Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chúa Tể Đầm Lầy

Michel Tournier, sinh năm 1924 ở Paris, đoạt Giải Thưởng Lớn của Viện Hàn Lâm quốc gia về Tiểu Thuyết với tác phẩm Gã Thứ Sáu hay là Ngày Tháng Thái Bình Dương, và giải thưởng Goncourt với tác phẩm Chúa tể đầm lầy. Ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Goncourt năm 1972.   Riêng nhan đề Chúa tể đầm lầy là một sự hướng đến thần thoại của dân tộc Đức, đến những biểu tượng sâu thẳm. Nhưng tiểu thuyết cũng bắt gặp một huyền thoại có tính phổ biến hơn, đó là huyền thoại về Gã hung thần.   Một tuổi nhỏ mất hẳn tình thương, một thời mới lớn chuốc nhục, một nghề thấp kém, tất cả đã biến Abel Tiffauges thành kẻ thù của xã hội. Nhưng một giai đoạn của đời y là làm học sinh giúp cho y đinh ninh rằng có một sự đồng lõa âm thầm giữa việc đời và phần số của y: số là một hôm ra trước hội đồng kỷ luật, y cầu sao cho trường bị cháy rụi. Bình thường lời mong cầu như thế chẳng bao giờ thành, thì nay trận hỏa hoạn giải phóng lại xảy ra…   Trong con người Tiffauges có tính chất của vị sứ đồ và của Gã hung thần, mà sứ đồ thì dẫn dắt và cứu độ cho hung thần. Nhờ thế mà đang khi một vụ hiếp dâm lăm le bắt y đi tù đày thì đợt tổng động viên 1939 giúp y được miễn tố: ngôi trường bị cháy lần nữa!   Làm tù binh năm 1940, y bị đưa sang vùng phía đông nước Phổ. Nhưng trong khi đồng bọn kêu trời tại vùng đất bao la hoang dại thì Tiffauges lại cho là vùng đất màu nhiệm mình hằng mong đợi, và cảm thấy mình được giải phóng một cách khác thường trong cảnh ngộ tù tội.   Hai gã hung thần thượng đẳng đang ngự trị trong chốn rừng xanh và đầm lầy: Goring, là Gã hung thần vùng Rominten, tàn sát nai và ngốn thịt rừng, và Hitler, là Gã hung thần vùng Rastenburg kẻ nhồi sung đại bác bằng thịt trẻ con nước Đức. Tiffauges trở nên Gã hung thân vùng Kaltenborn, một pháo đài Đức của ngày xưa mà nay là nơi chọn lọc và rèn luyện lớp thanh niên nhắm trở thành tinh hoa của Đức quốc xã.   Bước bôn ba tiêu biểu của một gã vô chính phủ lọt vào cạm bẫy của phát xít, cuộc đời ba chìm bảy nổi hiện thực của một tù binh Pháp trên đất Đức, một chuỗi biến tấu có mạch lạc về chủ đề chất thịt tươi sống và nuôi dưỡng thế nào cho thịt được tươi sống, chân dung dăm Gã hung thần, cuốn tiểu thuyết này còn có một tham vọng sâu xa hơn: tham vọng diễn dịch cuộc “thế chiến quái đản”, cái chủ nghĩa Hitler, các trại tập trung và sự tràn sang của hồng quân theo một hướng thuần túy biểu tượng và không dùng đến các lợi khí xưa củ của lịch sử và tâm lý.   Sau hết, Chúa tể đầm lầy, đặt vào viễn tượng do cuốn Gã Thứ Sáu hay Ngày Tháng Thái Bình Dương đã từng mở đường, hiện ra như là một tiểu luận nhằm miêu tả một kiểu thúc mới về dục tính thông qua ngõ ngách thông dụng.  ***  3.1.1938. Anh là một hung thần, đôi khi Rachel bảo tôi vậy. Một tên hung thần ư? Nghĩa là một con quỷ trong truyện thần kỳ, xuất hiện từ trong bóng đêm của thời gian? Phải, tôi tin ở bản chất thần kỳ của mình, nghĩa là sự a tòn bí ẩn ngấm trộn lẫn dòng đời tôi với dòng đời sự vật, và cho phép đời tôi uốn sự vật theo chiều của nó.   Tôi cũng tin rằng mình xuất thân từ bóng đêm của thời gian. Tôi luôn luôn khó cảm thông với sự nhẹ dạ của những ai miệt mài băn khoăn đến những gì xảy ra sau khi chết đi, mà lại chẳng buồn để ý đến những gì trước khi mình sinh ra. Đời trước cũng như đời sau. Mà tôi thì đã có mặt từ lâu, từ nghìn năm, trăm nghìn năm khi trái đất mới còn là một hòn lửa quay quay giữa một bầu trời bằng chết ê-li-com, thì cái linh hồn giúp cho nó phân phật lửa và quay quay là linh hồn của tôi. Và vả lại cái thời xa lơ xa lắc ngờm ngợp của căn nguyên tôi cũng đủ để giải thích cái quyền năng siêu nhiên của tôi: bản thể và tôi, cả hai xưa nay đi bên nhau, cùng là bạn cố tri, đến nỗi, dù chẳng cảm tình đặc biệt với nhau, nhưng vốn quen hơi nhau già năm như trái đất, chúng tôi hiểu nhau, chẳng khước từ gì nhau.   Còn như cái chất quỷ…   Mà trước hết quỷ là gì? Quỷ là quái, quái là quỷ, quái quỷ quái kiệt…, là cái trưng bày ra, phô diễn ra[1]. Quỷ là cái gì được người ta chỉ trỏ - bằng ngón tay, trong hội chợ, v.v. Và do đó một sinh vật càng quái quỷ, nó càng được trưng bày. Đó là cái khiến tôi dựng tóc gáy, tôi vốn chỉ sống nổi trong bóng tối và vốn tin rằng đám đồng loại của tôi sở dĩ để cho tôi sống là nhờ họ chẳng hiểu tôi, chẳng biết tôi.   