Thần ? » « Bởi vì – hãy nói đến chỉ một thôi bên cạnh các lý do khác - người các ngài yêu cầu tôi lật đổ và thay thế là người cùng dòng máu với tôi. » Và nếu giọng nói của chàng không hoàn toàn bình thản đám người dự mưu có thể cho rằng chàng đang lên án họ. « Tôi đã nghĩ, » anh chàng Fanfulla đẹp trai bảnh bao đánh liều chen vào, « với một người như bá tước, nước nhà và lòng ái quốc sẽ quan trọng hơn huyết thống cơ đấy. » « Cậu nghĩ không sai đâu, Fanfulla. Tôi đã chẳng vừa nói rằng đó chỉ là một bên cạnh các lý do khác sao ? Hãy nói thử xem, thưa các ngài, lý do nào khiến các ngài tin tôi sẽ trị vì các ngài một cách công minh và khôn ngoan ? Một cách tình cờ vào lúc khủng hoảng này Babbiano cần một người lính lãnh đạo nó. Nhưng đừng để điều này huyễn hoặc các ngài, vì sẽ có lúc một người như thế sẽ không còn thích hợp cho việc trị quốc nữa, cũng như trường hợp của công tước tại vị trong hoàn cảnh hiện nay. Đến lúc đó thì sao đây ? Một chàng hiệp sĩ lang thang là một triều thần biếng nhác và một chính khách tồi. Cuối cùng, các bạn thân mến – vì các ngài muốn biết tất cả những gì diễn ra trong trái tim tôi – còn một sự thật nữa là tôi cũng yêu quý bản thân mình một chút. Tôi yêu quý sự tự do của bản thân, và không hề muốn chết ngạt trong bầu không khí ngập mùi nước hoa của cung đình. Các ngài thấy là tôi đang thẳng thắn với các ngài. Tôi luôn ưa thích lang bạt trên thế gian này, vũ khí đeo sau lưng, tự do như cơn gió trên trời cao. Liệu một chiếc vương miện công tước và một chiếc áo choàng tím … » Chàng bật cười vang thành tiếng. « Vậy đấy, thưa các bạn ! Các ngài đã có quá đủ lý do rồi. Một lần nữa tôi cảm ơn các ngài, và lấy làm tiếc rằng, để được là tôi, tôi không thể trở thành người các ngài muốn. » Chàng ngồi lại xuống ghế, nhìn họ với ánh mắt chưa khi nào lại buồn bã đến thế. Sau một giây im lặng, da Lodi cất tiếng, với giọng run run, cầu khẩn chàng suy nghĩ lại quyết định của mình. Ông lão còn đang toan tiếp tục thuyết phục thì Aquilla cắt ngang ngăn lại. « Tôi đã cân nhắc kỹ rồi, thưa ngài Fabrizio. » chàng trả lời dứt khoát, « không gì có thể lay chuyển được tôi đâu. Nhưng tôi xin hứa với các ngài điều này : tôi sẽ tới Babbiano tìm cách thuyết phục anh họ tôi. Tôi sẽ làm hơn thế ; tôi sẽ thuyết phục công tước trao cho tôi việc chỉ huy quân đội. Nếu được công tước chấp thuận, tôi sẽ tổ chức lại lực lượng của chúng ta, đồng thời tìm cách liên minh với các nước láng giềng để bảo đảm, ít nhất ở mức độ nào đó, an ninh của chúng ta. » Đám quý tộc vẫn cố tìm cách thuyết phục chàng, nhưng vô ích. Cuối cùng, da Lodi, với khuôn mặt rầu rĩ, đứng lên cảm ơn chàng vì lời hứa sẽ sử dụng ảnh hưởng của chàng với Gian Maria. « Ít nhất chúng tôi muốn cảm ơn ngài bá tước về chuyện này ; về phía mình, chúng tôi sẽ tận dụng mọi ảnh hưởng chúng tôi có được ở Babbiano để chức chỉ huy quân đội được trao cho ngài. Chúng tôi những muốn thấy ngài được tôn vinh ở một địa vị cao quý hơn, và nếu ngài thay đổi ý định… » « Đừng hy vọng vào điều đó, » bá tước trả lời, lắc đầu nghiêm nghị. Đột nhiên, trước khi có ai kịp nói thêm điều gì, chàng trẻ tuổi Fanfulla degli Arcipreti đứng bật dậy, đôi lông mày nhíu lại, khuôn mặt điển trai hiện vẻ cảnh giác lo lắng. Chàng đứng yên một giây như vậy rồi lao vội về phía cửa, mở rộng cửa ra rồi đứng lắng nghe, trong khi mọi người đều nhìn theo với vẻ ngạc nhiên. Nhưng không cần đợi đến khi chàng vừa quay lại vừa kêu lên kêu báo động, mọi người đã hiểu nguyên nhân khiến chàng đột nhiên hành động lạ lùng như vậy. Ngay sau khi tiếng động do cánh cửa bị mở đột ngột gây ra vừa dứt, tất cả đều nghe thấy tiếng bước chân theo nhịp đều đặn từ xa vẳng lại. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Ra Trận của tác giả Rafael Sabatini.
Mưa Trên Cây Sầu Đông - Nhã Ca
Cây sầu đông không biết có phải là một loại cây đặc biệt ở Huế không, tôi nghe người Bắc gọi là cây Xoan, người Huế gọi là Sầu đông, Thầu đâu hay có khi gọi Sầu đâu. Thân cây cao, có nhiều cành màu đen, khô, lá cây có khứa, nối chùm bằng những cọng nhỏ, hoa nhỏ, có cánh li ti màu tím nhạt, nhụy tím thẩm. Ở gốc cây, nếu bị vết sứt thường chảy ra một thứ nhựa trong màu vàng, có thể dùng để dán được. Bây giờ Huế đã đổ nát, đã tang thương. Tôi viết lại câu chuyện này để cùng những người bạn cũ và những cây sầu đông của Huế còn sống sót, nhớ tới một thành phố êm đềm thơ mộng cũ, những ngày cũ, với những giọt mưa rơi từ trên cây sầu đông. Sài Gòn năm 1968 *** Ánh mặt trời sau một mùa đông dài lẩn trốn, hôm nay hiện ra thật lộng lẫy. Hiện ra trên những mái ngói sạch bóng, trên những vườn cây xanh, hiện ra trên chiếc sân rộng giăng những hàng giây thép song song từ bờ rào đến miệng giếng, trên những hàng giây thép, những áo màu bay lay lắc đẩy đưa theo làn gió xuân nhẹ. Trước thềm nhà đặt đầy những chậu hoa thược dược, thằng Rọm đang ngồi lui cui thay mấy cây đại thọ vừa bị cắt bông để đem cắm vào bàn thờ buổi tối hôm trước. Sáng nay, có chị đàn bà gánh hoa từ trên Long Thọ xuống đi ngang qua nhà thật sớm, thằng Rọm đã gọi vào mua để thay thế những chậu cây cũ. Con Bông đang chạy ven bờ chè tàu, nhón gót hái những sợi tơ hồng non mướt đang giăng mắc trên bờ chưa ráo sương ướt. Ngoài ngõ có tiếng chuông xa xích lô bấm cong cong, thằmg Rọm dơ hai tay bẩn chùi vào đít quần rồi đứng dậy, lật đật đi ra cửa. - Ai? Thằng Đậu hở? Chi rứa? - Nì, xe cái bình sành ni vô. Bên cửa hàng bà biểu chở về đó. Thằng Rọm lạch bạch phụ với anh Đậu xính lô khiêng cái bình sành có hình nổi rồng phượng vô sân. Khi cái bình sành đặt nơi mái hiên rồi, anh Đậu xích lô hỏi thằng Rọm: - Răng, bà đem chậu sành về mần chi rứa. Thằng Rọm ngước mắt nhìn anh Đậu xích lô, nhăn mặt: - Chắc đám cưới bà