Muốn đừng là quỷ, thì phải giống như đồng loại, cùng khuôn mẫu với chủng loại, hoặc là cha mẹ sao thì mình vậy. Hoặc là có một dây tua con cái mà ta là cái mắc xích đầu tiên của một chủng loại mới mẻ. Chẳng qua loài quỷ không phải là loài sinh con đẻ cái. Con bê sáu chân làm sao sống lâu được. Con vật sinh ra từ cha lừa mẹ ngựa hoặc mẹ lừa cha ngựa thì có ra đời cũng chẳng sinh sôi, chẳng khác nào tạo hóa muốn xóa bỏ một thử nghiệm xét thấy vô lối. Và tôi tìm lại được cái lý do vĩnh cửu của mình, do cha mẹ cũng có mà do con cái cũng có. Tôi già như trái đất, tôi bất tử như trái đất, tôi chỉ có thể có cha và mẹ tinh thần, và chỉ có thể có con nuôi thôi.   …   Tôi đọc lại mấy dòng trên đây. Tôi tên là Abel Tiffauges, tôi trông coi một cửa hiệu sửa xe ở quảng trường Porte - des - Ternes, và tôi không điên. Tuy nhiên những gì tôi vừa viết ra đều nên được xem xét một cách đầy đủ nghiêm túc. Rồi sao nữa? Rồi tương lai sẽ có nhiệm vụ thiết yếu là chứng minh – hay nói cho đúng hơi, là minh họa – tính cách nghiêm túc của những dòng trên đây.     6.1.1938. Hình con ngựa mọc cánh của hãng ét-xăng Mobilgas sáng lên bằng đèn nê-ông trong bầu trời tối ẩm, rọi xuống tay tôi, và tắt ngấm ngay. Ánh chớp đỏ ấy cùng với mùi mỡ thiu thấm nhập vào mọi thứ ở nơi này tạo nên một không khí mà tôi ghét nhưng hóa ra lại quen hơi mà không nói ra. Nói rằng tôi đã quen sống là chưa đúng: không khí này thân thuộc với tôi như hơi hám chỗ nằm hay là như cái khuôn mặt mỗi buổi sang tôi thấy lại trong gương. Nhưng nếu như lần thứ hai tôi ngồi xuống với cây bút trong bàn tay trái trước trang giấy trắng – trang thứ ba của Những trang viết bằng tay trái -, là vì tôi tin chắc, như người ta thường nói, mình đang ở vào một khúc ngoặt của đời sống, và vì tôi có phần trông cậy vào tập nhật ký này để thoát khỏi cửa hiệu sửa xe, khỏi những tính toán hèn mọn trói buộc tôi chốn này, và trong một ý nghĩa nào đó là để thoát khỏi chính tôi.   Mọi thứ đều là ký hiệu. Nhưng cần có một thứ ánh sáng hay âm thanh chói lọi mới chọc thủng tình trạng đui điếc của ta. Kể từ những năm học vỡ lòng tại trường cấp hai Saint - Christophe, tôi không ngừng quan sát những nét chữ dọc ngang nguệch ngoạc trên đường tôi đi và nghe ngóng những lời nhỏ to vo ve bên tai mà chẳng hiểu gì, chẳng rút tỉa được gì ngoài một nỗi ngờ vực gia tăng phủ lên lối sống của mình, nhưng thật sự cũng có thêm cái bằng chứng, một lần nữa, rằng bầu trời không trống rỗng. Còn cái thứ ánh sáng kia, những cảnh ngộ xoàng xĩnh nhất đã giúp nó lóe lên hôm qua, và nó không ngừng soi sáng con đường tôi đi.   Một sự cố vặt vãnh bắt tôi ngưng dùng tay mặt một thời gian. Tôi muốn sử dụng tay quay lột bỏ mấy miếng chằng nơi xác-măng của máy nổ bị yếu điện. Tay quay bật lại, nhưng may là cánh tay tôi để lỏng và vai để hờ. Chỉ có cổ tay là chịu sức bật, và chắc là có tiếng rắc trong gân. Thiếu đường ọc lên một tiếng, vì đau đớn, và dưới lớp vải cao su băng bó cồm cộm, tôi thấy mạch máu bùng nhùng nhức nhối. Không thể đến hiệu xe làm việc gì hết bằng mỗi một tay, tôi leo lên tầng hai lánh mình vào một phòng xép chứa sổ sách và báo cũ. Để khỏi rảnh trí, tôi dùng tay kia hí hoáy dăm ba chữ không đầu không đuôi trên lốc giấy.   Lúc ấy tôi bất ngờ phát hiện mình viết được bằng tay trái! Phải, chẳng cần tập trước, chẳng ngập ngừng chậm chạp, bàn tay trái của tôi vững vàng kẻ những nét chữ toàn vẹn, nét uốn lượn khác thường, lạ mắt, hơi co quắp, chẳng giống gì với chữ viết quen thuộc, chữ viết của bàn tay phải. Tôi sẽ trở lại biến cố đảo lộn này mà tôi chẳng dè nguồn gốc, nhưng trước hết phải ghi lại các cảnh xui khiến lần đầu tiên tôi cầm bút là chỉ để trút nỗi lòng và lớn tiếng nói lên sự thật. Liệu có nên nhắc nhở một hoàn cảnh khác nữa, một hoàn cảnh có lẽ không kém phần quyết định, là sự dứt đoạn của tôi với Rachel? Mà thế thì cả một câu chuyện phải đêm ra kể lể, một câu chuyện tình, câu chuyện tình của tôi vậy. Đương nhiên tôi không thích, có lẽ vì không quen thói. Đối với một kẻ kín miệng một cách tự nhiên như tôi, phơi ruột phơi gan trên giấy thì lúc đầu ngấy thật, nhưng bàn tay đưa đẩy, hình như đã trót kể thì không dừng được trước khi cạn lời. Cũng có thể biến cố đời tôi từ nay không thể nối đuôi nhau nếu không có sự phản chiếu của lời mà ta gọi là nhật ký?   