đó, bà đem về chưng. Anh Đậu trợn mắt: - Nói thiệt hay nói chơi. Bà Phúc Lợi lấy chồng? Lấy ai rứa? - Lấy một người đàn ông. - Cái ông nị kỳ cục, ai giỡn, hỏi thiệt mà. - Thì tui cũng nói thiệt. Răng mà các người tò mò quá. Hỏi mần chi. Hỏi để đi ra bán cho cả làng cả nước biết hỉ? Anh Đậu dơ tay bịt miệng, vẻ hốt hoảng: - Bậy nờ, nhà bà từ lâu phúc đức, ai dám nói xấu. Hôm trước con vợ tui... Anh Đậu lại đưa tay che miệng. Nhưng thằng Rọm cười: - Vợ anh nghe chuyện nhà ni chớ chi? Thiệt tao nói cho mi biết con chó ăn cứt mà thơm, người ta ăn cơm mà thúi... Rồi không đợi anh Đậu nói thêm lời nào, thằng Rọm trở ra mấy chậu cây bông thọ đang trồng dở, ngồi xuống. Anh Đậu đội chiếc nón xích lô rách lên đi ra cổng: - Thôi tui về nghe. Thằng Rọm không trả lời. Nó bận bắt một con sâu màu xanh bám trên lá cây vạn thọ. Nó lấy hai ngón tay bóp con sâu nát bét rồi chùi lên quần. Khi đã trồng hết mấy cây bông, thằng Rọm lại lúi cúi tìm sâu tiếp tục bắt. Nó lượm được mấy con nữa, nó đặt trong vòng tay và cầm chặt lại. Thằng Rọm mãi tìm sâu không để ý đến Tỷ Muội mở cổng rào đi vào. Khi tới gần, thằng Rọm thấy bóng quần trắng loáng thoáng, nó mới ngẩng lên: - A, mi qua đó há? - Mần chi rứa ông thằng Rọm. Thằng Rọm phì cười: - Con ni hay hí? Kêu chi lạ rứa. Nhưng Tỷ Muội không để ý lời nói của thằng Rọm, nó chăm chú nhìn vào bàn tay thằng Rọm đang nắm chặt: - Cầm cái chi rứa. - Ni. Thằng Rọm dơ bàn tay lên rồi mở ra. Tỷ Muội kêu thét lên rồi lùi lại một bước. Trong lúc bàn tay thằng Rọm đầy sâu xanh, có con nằm ngay đơ, có con còn ngúc ngoắc muốn bò. Thấy mặt Tỷ Muội tái xanh, thằng Rọm dọa: - Sợ không? - Sợ, sợ ông thằng Rọm ơi, đừng dọa tui... tội tôi mà. Thằng Rọm cười xoà rồi bóp mạnh tay cho đám sâu bẹp dúm hẳn, lượm miếng lá chuối có rễ vạn thọ rũ sạch đất lau tay. Tỷ Muội đã hết sợ, nó hỏi: - Có ai ở nhà không? - Ai? - Ai nữa. Thằng Rọm cười: - Đang nằm trong buồng. Chắc ngủ chưa dậy. - Con quỷ ngủ dữ ác. Tỷ Muội bỏ thằng Rọm chạy vào nhà. Nó chạm phải bàn thờ bà ngoại của Đông Nghi, mấy cây đèn cầy sáp đang cháy dở và mùi nhang thơm nồng. Tỷ Muội nhìn lên tấm ảnh người đàn bà già, rồi chạy tuột vào một căn buồng nhỏ. - Nghi, Nghi. Ngủ chi dữ rứa. Tỷ Muội thấy Đông Nghi nằm trong giường, mùng màn chưa cuốn. Nó vén mùng chui tọt vào ngồi bên bạn. - Dậy, Nghi. Dậy nói chuyện ni cho nghe. Đông Nghi quay lại, mắt tỉnh khô. Nghi đâu có ngủ, nàng đã thức dậy từ lúc sáng sớm nhưng lười biếng nằm dài đó thôi. Nghe Tỷ Muội nói có chuyện Đông Nghi thở ra: - Nghe chuyện tao chưa đủ răng nghe chuyện người ta nữa? Tỷ Muội tiu nghỉu. Nó nhìn ra vườn, Đông Nghi ngủ mà không đóng cửa sổ. Nó nghe tiếng chim hót ngoài vườn và có tiếng cành lá lay động nữa. Nó hỏi bạn: - Đã móc võng lại chưa? - Rồi. - Ra vườn chơi đi. - Ừ, ra trước đi, đợi tao đi xúc miệng rửa mặt một chút. Đông Nghi nhảy ra