Tôi đã mất Rachel. Nàng là người đàn bà của tôi. Không phải là vợ trước mặt Chúa và người đời, mà là người đàn bà của đời tôi, có nghĩa là – nói một cách không kiểu cách chút nào – con người nữ của vũ trụ riêng tôi. Tôi quen biết nàng cách đây mấy năm, như tôi quen biết mọi người, như khách hàng của cửa hiệu sửa xe. Nàng xuất hiện ngồi cầm tay lái một chiếc Peugeot tàn, lộ rõ nét hí hửng vì có người ngạc nhiên bắt gặp một phụ nữ lái xe, điều này có thật vào thời ấy hơn là ngày nay. Với tôi nàng làm ra vẻ thân quen ngay, mượn cớ chuyện xe cộ kết hợp qua lại, rồi vẻ thân quen nhanh chóng bắt quàng, thoắt một cái nàng lọt vào giường tôi.   Lúc đầu tôi ngẩn người theo dáng khỏa thân của nàng, khoả thân một cách dễ chịu, bình thường, mặc lớp da không hơn không kém mặc một thứ gì khác, áo quần du lịch hay là áo dạ hội. Cái tệ nhất của một người phụ nữ là không biết mình có thể khỏa thân, quả tình là thế, là không biết còn có những cái thói khoả thân và có luôn cả lớp vỏ khoả thân. Và tôi buộc lòng nhận ra được ngay hạng người phụ nữ ngu ngơ này do dáng vẻ khô khan thế nào ấy, do cái áo cái quần dính bám vào da họ một cách dị kỳ.   Mái đầu nhỏ sắc nét khi nhìn nghiêng, nón bảo hộ quai đen, Rache có một thân hình chắc nịch, tròn trĩnh, chất nữ khá bất ngờ với bắp về ấm áp, bộ ngực với đôi nuốm tím chài rộng, thắt lưng thóp sâu, và một loạt mum múp rắn chắc không tì vết, bao nhiêu thứ tràn trề khỏi năm ngón tay ôm và tạo chung thành một toàn thể không chiếm lĩnh nổi. Về mặt tinh thần, nàng thuộc loại “như con trai” không có nét gì độc đáo đáng kể, đó là loại phụ nữ rất ăn khách của một tiểu thuyết bán chạy nào đó.   Nàng bảo toàn tính độc lập của mình nhờ nghề kế toán tốc hành, đi tới các nghệ nhân, các nhà buôn hoặc cai quản các xí nghiệp nhỏ trình bày đầy đủ các con số. Nàng là người Do Thái, tôi có dịp nhận ra khách hàng của nàng toàn là Do Thái, do đó càng rõ thêm tính cách riêng tư của các giấy tờ dưới tay của nàng.   Kể ra tôi có thể không hợp với các óc người ngược đời của nàng, một cách nhìn làm tan tành sự vật, một tình trạng ngọ nguậy của não cân khiến nàng ngay ngáy sợ hãi buồn chán, thế nhưng cái óc dí dỏm của nàng, cái tài nhìn ra khía cạnh phi lý sâu xa của con người, của tình huống, cái vui tính có nồng độ mà nàng biết cách làm dậy lên từ cái xám xịt của cuộc sống, tất cả những thứ ấy đều gây ảnh hưởng tốt cho cái tính tự nhiên vốn lầm lì của tôi.   Viết mấy dòng này, tôi buộc mình lường xem nàng có ý nghĩa như thế nào đối với tôi, và cổ họng tôi nghèn nghẹn khi tôi lặp lại rằng tôi đã mất Rachel. Rachel ạ, anh không thể nói là chúng ta có yêu nhau không, nhưng có điều chắc chắn là chúng ta đã cười thỏa thích với nhau, và như thế cũng là một cái gì đấy chứ?   Dù sao nàng vẫn cười và không hề có ác ý gì khi đề ra những tiền đề để cho cả hai, từ đó, bằng con đương khác nhau, đi đến kết luận giống nhau, là chia tay nhau.   Có khi nàng vụt đến, giao chiếu xe con cho thợ của tôi sửa hoặc súc, thế là chúng tôi thừa cơ lên phòng tôi, và nàng không khỏi thốt lên một lời gì đó muôn thuở có ý đùa bỡn cớt nhã có vẻ như lẫn lộn số phận chiếc xe với số phận nữ chủ nhân chiếc xe. Hôm ấy, vừa mặc áo xống, nàng vừa vu vơ đưa ra nhận xét rằng tôi làm tình “y như chim hoàng anh” vậy. Thoạt tiên tôi ngỡ nàng bắt tội tôi không hiểu biết, không biết cách. Nàng bảo không phải vậy. Giai do cái hấp tấp của tôi mà ra cả, theo nàng thì nó giống như bọn chim đóng dấu vội cho nhau để hoàn thành bổn phận vợ chồng. Rồi nàng mơ màng gợi nhớ kỷ niệm một trong những người yêu ngày trước, chắc hẳn là người đáng nhớ hơn cả. Hắn hứa với nàng sẽ hú hí với nàng ngay khi vào ngủ và sẽ không chịu buông trước khi trời sáng. Và hắn giữ y như lời, hành nàng cho tới khi ngày rạng. “Thật ra, nàng thật thà chua thêm, hai đứa đi ngủ muộn, mà đêm mùa ấy thì ngắn”.   Câu chuyện làm tôi liên tưởng đến chuyện chú dê con của ông Seguin muốn bắt chước con dê già nên cứu vớt danh dự bằng cách cầm cự suốt đêm với sói và mãi đến đầu sáng mới chịu bó tay.   