khỏi giường, Tỷ Muội không đi mà ngồi đợi nơi chiếc ghế nhỏ. Nó thấy trên bàn của Đông Nghi những tờ giáy vẻ nhăng nhít còn bừa bãi. Trên bàn có thêm một đồ chơi mới, một con búp bê tóc vàng, chân dính vào một cái bục tròn, khi Tỷ Muội xoay, nó nghe thấy một điệu nhạc thật êm đềm. Một lát sau hai cô bạn đã ra ngoài vườn. Chiếc võng đã được giăng ra ở giữa cây sầu đông và cây hồng bì. Cây khế ngọt bị lẻ loi, Tỷ Muội nghĩ thế, và trước khi ngồi lên võng, nó vỗ vào thân cây khế và hái một đọt lá khế con cho vào miệng nhấm: - Lá non ngọt rứa thê mi ơi. Rồi nó nhìn quanh vườn: - Mau quá, mới đó mà mùa Xuân rồi. Đông Nghi im lặng. Mắt nàng nhìn mông lung vào những tàn cây xanh, những đọt lá non, những chồi đang hé. Ngày nào những giọt mưa trên cây sầu đông đã rụng xuống, vậy mà bây giờ, trên những cành khô, lá non đã xanh tươi, vẻ dửng dưng không nhớ nhung. Chính mình cũng đã quên hết rồi răng? Những điều đã nguôi ngoai thì quả là thật đúng. Tỷ Muội chợt nhìn thấy vẻ u buồn trên mặt bạn, nó lại tươi cười: - Nghi, đừng có khóc nghe. Đông Nghi mỉm cười choàng tay qua vai bạn. Nàng cảm thấy thương bạn ghê gớm. Tỷ Muội thật dễ thương, nó cũng bằng tuổi Nghi mà nó vô tư sung sướng quá. Đông Nghi nhìn khu vườn, hôm nay vườn cây đã mang một bộ mặt mới lạ hẳn. Những ngày mùa đông mưa mù trời đất như đã chìm vào giấc mộng xa xưa nào. Và Đông Nghi cũng thấy mình nhớn hẳn. Tay Nghi vẫn choàng qua vai Tỷ Muội. Tỷ Muội nép vào vai bạn: - Nghi nghỉ học luôn thiệt há? - Ừ. - Tụi nó nói Nghi đau Nghi nghỉ vài ngày. Đông Nghi cười, mắt mơ màng nhìn lên đọt cây: - Cô giáo có nhắc gì Nghi không? - Có, mấy cô hỏi thăm Nghi đau ra răng. - Mình có đau ốm chi mô. Tỷ Muội buồn bã: - Rứa là từ nay Muội đi học một mình. Đông Nghi nhìn vào mắt bạn, thấy mắt Tỷ Muội như rưng rưng sắp khóc. Đông Nghi cũng muốn khóc theo: - Thiệt mình không biết mần răng để cựa quậy nữa Muội ơi. - Răng chừ làm đám cưới. - Chắc vài tuần. - May áo mới chưa? - Tuần trước ba tui đi Saigon mua mười mấy chiếc áo dài, chưa kể áo cưới họ may. Tỷ Muội ngồi ngẩn ngơ. Đông Nghi cười lớn vỗ vào vai bạn: - Mi nghĩ là tao bằng lòng lấy thằng Khanh vì lẽ chi? - Mạ mi ép buộc chớ chi. - Không phải, vì tiếng đàn ghi ta của hắn, mùa xuân hắn đàn trở lại tao nghe và mê luôn. - Mê chi rứa? Đông Nghi ghé vào tai bạn: - Hắn có mùi hôi nách giống như con chi đó ở trường. Dù răng hắn cũng có mùi vị đặc biệt. Nói xong Đông Nghi rũ ra cười. Tỷ Muội cười theo nhưng thấy Đông Nghi vừa cười vừa chảy nước mắt ràn rụa, nó ôm chầm lấy bạn: - Nghi, Nghi đừng khóc. Đông Nghi đưa tay chùi nước mắt, vẫn chưa thôi cười: - Không, không, tao mô có khóc. Mi biết không? Khi tao đi lấy chồng mạ tao khóc, ông Bồ Đào khóc, thằng Rọm khóc, cây sầu đông khóc. Rồi không dừng được nữa, Đông Nghi òa khóc thật. Nàng ngồi im, nước mắt chảy như mưa lăn trên mặt lá cây. Tỷ Muội hốt hoảng định dỗ bạn, nhưng rồi nó cũng mũi lòng khóc theo bạn. Khóc một lúc, Đông Nghi nín hẳn. Như sau cơn mưa, cây cối sạch sẽ láng bóng, mặt của Đông Nghi trông rạng rỡ hẳn. Nàng nhìn cây sầu đông, những búp hoa như sắp bung nở. Không còn chi giống cảnh cũ nữa, sao mình vẫn còn đau lòng chuyện cũ? Đông Nghi ngơ ngác hỏi lòng mình, rồi nàng cầm tay bạn: - Hồi nớ Tỷ Muội nói chuyện chi lạ? - Chuyện con Trà. - Hắn mần răng? - Con Trà chửa hoang. Đông Nghi trợn mắt, bấu chặt vai bạn: - Thiệt không? - Thì nó nghỉ học cả tuần rồi, tụi nó đồn rầm rầm... Đông Nghi tự dưng mỉm cười. Thôi câu chuyện dành cho thành phố Huế đã ngã sang kẻ khác. Như vậy là Nghi thoát nạn. Nghi đứng dậy vươn vai, nhưng Tỷ Muội kéo bạn ngồi xuống. - Răng, chừ mi có muốn làm nổ thành phố Huế nữa không? Đông Nghi nhìn quanh khu vườn, mắt mơ màng: - Nổ à? Nó chưa nổ thì không trước thì sau nó sẽ nổ, nhưng tao không làm điều đó nữa. - Nếu nó nổ đi có tiếc không? - Tao thích Huế cứ như rì mãi. - Đồ mâu thuẫn. Đông Nghi hiền lành mỉm cười. Tỷ Muội đứng dậy, kéo tay bạn: - Đi vô đi, mình về. - Về mần chi? - Về học bài chớ. Bà quên tui còn đi học nữa. - Ừ hỉ. Đông Nghi thả tay bạn. Nàng đứng thẫn thờ, mình thì hết nữ sinh rồi. Hết nữ sinh thì mần răng làm nổ thành phố? Đông Nghi buồn bã: - Thôi mi về đi. - Không đưa tao vô hỉ? - Thôi Muội về học bài đi. Tỷ Muội cười và bỏ chạy, Nghi nói: - Mai rảnh đi đo áo mới với mình nghe. Hứa làm phù dâu thì phải diện nghe. - Dị òm. Tỷ Muội nói xong đã khuất sau những hàng cây. Còn một mình, Đông Nghi đi tới nơi cây sầu đông, nàng dựa vào thân cây mắt nhìn lên ngọn. Qua những cành cây xương xẩu và những tàu lá non mát, bầu trời xanh ngắt với những đám mây trắng nõn hiện ra. Những đám mây không bay mà đứng sửng, Đông Nghi bỗng thở dài, nàng đưa móng tay cào cào vào thân cây, bóc một mảng vỏ lớn. Đông Nghi nhớ lại thời còn thơ ấu, nàng hay lấy dao cạo thân cây để sáng ra thấy mủ sầu đông chảy ra, đọng thành những hình thù vàng trong xinh xắn. Đông Nghi đi tới một luống hoa, nàng hái một bông vạn thọ chà nát trong lòng tay. Mùi hoa vạn thọ hăng hắc, ngon ngọt làm Đông Nghi choáng váng. Hoa vạn thọ nhiều nhất là mùa Xuân, mỗi mùa Xuân mới có, và nó mới khoe đầy đủ hương sắc. Như cây sầu đông, mùa đông mới có mưa và có giọt lệ của chàng. Tuấn ơi, chừ anh đang ở đâu? Đang làm gì? Những ngày ở Huế chóng vánh nhưng có đủ kỷ niệm để chàng nuôi nhớ suốt đời không? Nhưng Nghi, Nghi sẽ nhớ suốt đời. Con gái Huế lãng mạn lắm, dữ dội lắm, vậy mà thành trì thành kiến vẫn vây chặt được. Năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, nếu không mọc cánh bay được một lần thì phải bán nắm xương tàn cho sông Hương núi Ngự. Đông Nghi cắn môi, nàng muốn khóc nhưng không thể khóc thêm được nữa. Bây giờ là mùa Xuân, mùa Đông chưa tới để mang những giọt lệ cho nàng. Nghĩ đến