Cũng nên để cho anh nghĩ rằng em có thể vồ ngay khi anh ngừng nghỉ, lời kết của Rachel.   Và lập tức tôi trông thấy nàng có dáng dấp con sói thật, với đôi mày đen, mũi hếch và mồm rộng hau háu. Lại một phen chúng tôi cười. Phen cuối cùng. Bởi tôi hiểu rằng cái đầu óc kế toán tốc hành của nàng đã chối từ sự bất kham của tôi và truy tầm được một nơi ngả lưng khác để đặt mình.   Y như chim hoàng anh. Lời nói thốt ra đã sáu tháng nay cứ âm trầm trong tôi. Lâu nay tôi biết rằng một trong những dạng thường nói đến hơn cả trong sự thất bại nam nữ là tình trạng xuất tinh sớm, nói chung là tình dục không biết nương giữ, trì kéo. Sự kết tội của Rachel đi xa, vì nàng nhắm nhe liệt tôi ở mấp mé tình trạng bất lực, hơn thế nữa nàng khai diễn nỗi bất hòa hợp đậm nét của lứa đôi, sự truất hữu thấm thía của phụ nữa suốt đời thụ tinh mà chẳng đời nào thoả dạ.   - Em sung sướng hay không, anh cóc cần mà. Mời các bạn đón đọc Chúa Tể Đầm Lầy của tác giả Pascal Lainé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lắng Nghe Tiếng Yêu - Carole Mortimer
Jude Marshall, Max và Will Davenport là ba người bạn thân từ còn đại học. Jude Marshall đứng đầu tập đoàn Marshall, lạnh lùng và tàn nhẫn, không hề nương tay trên thương trường. Max trở thành luật sư của Jude, kiểu người lạnh lùng và xa cách. Will Davenport là kiến trúc sư hàng đầu cho những công trình của Jude, ngang tàng và bướng bỉnh nhưng cũng được coi là hiền lành nhất trong bộ ba độc thân. Ba người đàn ông đẹp trai, giàu có và thành đạt, đã từng làm tan nát bao trái tim các thiếu nữ. Vậy mà họ lại bị hạ "knock out" một cách không khoan nhượng khi đối đầu với những người phụ nữ nhà Calendar: May, March, và January. Câu chuyện bắt đầu khi Tập đoàn Marshall muốn mua một vùng đất để xây dựng khu giải trí nhưng chỉ còn mỗi trang trại nho nhỏ nhà Calendar nằm chính giữa vùng đất là chưa chịu bán, và tất nhiên cả ba chị em nhà Calendar không hề có ý định bán đi trang trại yêu thương mang đầy ký ức của người cha mới mất gần một năm rưỡi trước của họ. Ở "Lọ Lem Bướng Bỉnh", chàng luật sư Max lạnh lùng đã đầu hàng vô điều kiện trước sự hấp dẫn và nhiệt tình của January xinh đẹp - cô em út của nhà Calendar. Và đến "Lắng nghe tiếng yêu", Will Davenport, anh chàng kiến trúc sư được coi là hiền lành nhất ba người cũng bị đánh bại bởi cô nàng March, người được coi là nóng tính và hung dữ nhất trong cả ba chị em nhà Calendar. Thật là một sự kết hợp hay ho. Họ gặp nhau lần đầu đã không hề thân thiện, (tất nhiên không hề biết danh tính của nhau) - nhất là từ phía March, khi mà anh chàng đột nhiên ở đâu xuất hiện lấy mất chỗ để xe mọi khi của cô, làm cô đi làm muộn. Một ngày mở đầu tồi tệ! Thế mà còn chưa đủ khi vô duyên lại phải chạm chán một lần nữa, lần này là trong văn phòng của cô khi anh muốn thuê nhà, và cô thì làm cho một văn phòng bất động sản. Thế là câu chuyện của cặp đôi "oan gia" bắt đầu. Bộ sách Calendar Mistress gồm có: Lọ Lem Bướng Bỉnh Lắng Nghe Tiếng Yêu Trang Trại Tình Yêu Carole Mortimer sinh năm 1960, là nhà văn người Anh được biết đến rộng rãi với hơn 150 tiểu thuyết lãng mãn. Bà là một trong những tác giả trẻ tuổi nhất của NXB Mills & Boon đồng thời cũng là một trong những người viết nhiều nhất của hãng này. *** Có lẽ cô say thật, bởi Will thật sự không thể vừa ngỏ lời cầu hôn cô. Anh có thể...? Cô trân trân nhìn anh, không thể đọc được bất cứ điều gì từ nét mặt kín như bưng ấy. Ngoại trừ... Lúc này, cô nhìn anh gần hơn, Will trông không tốt hơn cô, quầng thâm ngay bên dưới đôi mắt màu xanh rực rỡ, gương mặt cũng gầy hẳn, vẻ xanh xao mệt mỏi hiện trên hai má hốc hác. Có lẽ anh cũng khổ sở như cô suốt ba ngày qua? Có lẽ bởi cùng một nguyên nhân - bởi vì anh cũng yêu cô! Cô thấm ướt đôi môi khô khốc trước khi cẩn thận đặt cái ly rỗng xuống mặt bàn, đứng lên đến gần anh rồi ngước lên không chút ngần ngại, nhìn vào mặt anh. Vẻ mặt phòng bị của anh lung lay và biến mất, được thay bởi - Bởi cái gì? Không nắm chắc? Thận trọng? Hy vọng? Tất cả ba điều đó đang trao cho March sự tự tin đưa tay lên nhẹ nhàng vuốt ve một bên gò má thô ráp trước khi nhón chân và dịu dàng hôn vào môi anh. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Tiếng Yêu của tác giả Carole Mortimer.
Cô Gái Trong Gương - Cecelia Ahern
Sách gồm hai câu chuyện độc đáo, ấn tượng của Cecelia Ahern - tác giả có tiểu thuyết bán chạy nhất với rất nhiều giải thưởng và lời khen ngợi nồng nhiệt từ bạn đọc trên khắp thế giới. - CÔ GÁI TRONG GƯƠNG: viết về cuộc sống của một cô gái trẻ tên Lila. Hồn nhiên lớn lên bên người bà bị mù và ngôi nhà nhiều bí ẩn với những tấm gương luôn phủ kín, LiLa tận hưởng cuộc sống của mình. Rồi cô gặp được người đàn ông trong mơ và hai người quyết định tiến tới lễ cưới. Nhưng vào ngày hôn lễ diễn ra, một bí mật khủng khiếp trong gia đình bà cô bị hé lộ, và số phận của cô gái trẻ đã thay đổi một cách bất ngờ... - NGƯỜI TẠO RA KÝ ỨC: Tình đầu luôn là mối tình đẹp nhất. Nếu chẳng may tình yêu đó không có một kết thúc hạnh phúc, người ta vẫn luôn nâng niu gìn giữ những kỷ niệm đẹp. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi những ký ức bắt đầu phai nhạt theo tháng năm? Làm thế nào để giữ cho quá khứ không bị phủ bụi thời gian, và hàn gắn những con tim tan vỡ bằng việc lưu giữ những khoảnh khắc quý giá nhất? Một cỗ máy lạ lùng sẽ giúp người ta điều đó, nhưng liệu nó có đem lại hiệu quả như mong muốn? *** Cecelia Ahern, sinh ngày 30-9-1981, là con gái của cựu Thủ tướng Bertie Ahern Ireland, bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 2004. Ngoài ra, cô còn có nhiều truyện ngắn in trong các tuyển tập, mà tất cả nhuận bút đều được dành để làm từ thiện. Năm 2000, cô từng tham gia một ban nhạc về thứ ba trong cuộc thi nhạc pop toàn quốc để chọn ứng viên tham dự cuộc thi Eurovision Song. Trước khi bắt đầu viết văn, cô đã tốt nghiệp đại học ngành báo chí và truyền thông đại chúng. Năm 2002, Cecelia Ahern viết tiểu thuyết đầu tay, PS, I Love You, được xuất bản năm 2004, và sau đó trở thành sách bán chạy số 1 ở Ireland, Vương quốc Anh, Mỹ, Đức và Hà Lan. Nó cũng được bán ở hơn 40 nước khác. Cuốn sách cũng đã được chuyển thể thành phim và ra rạp năm 2007. Tiểu thuyết thứ hai của cô, Where Rainbows End (Nơi cuối cầu vồng), cũng là sách bán chạy số 1 ở Ireland và Vương quốc Anh, và giành giải CORINE của Đức năm 2005. Tiểu thuyết mới nhất của cô là 'Flawed' và đã được xuất bản cuối năm 2017.   Trước khi bắt tay vào sự nghiệp viết lách, Cecelia Ahern đã có bằng Báo chí và Truyền thông đại chúng. Hai mươi mốt tuổi, cô viết tiểu thuyết đầu tiên, Tái bút Anh yêu em. Cuốn sách ngay lập tức trở thành tiểu thuyết bán chạy nhất trên thế giới và được chuyển thể thành phim với sự tham gia diễn xuất của Hilary Swank. Những tiểu thuyết tiếp theo của cô: Nơi cuối cầu vồng, Nếu em thấy anh bây giờ, Có một nơi gọi là chốn này, Cảm ơn ký ức, Món quà bí ẩn, Cuốn sách của ngày mai đều là những cuốn sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết của cô được xuất bản ở bốn mươi sáu quốc gia và bán ra trên mười triệu bản. Cecelia cũng là nhà đồng sáng tạo seri hài kịch ăn khách trên kênh ABC Network Samantha Who? với sự tham gia diễn xuất của Christina Applegate. Năm 2008, Cecelia giành giải thưởng Nhà văn mới xuất sắc nhất tại lễ trao giải Người phụ nữ của năm của tạp chí Glamour. Cecelia hiện đang sống ở Dublin, Ireland. Để đăng ký nhận những bản tin độc quyền về Cecelia Ahern Harper-Collins và tìm hiểu thêm những cuốn sách, bài phỏng vấn, hình ảnh ... của Cecelia, hãy ghé vào trang www.cecelia-ahern.com. Các tác phẩm của Cecelia Ahern đã được xuất bản tại Việt nam: Sức Mạnh Tình Yêu - PS I Love You Nhật Ký Của Ngày Mai Năm Em Gặp Anh Nếu Em Thấy Anh Bây Giờ Nơi Cuối Cầu Vồng Cô Gái Trong Gương *** “Bà Grellie, bà Grellie, cháu tới rồi đây.” Lila gõ cửa, đầy phấn khích. Cô bé nhún hết chân này đến chân kia, cảm thấy đôi vớ đã trượt từ đầu gối xuống, cọ vào da rồi rũ thành một đống nhàu nhĩ quanh mắt cá chân, giống anh lính cứu hỏa say rượu mới tuột xuống từ cây cột. Cô kéo chiếc áo trong đang che hai bên má lạnh cóng ra, thổi sợi tóc tơ bị dính trên đôi môi ướt át và gõ lần nữa lên cánh cửa với những đốt ngón tay giờ đã đỏ ửng. “Sao cậu lại gọi bà là Grellie?” Cô gái nhỏ đứng bên cạnh Lila cuối cùng cũng lên tiếng. Giọng cô lạc lõng giữa cánh cửa khổng lồ. Cô nhận thấy điều đó và tiến lại gần Lila để tìm kiếm sự an toàn, giúp cô chống lại thứ gì đấy mà cô cũng không chắc lắm. Khu vườn phía trước nhà, nơi họ vừa đi qua trông như một cánh rừng; hoang vu và um tùm, không giống như vườn nhà Sarah tí nào. Ở đó, cứ hai tuần một lần, người làm vườn lại đến tỉa tót chăm sóc, đảm bảo rằng mọi thứ đối xứng và hoàn hảo, rồi nháy mắt với cô bất cứ khi nào anh nhìn thấy cô bé bên ô cửa sổ. Cô sẽ kết hôn với anh nếu cô đủ tuổi. Nhưng khu vườn này thì hoàn toàn khác. Cô cảm giác mình sẽ lạc đường mãi mãi nếu bước chệch ra khỏi những phiến đá lót đường được xếp đặt ngẫu nhiên dẫn đến cánh cửa trước. Những đóa hoa dại nồng hương rướn lên phía trên đầu cô, tò mò chen chúc nhìn vào bên trong ngôi nhà như thể chúng đang chiến đấu để giành lấy một khoảng không. Những nhánh cây cong ra, vặn vẹo theo những góc độ đáng lo ngại làm cho Sarah rùng mình. “Bà Grellie.” Lila gõ cửa lần nữa, tỏ ra mất kiên nhẫn. “Hãy thôi gọi bà như thế đi,” Sarah nói một cách lo lắng. “Tại sao cậu cứ gọi bà như thế?” Lila cuối cũng lấy lại được sự điềm tĩnh, ngưng bồn chồn và nhìn cô bạn một cách tò mò. Cô chuyển sang thế phòng thủ, mắt nheo lại. “Đây là bà Ellie của mình. Nên mình gọi bà là bà Grellie.” “Ồ. Có thể bà không có nhà. Chúng ta nên đi thôi.” ... Mời các bạn đson đọc Cô Gái Trong Gương của tác giả Cecelia Ahern.