Tuấn, tim Đông Nghi đau nhói. Nàng ôm lấy ngực, mắt Đông Nghi hoa lên, rồi bao nhiêu cây cối như vừa quay ngược trước mắt nàng, Đông Nghi cố gượng chạy vào nhà. Vào tới sân, chân Đông Nghi vấp mạnh, rồi nàng lảo đảo muốn té. Đông Nghi lại gượng được, nàng mở bừng mắt, thằng Rọm như vừa ngã té xuống đất và đang lòm còm ngồi dậy. Hắn nạt: - Đi mô như bị ma đuổi rứa, khỉ. Đông Nghi khựng lại, nhưng rồi thấy dáng điệu của thằng Rọm, Đông Nghi không nín cười được, nàng cười phì. Thằng Rọm lại trợn mắt: - Cười nữa há. Ô cha, cái con ni cười chi lạ rứa hỉ? Đông Nghi đỡ thằng Rọm dậy: - Xin lỗi nghe. Rồi nàng mân mê mấy đóa hoa vạn thọ, màu vàng thẩm như ánh mặt trời ban mai chao nhẹ trong lòng nàng những nhớ nhung thơ ấu, màu vàng cũng nhắc nhở tấm lòng phụ bạc của nàng. Nghi chẳng phụ Tuấn là gì? Hình ảnh Tuấn chơ vơ giữa sân ga trống, mắt dõi theo chiếc xe cũ kỷ màu đen láng và bước chân chao hụt của chàng. Như thế là hết. Những lá thư ở xa gửi về không bao giờ Đông Nghi được đọc. Thằng Rọm thấy Nghi đang cười bỗng nhiên đăm chiêu, hắn gạt tay Nghi ra khỏi chậu hoa vạn thọ: - Ê, thả tay ra, gãy hết chừ. Đông Nghi chụm tay thằng Rọm. Rọm để yên bàn tay đen đủi của hắn trong tay Nghi nhìn chăm chăm rồi cười: - Ni lớn tồng ngồng rồi, sắp có chồng rồi, cứ làm như con nít con na. Rồi Rọm chỉ cái bình bằng sứ: - Mạ đem về bữa mô làm đám cưới đó tề. Không nghe Đông Nghi nói gì, thằng Rọm ngước nhìn lên, thấy hai giọt lệ đang lăn dài xuống má nàng. Thằng Rọm kêu: Nghi, răng khóc. Đông Nghi đã bỏ chạy vào nhà cánh cửa đóng lại. Buổi trưa hôm đó, Đông Nghi không ăn cơm, nàng khóc âm thầm một mình rồi ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy trời đã chiều. Đông Nghi nghe tiếng ông Bồ Đào nói chuyện với thằng Rọm ở nhà ngoài. Lát sau nàng đi ra, ông Bồ Đào nói: - Mặc áo đi con. Sang bên nớ mạ rồi ba chở đi thử áo hỉ. Đông Nghi ngoan ngoãn rửa mặt, thay áo. Buổi tối hôm đó, đi thử áo dài xong, Đông Nghi với mẹ và ông Bồ Đào đi ăn phở ở vườn hoa Nguyễn Hoàng. Nhìn qua bên kia sông, vườn hoa trước trường Đồng Khánh tối om, chỉ thấy lờ mờ vài đọt dừa cao và những cột điện nhấp nháy sáng sát mặt đường. Thấy cảnh cũ, Đông Nghi lại muốn khóc, nhưng nàng cố che bằng nụ cười, nàng hỏi mẹ: - Đám cưới con mạ có may áo mới không? Bà Phúc Lợi cười, đưa tay vuốt tóc con gái: - Có chớ, mạ may áo gấm đẹp lắm. Rồi bà nhìn ra mặt sông, giọng mơ màng: - Mặc áo mới chắc hôm đó mạ thấy vui lắm. Lâu lắm mạ không còn biết vui khi mặc áo mới nữa. Đông Nghi cúi đầu. Khi đưa đám ma người ta cũng mặc áo mới. Khi bà ngoại chết Nghi cũng có áo mới. Trong đời ta còn bao nhiêu áo mới nữa, sá chi cái cáo mới ngày cưới. Đông Nghi lặng lẽ ăn. Ông Bồ Đào ân cần: - Con thích đi Saigon không, ba cho đi vài ngày trước đám cưới. Mộtánh sáng loé ra trong đầu Nghi. Nhưng rồi tia sáng đó cũng tắt ngấm rất nhanh. Đông