Nữ Tu Sĩ - Denis Diderot
Nữ Tu Sĩ là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và châu Âu chống lại những sự hà lạm của nhà thờ. Từ lâu nhà thờ Thiên chúa giáo là dinh lũy của chế độ phong kiến phản động. Nhà vua chuyên chế, các giai cấp thống trị dùng nó làm một lợi khí đắc lực để mê hoặc và đàn áp sự phản kháng của nhân dân... Cuốn truyện cho ta thấy nhà tu kín quả thật là một địa ngục trần gian, ở đó hàng ngày diễn ra những cảnh tu nữ bị nhục hình, những cảnh điên loạn ghê sợ... Nhưng Nữ Tu Sĩ còn bao hàm một chủ đề tư tưởng khác: quyền lợi người phụ nữ trong xã hội. Xuydan không chỉ là một cô gái hiền lành, mộ đạo, cô còn là một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, một con người biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Bao nhiêu đe dọa, bao nhiêu nhục hình vẫn không làm cô ngã lòng. Hình ảnh Xuydan là hình ảnh những phụ nữ Pháp có nghị lực và can đảm, ngày mai đây sẽ cùng toàn dân xông vào phá ngục Baxti để giải phóng cho mình và giải phóng cho dân tộc. Cũng vì ý nghĩa cách mạng đó của tác phẩm mà Nữ Tu Sĩ, viết xong năm 1760, mãi đến năm 1796, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và sau khi nhà văn từ trần, mới được xuất bản. *** Denis Diderot (1713-1784) sinh ngày 5.10.1713 là nhà văn, nhà tư tưởng kiệt xuất, một trong những nhân vật khổng lồ, ưu tú nhất của phong trào Khai sáng ở Pháp thế kỷ XVIII. Sau khi xong bậc trung học, mặc dù cha ông muốn ông tìm việc làm, nhưng ông âm thầm theo học khoa Triết, Toán và cả Giải phẫu. Ra trường, ông tham gia làng báo và say mê viết lách. Năm 36 tuổi, ông cho ấn hành tập tiểu luận nhỏ “Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc”. Tập tiểu luận này đã khiến ông vào tù 3 tháng do bị cho là đụng chạm đến nhà cầm quyền thời đó. Năm 1751, ông cùng với Jean le Rond d'Alembert chủ biên bộ “Bách khoa toàn thư” đầu tiên trên thế giới, giảng giải về khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp. Bên cạnh đó, ông viết nhiều vở kịch, tiểu thuyết cùng những bài biên khảo về nghệ thuật, xác định những quy tắc của thể loại kịch, sáng lập môn phê bình nghệ thuật. Làm việc cần cù song ông vẫn nghèo. Mến mộ ông, Nữ hoàng Catherine II của Nga đã chu cấp tiền bạc cho ông hàng năm. Năm 1773, ông sang Nga để tạ ơn Nữ hoàng và được mời làm Viện sĩ danh dự nước ngoài Viện Hàn lâm Khoa học St. Pertersbug. Trong các tác phẩm triết học: Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc (1749), Những suy nghĩ giải thích giới tự nhiên (1754), Giấc mơ của d'Alembert (1769), Những nguyên tắc triết học của vật chất và vận động (1770), Diderot đã chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Trong tác phẩm "Người cháu họ của Rameau" viết khoảng năm 1762, ông nêu ra những luận điểm của phép biện chứng. Trong văn học, Diderot đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực với tiểu thuyết "Jacquies - kẻ theo thuyết định mệnh và ông chủ của anh ta"(1773) và truyện ngắn "Nữ tu sĩ" (1760), mà ông đã tiến hành đồng thời trong các tác phẩm phê bình nghệ thuật tạo hình "Các phòng triển lãm" (1759-1781) và sân khấu "Nghịch lý về diễn viên" (1773-1778). Ông mất ngày 31-7-1784 tại Paris, Pháp. Ngoài các tác phẩm triết học, văn chương, ông còn là người biên soạn chính của công trình Bách khoa toàn thư đồ sộ mà giá trị của nó đến nay vẫn còn phát huy tác dụng. *** Nữ tu sĩ là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và châu Âu chống lại những sự hà lạm của nhà thờ. Đã từ lâu nhà thờ Thiên chúa giáo là dinh lũy của chế độ phong kiến phản động. Nhà vua chuyên chế, các giai cấp thống trị dùng nó làm một lợi khí đắc lực để mê hoặc và đàn áp sự phản kháng của nhân dân. Chúng lập một mạng lưới nhà thờ dày đặc khắp thành thị và nông thôn nước Pháp. Có thể nói bóng đen của nhà thờ ngả xuống hầu hết ruộng đất của nước Pháp. Bên cạnh chính quyền vốn đã hà khắc của chế độ quân chủ chuyên chế để cai trị nhân dân về mặt pháp lý, lại có thêm thẩm quyền của tôn giáo để áp bức nhân dân về mặt linh hồn. Hầu hết những việc ma chay, cưới hỏi của nhân dân đều do nhà thờ quyết định. Để kìm hãm nhân dân trong ngu tối, nhà thờ tích cực hoạt động ngăn trở sự phát triển của khoa học, của triết học duy vật, nói tóm lại, của tiến bộ xã hội. Vì vậy mà từ trước đến nay, những nhà tư tưởng, những văn nghệ sĩ tiền tiến của các thời đại đều đã lên tiếng phản đối những học thuyết ngu dân của nhà thờ. Từ thời Phục hưng, Boccaccio, nhà văn Ý, trong các truyện