Nghi lắc đầu: - Con không muốn xa Huế nữa. Câu nói của Nghi làm cho ông Bồ Đào nhìn bà Phúc Lợi cười đầy ý nghĩa. Nhưng Nghi không nghĩ như họ, nếu lần này được xa Huế không bao giờ nàng còn trở lại nữa. Nghi biết Nghi cũng không còn can đảm dứt bỏ Huế khi không có Tuấn bên cạnh. Căn nhà giam thành kiến ở trong mọt thành phố đầy thành trì miệng tiếng, khu vườn nhốt tuổi thơ, rồi cây nhãn cây hoàng lan, cây bại hoại. Thôi ngoại ơi, con ở lại đây để hái hoa bại hoại cúng ngoại hỉ? Nhưng giá đám cưới muộn hơn để mùa hè này Nghi còn được tắm sông với Tỷ Muội, đi biển với Tỷ Muội hay hai đứa đánh thẻ, chơi ô làng bên Đò Cồn bẻ bắp nướng ăn. Thôi, mơ ước chi nữa, bầu trời con gái đã sụp đổ, tình yêu đã sụp đổ. Mười phương cũng đã hết chín phương, còn một đi lấy chồng. Đông Nghi nhìn mẹ, nhìn ông Bồ Đào, tại sao hai người không là vợ chồng được. Thành kiến, miệng tiếng đã chia rẽ mẹ, và mẹ lại tiếp tục đổ lên đầu con. Ta ở đây, mai một đẻ con đẻ cái, ta lại tiếp tục giữ trọn cái nề nếp cho cái nhà, cái vườn, ta sẽ thành bà mẹ khắt khe như mạ. Nhưng mạ tiếp tục sống như rứa mạ sẽ làm nổ tung thành phố đó. Nếu một mai bà vợ ông Bồ Đào nổi nơi tam bành. Nhưng Đông Nghi yên trí ngay, thành phố này là nơi mang tiếng trong nhà chưa rõ ngoài ngõ đã hay, không lý gì chuyện mẹ và ông Bồ Đào dấu kín mãi được. Nhưng nàng không đủ sức để tìm hiểu chuyện ai nữa, dù kẻ đó là mẹ nàng. Gió ở bờ sông thổi lên mát rượi, Đông Nghi nhớ lại đêm nào ngồi với Tuấn nơi ghế đá bên kia sông. Tóc nàng bay vào mặt chàng, hơi thở chàng phà ấm bên tai. Đông Nghi bỗng thấy nàng cô đơn, trống vắng như một kẻ đi xa trở về quê cũ vẫn còn nguyên từng ấy cảnh vật, nhưng sự xúc động xưa cũ đã chết mất rồi. Buổi tối hôm đó, ông Bồ Đào với mẹ lại bày bàn ra ngồi ở góc sân, nơi cây nhãn. Cũng người xưa cảnh cũ, bụi hoa nhài tỏa hương thơm nức. Và bà Phúc Lợi kêu, giọng ngọt ngào: - Nghi ơi, lấy nước trà ra cho mạ. Đông Nghi bưng nước trà ra, hương hoa nhài vẫn ngây ngất và nàng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn: Thì ra có gì thay đổi mô? Có chi mô, Đông Nghi đặt hai tách nước trà xuống bàn, nhưng mạ không bắt đứng quạt nữa. Nàng đi vào phòng mở cửa sổ. Song cửa ngắn đã được tháo ra và thay bằng song cửa mới, Đông Nghi không trông thấy gì ở ngoài vườn hết. Nhưng khi nàng đứng yên, tưởng tượng, nàng có cảm tưởng như những giọt nước đang rơi lốp bốp ngoài kia, không biết có phải phía ở cây sầu đông không. Mùa đông qua rồi. Nghi ơi, đợi ta với mùa đông nghe. Bao nhiêu nước mưa sẽ là nước mắt, và ta sẽ khóc với người. Nhưng cũng chả can gì hết, chả chết ai hết. Mùa Xuân cũng sẽ trở lại. Đông Nghi lục lọi tìm xấp thơ của Tuấn. Nàng để giữa phòng và châm lửa đốt. Ngọn lửa bùng lên soi rõ khuôn mặt của Đông Nghi với hai mắt mở lớn, khô lệ.   Mời các bạn đón đọc Mưa Trên Cây Sầu Đông của tác giả Nhã Ca.