của mình, cũng như viết hài kịch Pháp Molière ở thế kỷ XVIII, trong các vở Trường học làm vợ, Tartuffe, Don Juan đều đã vạch trần tính chất giả nhân giả nghĩa và những sự tàn bạo của nhà thờ. Viết Nữ tu sĩ, Diderot đã tiếp tục truyền thống chống những sự hà lạm của nhà thờ trong văn học Pháp và châu Âu. Qua sự mô tả cuộc đời của cô gái Suzanne ở các tu viện, ông lên án sự cuồng tín của tôn giáo, cuộc sống khổ hạnh cùng tất cả những biện pháp thô bạo được áp dụng trong nhà tu nhằm đàn áp lý trí, hủy hoại nhân cách con người. Đồng thời ông gián tiếp lên án chế độ đương thời đã làm chỗ dựa cho những hoạt động tôn giáo phản động như vậy. Cuốn truyện cho ta thấy nhà tu kín quả là địa ngục trần gian, ở đó hàng ngày diễn ra những cảnh tu nữ bị nhục hình, những cảnh điên loạn ghê rợn. Những kẻ được sủng ái thì hành hạ kẻ khác, những người bị ruồng bỏ thì trở thành nạn nhân của mọi sự hành hạ. Diderot cho ta thấy do một sự giáo dục khổ hạnh trái với tự nhiên, con người không còn giữ được bản chất tốt đẹp của mình, đúng như lời bà nhất Moni đã có lần nói với Suzanne: “Con ạ! Trong tất cả những người ở xung quanh chúng ta, những người rất mực ngoan ngoãn, trong trắng, dịu dàng, hầu như không có một người nào, phải, không có một người nào mà mẹ không thể làm cho họ trở thành con thú dữ”. Nhưng Nữ tu sĩ còn bao hàm một chủ đề tư tưởng khác: quyền lợi người phụ nữ trong xã hội. Diderot, cũng như các nhà Bách khoa khác, trong khi đấu tranh cho tự do, cho sự giải phóng của con người, đã nhiều lần lên tiếng bênh vực quyền lợi và địa vị của phụ nữ. Suzanne không chỉ là một cô gái hiền lành, mộ đạo, cô còn là một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, một con người biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Bao nhiêu đe dọa, bao nhiêu nhục hình vẫn không làm cô ngã lòng. Cô đã chiến thắng những tư tưởng bi quan, đầu hàng, và đã tìm mọi cách thoát ra khỏi tu viện hắc ám, tuy cuộc sống trước mắt còn dành cho cô sự hãi hùng. Hình ảnh Suzanne là hình ảnh người phụ nữ Pháp có nghị lực và can đảm, ngày mai đây sẽ cùng toàn dân xông vào phá ngục Bastille để giải phóng cho mình và giải phóng cho dân tộc. Cũng vì ý nghĩa cách mạng đó của tác phẩm mà Nữ tu sĩ, viết xong năm 1760, mãi đến năm 1796, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và sau khi nhà văn từ trần, mới được xuất bản. Truyện này được viết theo thể loại triết lý, một thể loại được sử dụng rộng rãi ở thế kỷ XVIII. Nhằm mục đích phổ biến rộng rãi các tư tưởng chính trị, triết học đến quảng đại quần chúng, các nhà văn Ánh sáng đã dùng những loại truyện này để làm cho người đọc dễ tiếp thụ những quan điểm của mình. Chúng ta đều biết Voltaire rất sở trường về loại văn này và đã để lại nhiều kiệt tác như Candide, Người chất phác… Các truyện khác của Diderot như Người cháu của Rameau, Jacques, anh chàng định mệnh chủ nghĩa đều là những truyện triết lý. Nhân vật Suzanne làm ta nghĩ đến hình ảnh những “con người tự nhiên” mà ta thường thấy trong nền văn học thế kỷ XVIII. Đó là những con người trong trắng, ngây thơ, chưa hề bị những ảnh hưởng xấu xa của các quan hệ tư sản làm hư hỏng. Suzanne không phải là một người vô thần, trái lại, cô hết lòng kính Chúa, mộ đạo. Nhưng lương tri sáng suốt của “con người tự nhiên” không thể chấp nhận những tội ác hàng ngày diễn ra trong tu viện, những nghi lễ vô lý người ta bày ra ở đấy để mê hoặc các nữ tu sĩ đáng thương Suzanne, do những điều chứng kiến ở tu viện, đã nhìn nhận được những lừa bịp trắng trợn của những kẻ mạo danh Chúa để làm những điều bỉ ổi. Đây là điểm là cho Nữ tu sĩ khác với truyện triết lý của nhiều nhà văn khác. Thường thường trong các truyện triết lý, nhà văn quan tâm đến sự minh họa tư tưởng của mình hơn là mô tả tâm lý nhân vật. Ngược lại, Suzanne có một đời sống nội tâm khá tế nhị, phong phú. Với một ngòi bút mang nhiều tính chất hiện thực sâu sắc, Diderot mô tả một cách tỉ mỉ những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Suzanne. Từ lòng tin Chúa ngây thơ, Suzanne đã dần dần đi tới chỗ hoài nghi, và từ đó đến chỗ phản kháng, phẫn nộ; cô gái hiền lành quen sống nhẫn nhục trong gia đình mà ở đó cô bị khinh bỉ đã dần dần trở nên một người dám nổi loạn chống áp bức, chống giả dối, chống thành kiến, chống tàn bạo. Ngoài Suzanne, các nhân vật như bà nhất và các tu nữ khác, cùng với những cơn điên loạn của họ, cũng đều có một đời sống tâm lý rõ rệt. Mời các bạn đón đọc Nữ Tu Sĩ của tác giả Denis Diderot.
Cái Chết của Ivan Ilich - Lev Tolstoy
Ivan Illich tuyệt vọng vì thấy cuộc đời mình đang chấm dứt. Trong thâm tâm, ông biết mình sắp chết. Ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ đối với ông. Ông không hiểu nó, hoàn toàn không thể hiểu được nó. Ông đã được học trong sách Luận Lý của Kizeveter một thí dụ của tam đoạn luận như sau : "Caius là một con người, mọi con người đều phải chết, nên Caius phải chết". Lý luận trên rất đúng khi nó được áp dụng cho Caius, nhưng không thể là sự thực khi nó được áp dụng cho ông. Khi nói đến Caius, hay con người nói chung, thì sự chết là tự nhiên, nhưng ông, ông không phải là Caius, cũng không phải là con người nói chung. Ông là một con người đặc thù, cá biệt, là Vania của bố, của mẹ, của Mitia và Volodia, với những đồ chơi, người đánh xe, chị giúp việc, và Katenka … với bao niềm vui, nỗi buồn, bao sự phấn khởi, say mê, của tuổi thơ, của lúc dậy thì và thời xuân trẻ. Caius có bao giờ ngửi thấy mùi thơm của quả bóng da mà Vania vô cùng yêu thích? Caius có bao giờ hôn bàn tay mẹ? Có bao giờ nghe tấm váy lụa của bà kêu sột soạt? Có phải ngày kia Caius đã gây bao ồn ào trong trường học, chỉ vì mấy cái bánh ngọt? Caius có từng yêu? Có từng chủ trì một cách thần tình những phiên tòa phức tạp (Ivan là một quan tòa cao cấp - NHV)? Caius phải chết, và cái chết của hắn là tự nhiên. Nhưng tôi, Vania, Ivan Illich, với tất cả những cảm xúc, trí tuệ, của riêng tôi, không liên hệ gì đến hắn. Cái chết của tôi là một nghịch lý, là phản tự nhiên một cách khủng khiếp. Ivan Illich tự nói với mình :  "Nếu tôi phải chết như Caius, thì tôi đã biết, một tiếng nói nội tâm nào đó đã báo cho tôi điều ấy. Nhưng tôi không hề nghe thấy gì về chuyện này. Tôi và các bạn tôi đều biết rất rõ là giữa chúng tôi và Caius có một sự khác biệt rất lớn.  Và, bây giờ, chuyện ấy lại xảy đến ! Không ! Không thể được ! Hoàn toàn không thể được ! Nhưng, nó vẫn đang xảy đến … Làm sao, làm sao hiểu được điều này?  Quả thật, ông không thể hiểu nổi, và cố sức gạt bỏ cái tư tưởng thường tình, sai lạc, bất công, bệnh hoạn ấy, để thay thế nó bởi những tư tưởng lành mạnh hơn, hợp lý hơn. Tuy nhiên, tư tưởng kia luôn quay lại, sừng sững trước mặt ông, không phải như một tư tưởng, mà như một thực tế" *** “Bá tước” Lev Nikolayevich Tolstoy sinh ngày 9 tháng 9 năm 1828 tại điền trang Yasnaya Polyana thuộc tỉnh Tula. Yasnaya Polyana là nơi Tolstoy khởi đầu sự sống của mình, là nơi khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nơi chứng kiến những tìm tòi, những biến chuyển trong nghệ thuật cũng như trong những tư tưởng triết lý, đạo đức của ông, và đó cũng là nơi mà vào đêm 28 tháng 10 năm 1910 ông đã chạy trốn khỏi, từ bỏ tất cả: gia đình, tài sản... để đi trên con tàu vô định đến cái chết khi đã ở tuổi 82 với tên tuổi đã nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm tiêu biểu Dịch thuật Một chuyến đi đầy xúc cảm qua Pháp và Ý Bút ký Những mẩu chuyện Sevastopol Một người cần bao nhiêu ruộng đất ? Tôn giáo của tôi Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn Tóm tắt Phúc âm   Truyện ngắn Bản sonata Kreytser (bản in năm 1901) Một lịch sử của ngày hôm qua (1851) Lucerne (1857) Ba cái chết Kholstomer Một cuộc xưng tội Hadji Murat Cái chết của Ivan Ilyich Đức cha Sergy (1898)   Tiểu thuyết Thời thơ ấu (1852) Thời niên thiếu (1855) Thời thanh niên (1856) Người Kazak (1963) Chiến tranh và Hòa bình (1865) Anna Karenina (1877) Con người sống bằng gì (1881) Bản sonata Kreytser (1889) Phục sinh (1899) *** Từ phút đó bắt đầu cuộc kêu rên liên tục suốt ba ngày, tiếng kêu rên khủng khiếp đến nỗi cách hai lần cửa, khi nghe thấy, người ta vẫn thấy khiếp sợ. Vào giây phút khi ông trả lời vợ, ông biết rằng ông đã đi đứt rồi, không cứu vãn được, thế là hết rồi, hết hẳn rồi, còn mối hoài nghi thế là đã không được giải quyết và vẫn sẽ cứ là một mối hoài nghi. - U! U-u! U! – ông kêu là bằng các giọng điệu khác nhau. Ông bắt đầu kêu: “Tôi không muốn!” – và cứ thế tiếp tục kêu theo âm “uốn”. Trong suốt ba ngày, ông không nhận ra thời gian, ông giãy giụa trong chiếc túi đen ngòm mà một sức mạnh vô hình không cưỡng lại được đã ném ông vào đó. Ông giãy giụa như kẻ bị án tử hình giãy giụa trong tay đao phủ, biết rằng mình không thể thoát được. Và cứ mỗi phút ông lại cảm thấy rằng bất chấp mọi nỗ lực đấu tranh, ông đang đi ngày càng gần tới chỗ ông khiếp sợ. Ông cảm thấy nỗi đau đớn giày vò ông cả ở chỗ ông đang bị cuốn vào cái lỗ đen ngòm đó và ông càng bị giày vò đau đớn hơn nữa, vì ông không thể lọt qua cái lỗ đó được. Cái ý nghĩ cho rằng cuộc sống của ông là tốt đẹp đã ngăn trở không cho ông chui lọt qua lỗ đó. Chính sự bào chữa cho cuộc sống của mình đã bám chặt, không thả cho ông lăn đi và nó làm cho ông đau đớn nhiều hơn cả. Bỗng nhiên, một sức mạnh nào đó thúc vào ngực, vào sườn ông, ông càng thấy nghẹt thở hơn, ông lăn xuống cái lỗ và ở đấy, tại đáy lỗ có cái gì sáng lóe lên. Tình hình xảy ra với ông cũng giống như khi ông ngồi trên một toa xe lửa: ông tưởng tàu sẽ chạy về phía trước, nhưng nó lại chạy về phía sau, và ông bỗng nhiên nhận ra hướng đi thật của con tàu. ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết của Ivan Ilich của tác giả Lev Tolstoy.